Bản án số 74/2025/DS-PT ngày 19/02/2025 của TAND cấp cao tại Đà Nẵng về tranh chấp hợp đồng tín dụng
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 74/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 74/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 74/2025/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 74/2025/DS-PT ngày 19/02/2025 của TAND cấp cao tại Đà Nẵng về tranh chấp hợp đồng tín dụng |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng tín dụng |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND cấp cao tại Đà Nẵng |
Số hiệu: | 74/2025/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 19/02/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Không chấp nhận kháng cáo của ông Võ Văn T3 và bà Võ Thị T2, giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 100/2024/DSST ngày 30 tháng 9 năm 2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình. |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI ĐÀ NẴNG
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số: 74/2025/DS-PT
Ngày: 19/02/2025
V/v “Tranh chấp hợp đồng tín dụng”.
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa:
Ông Phùng Anh Dũng
Các Thẩm phán:
Ông Lê Văn Thường
Ông Nguyễn Tấn Long
- Thư ký phiên tòa: Bà Đinh Thị Trang, Thẩm tra viên Tòa án nhân dân cấp
cao tại Đà Nẵng
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng tham gia phiên
tòa: Ông Lê Văn Thành, Kiểm sát viên.
Ngày 19 tháng 02 năm 2025, tại điểm cầu trung tâm trụ sở Tòa án nhân dân
cấp cao tại Đà Nẵng và điểm cầu thành phần trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Quảng
Bình xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 281/2024/TLPT-DS
ngày 12 tháng 11 năm 2024 về việc “Tranh chấp hợp đồng tín dụng”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 100/2024/DSST ngày 30 tháng 9 năm 2024
của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 310/2025/QĐ-PT ngày 21 tháng
01 năm 2025, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ngân hàng TMCP Phát triển Thành phố H (H1); Địa chỉ: B
Bis N, phường B, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh.
Đại diện theo pháp luật: Ông Phạm Quốc T - Tổng Giám đốc.
Đại diện theo ủy quyền: Ông Phạm Nhật T1 - Giám đốc Ngân hàng TMCP
Phát triển Thành phố H - Chi nhánh Q.
Đại diện theo ủy quyền lại: Ông Trần Nguyên H - Trưởng bộ phận quan hệ
khách hàng (có mặt) và ông Hoàng Viết X - Chuyên viên quan hệ khách hàng
(vắng mặt) Ngân hàng TMCP Phát triển Thành phố H - chi nhánh Q; Địa chỉ: số
C đường T, phường N, thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình.
2
- Bị đơn: Ông Hoàng Văn Đ, sinh năm 1977 và bà Võ Thị T2, sinh năm
1980; Đều trú tại: Thôn Đ, xã Đ, huyện B, tỉnh Quảng Bình. Hiện ông Hoàng
Văn Đ và bà Võ Thị T2 đang ở nước ngoài, vắng mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Võ Văn T3 và bà Võ Thị N;
Đều trú tại: Thôn Đ, xã Đ, huyện B, tỉnh Quảng Bình, có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và tại phiên toà người đại diện theo ủy
quyền của Ngân hàng TMCP Phát triển Thành phố H (Ngân hàng H2) trình bày:
Ngày 15/10/2020, Ngân hàng H1 chi nhánh Q và ông Hoàng Văn Đ, bà Võ
Thị T2 đã ký Hợp đồng tín dụng số 17393.01/20MB/HĐTD với số tiền vay
700.000.000 đồng, mục đích sửa chữa nhà, thời hạn vay 120 tháng, lãi suất trong
hạn quy định theo từng kế ước nhận nợ theo thoả thuận của hai bên, lãi quá hạn
150% lãi suất trong hạn tại thời điểm chuyển nợ quá hạn, lãi suất chậm trả
10%/năm. Khoản vay được giải ngân theo các đề nghị giải ngân kiêm khế ước
nhận nợ: KUNN01: 17369.01/20MB/HĐTD/KUNN01 ngày 16/10/2020 số tiền
nhận nợ 700.000.000 đồng. Bảo đảm cho nghĩa vụ trả nợ của khoản vay tại hợp
đồng tín dụng trên ông Hoàng Văn Đ và bà Võ Thị T2 đã ký với Ngân hàng H1
chi nhánh Q Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số 17369.01/20MB/HĐBĐ
ngày 15/10/2020 quyền sử dụng đất tại thửa đất số 255, tờ bản đồ số 5, diện tích
179m
2
địa chỉ tại thôn Đ, xã Đ, huyện B, tỉnh Quảng Bình, theo giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số
CB129569, số vào sổ cấp GCN CH01209 do Ủy ban nhân dân huyện B cấp
ngày 06/8/2015 mang tên ông Hoàng Văn Đ và bà Võ Thị T2. Hợp đồng được
công chứng ngày 15/10/2020 tại Văn phòng C, đăng ký giao dịch bảo đảm ngày
16/10/2020 tại Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện B, tỉnh Quảng Bình.
Quá trình thực hiện hợp đồng vay ông Hoàng Văn Đ và bà Võ Thị T2 đã không
thực hiện nghĩa vụ trả nợ theo cam kết nên khoản vay chuyển nợ quá hạn. Tính
đến ngày 30/9/2024 ông Hoàng Văn Đ và bà Võ Thị T2 còn nợ số tiền theo hợp
đồng 708.066.614 đồng trong đó nợ gốc 553.744.170 đồng, lãi trong hạn
118.741.195 đồng, lãi quá hạn 23.896.580 đồng, lãi chậm trả 11.684.669 đồng.
Ngày 09/11/2021, Ngân hàng H1 chi nhánh Q và ông Hoàng Văn Đ, bà Võ
Thị T2 đã ký Hợp đồng tín dụng số 24912/21MB/HĐTD với số tiền vay
1.000.000.000 đồng, mục đích đầu tư mở rộng cơ sở kinh doanh nhà hàng tiệc
cưới, thời hạn vay 84 tháng, lãi suất trong hạn quy định theo từng kế ước nhận
nợ theo thoả thuận của hai bên, lãi quá hạn 150% lãi suất trong hạn tại thời điểm
chuyển nợ quá hạn, lãi suất chậm trả 10%/năm. Khoản vay được giải ngân theo
các đề nghị giải ngân kiêm khế ước nhận nợ:
3
KUNN01:24912/21/HĐTD/KUNN) 1 ngày 09/11/2021, số tiền nhận nợ
1.000.000.000 đồng. Bảo đảm cho nghĩa vụ trả nợ của khoản vay tại hợp đồng
tín dụng nói trên, ông Hoàng Văn Đ và bà Võ Thị T2 đã thỏa thuận thế chấp
quyền sử dụng đất tại thửa đất số 323, tờ bản đồ số 17, diện tích 349,8m
2
địa chỉ
tại thôn Đ, xã Đ, huyện B, tỉnh Quảng Bình, theo giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CM 649292, số
vào sổ cấp GCN CS 02148 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Q cấp ngày
22/6/2018 mang tên ông Hoàng Văn Đ và bà Võ Thị T2 theo hợp đồng thế chấp
tài sản đã ký trước đó, đã được công chứng ngày 15/10/2020 tại Văn phòng C,
đăng ký giao dịch bảo đảm ngày 16/10/2020 tại Chi nhánh Văn phòng đăng ký
đất đai huyện B, tỉnh Quảng Bình. Quá trình thực hiện hợp đồng vay ông Hoàng
Văn Đ và bà Võ Thị T2 đã không thực hiện nghĩa vụ trả nợ theo cam kết nên
khoản vay chuyển nợ quá hạn. Tính đến ngày 30/9/2024 ông Hoàng Văn Đ và
bà Võ Thị T2 còn nợ số tiền theo hợp đồng 1.271.328.756 đồng trong đó nợ gốc
1.000.000.000 đồng, lãi trong hạn 232.954.969 đồng, lãi quá hạn 15.790.828
đồng, lãi chậm trả 22.582.959 đồng
Ngoài ra, ông Hoàng Văn Đ có yêu cầu mở thẻ tín dụng tại H1 với hạn
mức thẻ tín dụng là 50.000.000 đồng, dư nợ thẻ tín dụng đến ngày 01/10/2023 là
43.433.985 đồng (trong đó nợ gốc 26.035.234 đồng, lãi 12.317.994 đồng, phí
5.080.757 đồng). Bà Võ Thị T2 mở thẻ tín dụng tại H1 với hạn mức thẻ tín dụng
20.000.000 đồng, dư nợ thẻ tín dụng đến ngày 02/10/2023 là 18.270.907 đồng
(trong đó nợ gốc 10.378.078, lãi 4.861.167 đồng, phí 3.031.662 đồng). Đề nghị
ông Đ, bà T2 phải thanh toán cho Ngân hàng. Tại phiên tòa, đại diện Ngân hàng
H2 rút yêu cầu khoản nợ thẻ tín dụng.
Để bảo đảm việc thu hồi nợ vay, Ngân hàng H2 đề nghị Toà án nhân dân
tỉnh Quảng Bình xử buộc ông Hoàng Văn Đ và bà Võ Thị T2 thanh toán cho
Ngân hàng số tiền tạm tính đến ngày 30/9/2024 theo hai hợp đồng tín dụng
1.979.395.370 đồng trong đó nợ gốc 1.553.744.170 đồng, lãi trong hạn
351.696.164 đồng, lãi quá hạn 39.687.408 đồng, lãi chậm trả 34.267.628 đồng
và tiền lãi phát sinh theo thỏa thuận tại Hợp đồng đã ký cho đến ngày ông
Hoàng Văn Đ và bà Võ Thị T2 trả xong nợ cho Ngân hàng.
Trường hợp ông Hoàng Văn Đ và bà Võ Thị T2 không thực hiện nghĩa vụ
trả nợ gốc và lãi, đề nghị tuyên xử lý các tài sản theo hợp đồng thế chấp hai bên
đã ký kết để thu hồi nợ.
Về phía bị đơn ông Hoàng Văn Đ và bà Võ Thị T2:
Tại Công văn số 30258/QLXNC-P3 ngày 13/11/2023 của Cục Q1 và Công
văn số 602/CV-QLXNC ngày 05/3/2024 của Phòng Q2 Công an tỉnh Q xác định
ông Hoàng Văn Đ và bà Võ Thị T2 đã xuất cảnh ra nước ngoài. Tòa án đã tiến
4
hành thủ tục niêm yết các văn bản tố tụng của Tòa án tại nơi cư trú của ông
Hoàng Văn Đ và bà Võ Thị T2 và tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình,
đồng thời làm thủ tục đăng tin thông báo về việc giải quyết vụ án trên kênh H3
VOV5 và đã phát vào ngày 28/3/2024 đến ngày 30/3/2024. Đến nay phía bị đơn
ông Hoàng Văn Đ và bà Võ Thị T2 không có ý kiến trình bày.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Võ Văn T3 và bà Võ Thị N tại
bản tự khai ngày 16/4/2024 trình bày:
Năm 2014, vợ chồng ông, bà có mua lại thửa đất 255, tờ bản đồ số 5 của
ông Hoàng Văn Đ và bà Võ Thị T2 với giá 200.000.000 đồng, chiều dài khoảng
13m, chiều rộng khoảng 12m. Do quan hệ anh em nên việc mua bán chỉ bằng
miệng không có giấy tờ mua bán gì và ông bà cũng không cầm giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất. Ông Đ, bà T2 hứa trong năm 2014 sẽ sang sổ đỏ cho vợ
chồng ông, bà nhưng không thực hiện cho đến nay. Khi Ngân hàng khởi kiện,
được Toà án triệu tập ông, bà mới biết thửa đất trên ông Đ, bà T2 đã thế chấp
Ngân hàng. Trên đất có nhà ông bà xây để ở từ tháng 4/2014 giá 170.000.000
đồng. Ông bà cho rằng không liên quan đến tranh chấp giữa Ngân hàng với ông
Đ, bà T2 và đề nghị không xử lý tài sản thế chấp.
Ngày 04/4/2024, Toà án nhân dân tỉnh Quảng Bình đã tiến hành xem xét
thẩm định tại chỗ đối với 02 thửa đất là tài sản thế chấp có địa chỉ tại thôn Đ, xã
Đ, huyện B, tỉnh Quảng Bình, kết quả như sau:
- Thửa đất số 323, tờ bản đồ số 17: phía Đông Nam giáp đường giao thông
có kích thước 14m (điểm 1-2); phía Đông Bắc giáp thửa 324 có kích thước 25m
(điểm 2-3); phía Tây Bắc giáp thửa 322 có kích thước 13,9m (điểm 3-4); phía
Tây Nam giáp thửa 322 có kích thước 25m (điểm 4-1). Tổng diện tích 349.8m
2
Trên đất có 01 cây táo, đường kính gốc cây 0.5m, tán cây rộng 3.5m, ngoài
ra trên đất không có tài sản gì khác.
- Thửa đất số 255, tờ bản đồ số 5 (nay là thửa 181, tờ bản đồ số 17, BDĐC
năm 2023): phía Đông Bắc giáp đường giao thông có kích thước 13,4m (điểm 1-
2); phía Tây Bắc giáp thửa đất số 169 có kích thước 13,18m điểm 2-3); phía Tây
Nam giáp thửa 182 có kích thước 12,31m (điểm 3-4); phía Đông Nam giáp
đường giao thông có kích thước 13,88m (điểm 1-4). Tổng diện tích 173,7m
2
(thiếu 5,3m
2
so với Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất).
Trên đất có 01 nhà cấp 4 diện tích 7,7m
2
+ 22,8m
2
(trong đó 22,8m
2
nằm
trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, còn 7,7m
2
nằm trên thửa đất khác.
Phía trước nhà có mái tôn có kích thước 45.84m
2
giáp đường giao thông, có
hàng rào, trụ cổng, cửa lưới sắt, xung quanh nhà có hàng rào xây, 01 cây mưng.
Ngoài ra không có tài sản gì khác.
5
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 100/2024/DSST ngày 30 tháng 9 năm
2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình quyết định:
Căn cứ Điều 30, khoản 3 Điều 35, Điều 37, Điều 147, Điều 154, Điều 157,
điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 474, điểm b khoản 5 Điều 477 của Bộ
luật Tố tụng dân sự; Điều 40, Điều 117, Điều 119, Điều 317, Điều 318, Điều
319, Điều 463, Điều 465, Điều 466, Điều 468 Bộ luật Dân sự; Điều 91, Điều 95
Luật các tổ chức tín dụng năm 2010; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày
30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu,
miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng H1 buộc ông Hoàng Văn Đ
và bà Võ Thị T2 phải trả cho Ngân hàng H1 theo 02 hợp đồng tín dụng số tiền
1.979.395.370 đồng trong đó nợ gốc 1.553.744.170 đồng, lãi trong hạn
351.696.164 đồng, lãi quá hạn 39.687.408 đồng, lãi chậm trả 34.267.628 đồng
và tiền lãi phát sinh theo thỏa thuận tại các Hợp đồng tín dụng đã ký cho đến
ngày ông Hoàng Văn Đ và bà Võ Thị T2 trả xong nợ cho Ngân hàng.
Trong trường hợp ông Hoàng Văn Đ và bà Võ Thị T2 không trả nợ hoặc trả
nợ không đủ thì Ngân hàng H1 có quyền yêu cầu xử lý tài sản thế chấp theo các
Hợp đồng thế chấp tài sản số 17369.01/20MB/HĐBĐ ngày 15/10/2020 quyền
sử dụng đất tại thửa đất số 255, tờ bản đồ số 5, diện tích 173,7m
2
(Có sơ đồ kèm
theo): phía Đông Bắc giáp đường giao thông có kích thước 13,4m (điểm 1-2);
phía Tây Bắc giáp thửa đất số 169 có kích thước 13,18m điểm 2-3); phía Tây
Nam giáp thửa 182 có kích thước12,31m (điểm 3-4); phía Đông Nam giáp
đường giao thông có kích thước 13,88m (điểm 1-4 tại thôn Đ, xã Đ, huyện B,
tỉnh Quảng Bình, theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở
và tài sản khác gắn liền với đất số CB129569, số vào sổ cấp GCN CH01209 do
Ủy ban nhân dân huyện B cấp ngày 06/8/2015 mang tên ông Hoàng Văn Đ và
bà Võ Thị T2; Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số 17369/20MB/HĐBĐ
ngày 15/10/2020 quyền sử dụng đất tại thửa đất số 323, tờ bản đồ số 17, diện
tích 349,8m
2
địa chỉ tại thôn Đ, xã Đ, huyện B, tỉnh Quảng Bình, theo giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với
đất số CM 649292, số vào sổ cấp GCN CS 02148 do Sở Tài nguyên và Môi
trường tỉnh Q cấp ngày 22/6/2018 mang tên ông Hoàng Văn Đ và bà Võ Thị T2.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về chi phí tố tụng, án phí, quyền
kháng cáo và thi hành án theo quy định của pháp luật.
Sau khi xét xử sơ thẩm, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Võ
Văn T3, bà Võ Thị N có đơn kháng cáo trong thời hạn luật định.
6
Tại phiên toà phúc thẩm, người kháng cáo vẫn giữ nguyên nội dung kháng
cáo. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng đề nghị Hội đồng xét
xử không chấp nhận kháng cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại
phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, ý kiến của Kiểm sát
viên, Hội đồng xét xử nhận định:
[1]. Về tố tụng: Bị đơn ông Hoàng Văn Đ và bà Võ Thị T2 được xác định
không có mặt tại nơi cư trú trong thời gian thực hiện hợp đồng được coi là
trường hợp đương sự thay đổi nơi cư trú, làm việc gắn với việc thực hiện quyền,
nghĩa vụ trong giao dịch Hợp đồng mà không thông báo cho phía Ngân hàng
biết về nơi cư trú, làm việc mới theo quy định tại khoản 3 Điều 40 Bộ luật Dân
sự thì được coi là cố tình giấu địa chỉ, căn cứ điểm a khoản 2 Điều 6 Nghị quyết
số 04/2017/NQ-HĐTP ngày 05/5/2017 của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao
về Hướng dẫn một số quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 192 Bộ luật Tố tụng
dân sự về trả lại đơn khởi kiện, quyền nộp đơn khởi kiện lại vụ án, Tòa án tiếp
tục giải quyết vụ án theo thủ tục chung.
Tại phiên tòa, bị đơn vắng mặt lần thứ hai không có lý do. Căn cứ các Điều
227, Điều 228, khoản 5 Điều 477 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử vẫn
tiến hành xét xử vụ án vắng mặt bị đơn.
[2]. Về nội dung:
[2.1] Xét kháng cáo của ông Võ Văn T3 và bà Võ Thị N thì thấy:
Ông Võ Văn T3 và bà Võ Thị N cho rằng đã mua lại thửa đất trên của ông
Hoàng Văn Đ và bà Võ Thị T2 bằng miệng không có loại giấy tờ gì vì là chị em
với nhau nên tin tưởng và xây nhà ở năm 2014, do việc mua bán trên chỉ bằng
miệng không có giấy tờ gì, nên chưa làm thủ tục sang tên, ông T3 và bà N chưa
nhận giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Với nội dung trình bày như trên thì
không có căn cứ để cho rằng đó là tài sản của ông T3, bà N mà xác định đây là
tài sản của ông Hoàng Văn Đ và bà Võ Thị T2 đã được thế chấp cho Ngân hàng
để đảm bảo các khoản vay theo Hợp đồng tín dụng số 17393.01/20MB/HĐTD
với số tiền vay 700.000.000 đồng, mục đích sửa chữa nhà, thời hạn vay 120
tháng. Ngày 09/11/2021, Ngân hàng H1 chi nhánh Q và ông Hoàng Văn Đ, bà
Võ Thị T2 đã ký Hợp đồng tín dụng số 24912/21MB/HĐTD với số tiền vay
1.000.000.000 đồng, mục đích đầu tư mở rộng cơ sở kinh doanh nhà hàng tiệc
cưới, thời hạn vay 84 tháng. Lãi suất theo hai hợp đồng tín dụng lãi trong hạn
quy định theo từng kế ước nhận nợ theo thoả thuận của hai bên, lãi quá hạn
7
150% lãi suất trong hạn tại thời điểm chuyển nợ quá hạn, lãi suất chậm trả
10%/năm. Do ông Hoàng Văn Đ và bà Võ Thị T2 không thực hiện nghĩa vụ trả
nợ theo cam kết nên cả các khoản vay đều chuyển sang nợ quá hạn. Xét thấy
việc các bên ký kết các hợp đồng tín dụng là hoàn toàn tự nguyện, có nội dung
hình thức đúng quy định pháp luật, làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên
khi tham gia ký kết hợp đồng. Tính đến ngày xét xử sơ thẩm (30/9/2024) ông
Hoàng Văn Đ và bà Võ Thị T2 còn nợ Ngân hàng H1 theo 02 hợp đồng tín dụng
số tiền 1.979.395.370 đồng trong đó nợ gốc 1.553.744.170 đồng, lãi trong hạn
351.696.164 đồng, lãi quá hạn 39.687.408 đồng, lãi chậm trả 34.267.628 đồng.
Vì vậy, yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng H1 buộc ông Hoàng Văn Đ và bà Võ
Thị T2 phải có nghĩa vụ trả nợ toàn bộ số tiền trên và tiền lãi phát sinh theo thỏa
thuận tại các Hợp đồng tín dụng đã ký cho đến ngày ông Hoàng Văn Đ và bà Võ
Thị T2 trả xong nợ cho Ngân hàng.
[2.2]. Đối với tài sản thế chấp: Để đảm bảo nghĩa vụ của các khoản vay
ông Hoàng Văn Đ và bà Võ Thị T2 với Ngân hàng H1 đã ký các Hợp đồng thế
chấp tài sản số 17369.01/20MB/HĐBĐ ngày 15/10/2020 quyền sử dụng đất tại
thửa đất số 255, tờ bản đồ số 5, diện tích 179m
2
địa chỉ tại thôn Đ, xã Đ, huyện
B, tỉnh Quảng Bình, theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà
ở và tài sản khác gắn liền với đất số CB129569, số vào sổ cấp GCN CH01209
do Ủy ban nhân dân huyện B cấp ngày 06/8/2015 mang tên ông Hoàng Văn Đ
và bà Võ Thị T2; Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số 17369/20MB/HĐBĐ
ngày 15/10/2020 quyền sử dụng đất tại thửa đất số 323, tờ bản đồ số 17, diện
tích 349,8m
2
địa chỉ tại thôn Đ, xã Đ, huyện B, tỉnh Quảng Bình, theo giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với
đất số CM 649292, số vào sổ cấp GCN CS 02148 do Sở Tài nguyên và Môi
trường tỉnh Q cấp ngày 22/6/2018 mang tên ông Hoàng Văn Đ và bà Võ Thị T2.
Các hợp đồng thế chấp đều được công chứng và đăng ký giao dịch bảo đảm tại
cơ quan có thẩm quyền đúng theo quy định. Theo kết quả xem xét thẩm định tại
chỗ của Tòa án thể hiện tài sản thế chấp là quyền sử dụng thửa đất số 323, tờ
bản đồ số 17, diện tích 349.8m
2
theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thuộc
quyền sở hữu hợp pháp của bên thế chấp, hiện không có tranh chấp với ai. Đối
với thửa đất số 255, tờ bản đồ số 5, diện tích 179m
2
địa chỉ tại thôn Đ, xã Đ,
huyện B, tỉnh Quảng Bình kết quả thẩm định tổng diện tích 173,7m
2
(thiếu
5,3m
2
so với Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất). Trên đất có 01 nhà cấp 4
diện tích 7,7m
2
+ 22,8m
2
(trong đó 22,8m
2
nằm trong Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất còn 7,7m
2
nằm trên thửa đất khác). Hiện ông Võ Văn T3 và bà Võ Thị
N đang sinh sống trên thửa đất.
8
Do đó, Toà án cấp sơ thẩm đã chấp nhận đơn khởi kiện của Ngân hàng
TMCP phát triển Thành phố H là có căn cứ đúng pháp luật.
Tại phiên toà phúc thẩm, ông T3, bà N không đưa ra được các tài liệu,
chứng cứ nào mới để chứng minh cho yêu cầu kháng cáo của mình là có căn cứ
nên Hội đồng xét xử không có cơ sở xem xét.
Vì vậy, Hội đồng xét xử không có cơ sở để chấp nhận kháng cáo của ông
Võ Văn T3 và bà Võ Thị N, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Nếu ông T3, bà N thấy quyền lợi của mình bị ảnh hưởng thì có quyền khởi
kiện bằng một vụ án dân sự khác để được xem xét giải quyết.
[3]. Về án phí: Do kháng cáo không được chấp nhận nên ông T3, bà N
phải chịu án phí dân sự phúc thẩm 300.000 đồng được khấu trừ vào số tiền tạm
ứng án phí đã nộp.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 308 BLTTDS;
1. Không chấp nhận kháng cáo của ông Võ Văn T3 và bà Võ Thị T2, giữ
nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 100/2024/DSST ngày 30 tháng 9 năm 2024
của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình.
Căn cứ Điều 30, khoản 3 Điều 35, Điều 37, Điều 147, Điều 154, Điều 157,
điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 474, điểm b khoản 5 Điều 477 của Bộ
luật Tố tụng dân sự; Điều 40, Điều 117, Điều 119, Điều 317, Điều 318, Điều
319, Điều 463, Điều 465, Điều 466, Điều 468 Bộ luật Dân sự; Điều 91, Điều 95
Luật các tổ chức tín dụng năm 2010; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày
30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu,
miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, xử:
2. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng H1 buộc ông Hoàng Văn Đ
và bà Võ Thị T2 phải trả cho Ngân hàng H1 theo 02 hợp đồng tín dụng số tiền
1.979.395.370 đồng trong đó nợ gốc 1.553.744.170 đồng, lãi trong hạn
351.696.164 đồng, lãi quá hạn 39.687.408 đồng, lãi chậm trả 34.267.628 đồng
và tiền lãi phát sinh theo thỏa thuận tại các Hợp đồng tín dụng đã ký cho đến
ngày ông Hoàng Văn Đ và bà Võ Thị T2 trả xong nợ cho Ngân hàng.
Trong trường hợp ông Hoàng Văn Đ và bà Võ Thị T2 không trả nợ hoặc trả
nợ không đủ thì Ngân hàng H1 có quyền yêu cầu xử lý tài sản thế chấp theo các
Hợp đồng thế chấp tài sản số 17369.01/20MB/HĐBĐ ngày 15/10/2020 quyền
sử dụng đất tại thửa đất số 255, tờ bản đồ số 5, diện tích 173,7m
2
(Có sơ đồ kèm
theo): phía Đông Bắc giáp đường giao thông có kích thước 13,4m (điểm 1-2);
phía Tây Bắc giáp thửa đất số 169 có kích thước 13,18m điểm 2-3); phía Tây
Nam giáp thửa 182 có kích thước 12,31m (điểm 3-4); phía Đông Nam giáp
9
đường giao thông có kích thước 13,88m (điểm 1-4 tại thôn Đ, xã Đ, huyện B,
tỉnh Quảng Bình, theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở
và tài sản khác gắn liền với đất số CB129569, số vào sổ cấp GCN CH01209 do
Ủy ban nhân dân huyện B cấp ngày 06/8/2015 mang tên ông Hoàng Văn Đ và
bà Võ Thị T2; Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số 17369/20MB/HĐBĐ
ngày 15/10/2020 quyền sử dụng đất tại thửa đất số 323, tờ bản đồ số 17, diện
tích 349,8m
2
địa chỉ tại thôn Đ, xã Đ, huyện B, tỉnh Quảng Bình, theo giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với
đất số CM 649292, số vào sổ cấp GCN CS 02148 do Sở Tài nguyên và Môi
trường tỉnh Q cấp ngày 22/6/2018 mang tên ông Hoàng Văn Đ và bà Võ Thị T2.
3. Kế tiếp sau ngày tuyên án sơ thẩm (30/9/2024) cho đến khi bên phải thi
hành án trả hết nợ gốc, hàng tháng bên phải thi hành án dân sự còn phải chịu
khoản tiền lãi phát sinh từ số tiền còn thi hành theo mức lãi suất theo hợp đồng
tín dụng mà các bên đã ký kết.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật
Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án
dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện
thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9
Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại
Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
4. Về án phí: Ông Võ Văn T3 và bà Võ Thị N phải chịu số tiền 300.000
đồng án phí dân sự phúc thẩm. Nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí
300.000 đồng theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0005120 ngày 24/10/2024
của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình.
5. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng
nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
6. Bản án dân sự phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- TAND tối cao;
- VKSND cấp cao tại Đà Nẵng;
- TAND tỉnh Quảng Bình;
- VKSND tỉnh Quảng Bình;
- Cục THADS tỉnh Quảng Bình;
- Những người tham gia tố tụng;
- Lưu HSVA, PHCTP, LT.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Đã ký
Phùng Anh Dũng
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 13/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 11/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 10/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 10/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 09/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 08/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 01/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 01/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 31/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 31/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 28/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 27/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 27/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 27/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 26/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 26/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 26/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 26/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 26/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
20
Ban hành: 26/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm