Bản án số 73/2025/DS-ST ngày 24/09/2025 của Tòa án nhân dân khu vực 12 - Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh về tranh chấp quyền sử dụng đất

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 73/2025/DS-ST

Tên Bản án: Bản án số 73/2025/DS-ST ngày 24/09/2025 của Tòa án nhân dân khu vực 12 - Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh về tranh chấp quyền sử dụng đất
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp quyền sử dụng đất
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: Tòa án nhân dân khu vực 12 - Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh
Số hiệu: 73/2025/DS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 24/09/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Hồ Trọng Đ - Trương B, Phạm Thị Thu S
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
KHU VỰC 12 – THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Bản án số: 73/2025/DS-ST
Ngày: 24-9-2025
V/v tranh chấp quyền sử dụng đất.
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN KHU VỰC 12 THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH,
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm:
Thẩm phán Chủ tọa phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Thùy
Các Hội thẩm nhân dân:
1. Bà Trần Thị Hậu
2. Ông Trần Đình Hải
- Thư phiên tòa: Ông Lâm Công Chức Thư ký Tòa án của Tòa án nhân dân
khu vực 12 – Thành phố Hồ Chí Minh
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Khu vực 12 Thành phố Hồ Chí Minh tham
gia phiên tòa: Hoàng Thị Hồng Kiểm sát viên.
Vào ngày 24 tháng 9 năm 2025 tại phòng xử án, Tòa án nhân dân khu vực 12
Thành phố Hồ Chí Minh xét xử thẩm công khai vụ án dân sự thụ số
536/2022/TLST-DS ngày 06 tháng 12 năm 2022 về việc “Tranh chấp quyền sử dụng
đất yêu cầu bồi thường thiệt hại” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số
59/2025/XXST-DS ngày 13 tháng 8 năm 2025 Quyết định hoãn phiên tòa số
57/2025/QĐST-DS ngày 03 tháng 9 năm 2023 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Ông Hồ Trọng Đ, sinh năm: 1958 (vắng mặt)
Địa chỉ: 16/18 đường số 5, khu phố 1, phường Hiệp Bình Chánh, Thành phố
Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh (nay phường Hiệp Bình, Thành phố Hồ Chí
Minh)
Người đại diện theo ủy quyền: Bà Tiêu Thị Ngọc T, sinh năm: 1997 (có mặt)
Địa chỉ: 60/2 Nguyễn Văn Trỗi, phường 4, thành phố Vũng Tàu, tỉnh Rịa
Vũng Tàu (nay là phường Vũng Tàu, Thành phố Hồ Chí Minh)
Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Luật ông Phạm
Duy H Văn phòng luật sư Phạm Duy (có đơn đề nghị xét xử vắng mặt)
Địa chỉ: 29 Ngô Đức Kế, phường 7, thành phố Vũng Tàu, tỉnh Rịa Vũng
Tàu (nay là phường Thắng Tam, Thành phố Hồ Chí Minh)
2. Bị đơn:
2.1. Ông Trương B, sinh năm: 1947 (có mặt)
2.2. Phạm Thị Thu S, sinh năm: 1950 (có mặt)
Cùng địa chỉ: 1007/59/10 Lạc Long Quân, phường 11, quận Tân Bình, Thành
2
phố Hồ Chí Minh (nay là phường Bảy Hiền, Thành phố Hồ Chí Minh)
Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của bị đơn ông Trương B: Ông Trần
Hoàng Hải P Công ty TNHH TVL (mặt)
Địa chỉ: Tầng 2, số 47 Nguyễn Minh Hoàng, phường Bảy Hiền, Thành phố Hồ
Chí Minh.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Tại đơn khởi kiện đề ngày 08/01/2022, đơn sửa đổi bổ sung yêu cầu khởi kiện
đề ngày 11/3/2024 của nguyên đơn ông Hồ Trọng Đ trong quá trình giải quyết
người đại diện theo ủy quyền nguyên đơn là bà Tiêu Thị Ngọc T trình bày:
Phần đất tranh chấp thuộc thửa 1073, tờ bản đồ số 16, phường Mỹ Xuân, thị xã
Phú Mỹ, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu (nayphường Phú Mỹ, Thành phố Hồ Chí Minh) có
nguồn gốc như sau:
Năm 1981, bà Lê Thị N mua của bà Đương Thị V theo giấy nhượng đất và hoa
màu ngày 09/7/1981. Sau gia đình nhờ ông Tạ Thạnh (hiện không địa chỉ đâu)
trông coi đất. theo bản án số 43/DSPT ngày 20/9/1999 Tòa án nhân dân tỉnh Rịa
Vũng Tàu (cũ) đã tuyên xử: Công nhận quyền sử dụng đất cho N theo bản vẽ của
cán bộ địa chính đất tứ cận: Đông giáp đất ông Phước: 10m; Tây giáp đất quốc lộ
51A: 23,7m; Nam giáp đất ông Em: 54,2m; Bắc giáp đất ông B: 53m, với diện tích
1.400m
2
Trên đất đã hai căn nhà, cùng một số cây trồng trên đất, đất đã hàng
ranh hàng râm bụt tường rào bao quanh đất. Sau khi bản án thì gia đình đã
được Ủy ban nhân dân huyện Tân Thành, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu cấp giấy chứng nhận
số T 291968 ngày 14/11/2001 diện tích 943m
2
thuộc thửa 1073, tờ bản đồ 16. Việc cấp
giấy chứng nhận này chưa đúng với phần diện tích theo bản án mà Tòa án nhân tỉnh Bà
Rịa Vũng Tàu đã tuyên, còn thiếu 457m
2
. Khi nhận giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất thì N đã biết phần diện tích được cấp 943m nhưng không ý kiến đối
với việc cấp thiếu này. do cho việc N không ý kiến đối với phần cấp thiếu
khi đó N thiếu hiểu biết về pháp luật, nghĩ rằng đối với phần chưa được cấp
giấy chứng nhận thì vẫn quản lý sử dụng nên không có khiếu nại gì đối với việc cấp
thiếu này.
Năm 2001 N bịnh bệnh nên năm 2002 gia đình đưa về Huế để sinh sống
chữa bệnh. Năm 2018 N tặng cho lại phần đất này cho ông Hồ Trọng Đ đã
được Chi nhánh văn phòng đăng đất đai huyện Tân Thành (nay thành phố Phú
Mỹ) cập nhật biến động sang tên cho ông Hồ Trọng Đ vào ngày 29/01/2018.
Sau khi được nhận tặng cho phần đất này, ông Đ thực hiện việc quản sử
dụng đất. Đến năm 2021, ông Đ yêu cầu công ty đo vẽ đến đo vẽ phần đất của ông
Đ được nhận tặng cho từ N thì ông Đ phát hiện phần đất của ông Đ bị ông Trương
B, Phạm Thị Thu S lấn của ông Đ phần đất diện tích khoảng 51,66m
2
thuộc thửa
1073, tờ bản đồ số 16 (nay thửa 238, tờ bản đồ số 26) phường Mỹ Xuân, thị Phú
Mỹ, tỉnh Rịa Vũng Tàu (nay phường Phú Mỹ, thành phố Hồ Chí Minh). Nên
ông Đ đã tiến hành khởi kiện ông B, S, Tr ông Tr yêu cầu ông B, S, Tr
3
và ông Tr trả lại cho ông Đ phần đất có diện tích nêu trên.
Tuy nhiên, sau khi Tòa án nhân dân thị Phú Mỹ, tỉnh Rịa Vũng Tàu
(nay Tòa án nhân dân khu vực 12 Thành phố Hồ Chí Minh) tiến hành đo đạc lại
phần đất tranh chấp thì theo đồ vị trí do Trung tâm kỹ thuật tài nguyên môi
trường tỉnh Rịa Vũng Tàu lập ngày 22/12/2023 được vẽ bổ sung ngày 17/02/2025
cung cấp thì phần đất ông B, S, Tr ông Tr lấn của ông Đ bị giảm còn
32,1m
2
bao gồm vị trí cụ thể như sau:
Vị trí A gồm các điểm (21, 34, 31, 35, 20, 21) 17m
2
thuôc thửa 1019 tờ bản
đồ số 16 (nay thưa 211, tờ bản đồ số 26) vị trí B gồm các điểm (20, 35, 32, 19,
33. 20) 15,1m
2
thuộc thửa 1073, tờ bản đồ số 16 (nay thửa 238, tờ bản đồ số 26),
phường Mỹ Xuân, thành phố Phú Mỹ, tỉnh Rịa Vũng Tàu (nay phường Phú
Mỹ, Thành phố Hồ Chí Minh)
Do đó, bà đại diện nguyên đơn xác đinh yêu cầu khởi kiện và buộc ông Trương
B,bà Phạm Thị Thu S, Huỳnh Ngọc Trà, ông Huỳnh Lâm Trí trả lại cho ông Hồ
Trọng Đ phần đất diện tích 17m
2
thuộc thửa 1019 tờ bản đồ số 16 (nay là thưa 211,
tờ bản đồ số 26) 15,1m
2
thuộc thửa 1073, tờ bản đồ số 16 (nay thửa 238, tờ bản
đồ số 26), phường Mỹ Xuân, thành phố Phú Mỹ, tỉnh Rịa Vũng Tàu (nay
phường Phú Mỹ, Thành phố Hồ Chí Minh). Yêu cầu ông Trương B phải bồi thường
thiệt hại do ông B tự ý đập tường rào xác định ranh giới đất giữa ông B ông Đ
5.400.000 đồng (năm triệu bốn trăm nghìn đồng)
Ngày 11 tháng 9 năm 2025 Tiêu Thị Ngọc T đơn đề nghị thay đổi yêu
cầu khởi kiện, Thy đại diện nguyên đơn xác định nguyên đơn chỉ yêu cầu ông
Trương B Phạm Thị Thu S trách nhiệm trả lại cho ông Hồ Trọng Đ phần đất
diện tích 17m
2
thuộc thửa 1019 tờ bản đồ số 16 (nay thưa 211, tờ bản đồ số 26)
và 15,1m
2
thuộc thửa 1073, tờ bản đồ số 16 (nay thửa 238, tờ bản đồ số 26), phường
Mỹ Xuân, thành phố Phú Mỹ, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu (nay là phường Phú Mỹ, Thành
phố Hồ Chí Minh), nguyên đơn xin rút một phần yêu cầu khởi kiện buộc Huỳnh
Ngọc Trà ông Huỳnh Lâm Trí phải trách nhiệm trả phần đất nêu trên ngày
26/4/2023 Tr ông Tr đã văn bản từ chối nhận di sản do Đài để lại. nguyên
đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu ông Trương B phải bồi thường thiệt hại do ông B tự ý đập
tường rào xác định ranh giới đất giữa ông B ông Đ 5.400.000 đồng (năm triệu
bốn trăm nghìn đồng)
Tại phiên tòa, nguyên đơn vẫn giữ nguyên ý kiến yêu cầu nêu trên không
ý kiến yêu cầu gì khác.
Trong quá trình giải quyết vụ án bị đơn ông Trương B Phạm Thị Thu S
trình bày:
Khoảng năm 2003 ông nhận chuyển nhượng của ông Nguyễn Thanh
Bình Nguyễn Thị Phụng thửa 1019, tờ bản đồ số 16 diện tích 2.135m
2
. Sau
khi nhận chuyển nhượng từ ông B Phụng thì ông được Ủy ban nhân dân
huyện Tân Thành, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho
hộ Phạm Thị Thu S vào ngày 16/12/2003. Sau đó ông tặng cho toàn bộ thửa đất
4
nêu trên cho con gái Trương Thị Giang Đài đã được Ủy ban nhân dân huyện
Tân Thành, tỉnh Rịa Vũng Tàu cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở
hữu nhà tài sản khác gắn liền với đất số BB212714, số vào sổ cấp giấy chứng
nhận CH 00261 vào ngày 15/3/2010 cho bà Trương Thị Giang Đài.
Năm 2016 Đài chết. Hàng thừa kế thứ nhất của Đài gồm ông Trương B,
Phạm Thị Thu S, Huỳnh Ngọc Trà, ông Huỳnh Lâm Trí đã thực hiện việc phân
chia di sản thừa kế của Đài để lại. Theo đó, đối với thửa đất 1019 tờ bản đồ số 16
(naythửa 211, tờ bản đồ số 26) thì ông được hưởng di sản thừa kế của bà Đài.
Tr ông Tr đã văn bản từ chối nhận di sản thừa kế của Đài đối với thửa 1019,
tờ bản đồi số 16 (nay thửa 211, tờ bản đồ số 26) vào ngày 26/4/2023 được lập tại
Văn phòng công chứng Nguyễn Quốc Cường số 519/5-519/7 Kinh Dương Vương, khu
phố 6, phường An Lạc, quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh. Do đó, hiện nay ông
chủ sở hữu của phần đất thuộc thửa 1019, tờ bản đồi số 16 (nay thửa 211, tờ
bản đồ số 26)
Đối với yêu cầu khởi kiện của ông Hồ Trọng Đ ông bà có ý kiến như sau:
Ông không lấn của ông Đ. Ông đồng ý với bản vẽ đồ vị trí do Trung
tâm kỹ thuật Tài nguyên Môi trường tỉnh Rịa Vũng Tàu lập ngày 22/12/2023
và được vẽ bổ sung ngày 17/02/2025
Vị trí A gồm các điểm (21, 34, 31, 35, 20, 21) 17m
2
thuôc thửa 1019 tờ bản
đồ số 16 (nay thưa 211, tờ bản đồ số 26) phường Mỹ Xuân, thành phố Phú Mỹ, tỉnh
Rịa Vũng Tàu (nay phường Phú Mỹ, Thành phố Hồ Chí Minh) của ông
nên ông bà không đồng ý trả lại cho ông Đ
Vị trí B gồm các điểm (20, 35, 32, 19, 33, 20) 15,1m
2
thuộc thửa 1073, tờ
bản đồ số 16 (naythửa 238, tờ bản đồ số 26), phường Mỹ Xuân, thành phố Phú Mỹ,
tỉnh Rịa Vũng Tàu (nay phường Phú Mỹ, Thành phố Hồ Chí Minh) của ông
Hồ Trọng Đ nên ông Đ được quyền quản lý sử dụng, ông bà không lấn của ông Đ. Ông
Đ thể liên hệ với quan đo vẽ để cắm mốc theo đúng ranh của đồ vị trí này.
Đất của ai người đó quản lý sử dụng.
Đối với yêu cầu bồi thường thiệt hại 5.400.000 đồng thì ông B không đồng ý
vì ông không phải là người đập hàng rào xác định ranh giới đất.
Đối với việc định giá tài sản thì ông hoàn toàn đồng ý với biên bản định giá
tài sản ngày 28/5/2025 của Hội đồng định giá. Ông bà không yêu cầu định giá lại.
Ngoài ra, ông bà không có ý kiến yêu cầu gì khác.
Tại phiên tòa: ông vẫn giữ nguyên ý kiến nêu trên không ý kiến yêu
cầu gì khác.
Tại quan điểm bảo vệ của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên
đơn ông Hồ Trọng Đ luật Phạm Duy H trình bày: Phần đất theo giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất nguyên đơn được cấp vào năm 2001 943m
2
, nhưng theo kết
quả đo vẽ trong quá trình giải quyết vụ án thì phần diện tích đất của nguyên đơn bị
giảm còn 913,2m
2
. Bị thiếu gần 30m
2
. Diện tích đang tranh chấp giữa nguyên đơn với
bị đơn 32,1m
2
, gần bằng diện tích đất ông Đ đang bị thiếu. Do đó, căn cứ vào Bộ
5
luật dân sự năm 2015 luật đất đai, hành vi lấn chiếm đất của người khác sai quy
định pháp luật nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của
nguyên đơn.
Tại phiên tòa người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn ông Trương B
luật sư Trần Hoàng Hải P trình bày:
Đối với phần đất diện tích 15,1m
2
thuộc thửa 1073, tờ bản đồ số 16 (nay
thửa 238, tờ bản đồ số 26), phường Mỹ Xuân, thành phố Phú Mỹ, tỉnh Rịa Vũng
Tàu (nay phường Phú Mỹ, Thành phố Hồ Chí Minh) bị đơn không lấn của nguyên
đơn, phần đất này nằm trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của nguyên đơn thì
nguyên đơn có quyền sử dụng.
Đối phần đất diện tích 17m
2
thuộc thửa 1019 tờ bản đồ số 16 (nay thưa
211, tờ bản đồ số 26) phường Mỹ Xuân, thành phố Phú Mỹ, tỉnh Rịa Vũng Tàu
(nay phường Phú Mỹ, Thành phố Hồ Chí Minh) thì bị đơn không đồng ý trả lại
đất này nằm trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của bị đơn, bị đơn đã được nhà
nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
Đối với yêu cầu buộc ông Trương B bồi thường thiệt hại 5.400.000 đồng thì bị
đơn không đồng ý bị đơn không phải người đập hàng rào hàng rào này nguyên
đơn cũng thừa nhận không phải là do nguyên đơn là người xây dựng.
Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân khu vực 12 – Thành phố Hồ Chí
Minh phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng
xét xử, Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án
kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án và phát biểu ý kiến về
việc giải quyết vụ án như sau:
Căn cứ các điều 26, 35, 39, 227 BLTTDS; Điều 26, 235, 236 Luật đất đai năm
2024; Điều 584 BLDS 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016
của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí lệ phí Tòa án: đề nghị Hội đồng xét xử
chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Buộc ông Trương B, Phạm Thị Thu S trả lại cho ông Hồ Trọng Đ phần đất
15,1m
2
thuộc thửa 1073, tờ bản đồ số 16 (nay thửa 238, tờ bản đồ số 26), phường
Mỹ Xuân, thành phố Phú Mỹ, tỉnh Rịa Vũng Tàu (nay phường Phú Mỹ, Thành
phố Hồ Chí Minh).
Không chấp nhận đối với yêu cầu buộc ông Trương B, Phạm Thị Thu S trả lại
cho ông Hồ Trọng Đ phần đất diện tích 17m
2
thuộc thửa 1019 tờ bản đồ số 16 (nay
là thưa 211, tờ bản đồ số 26) phường Mỹ Xuân, thành phố Phú Mỹ, tỉnh Bà Rịa – Vũng
Tàu (nay là phường Phú Mỹ, Thành phố Hồ Chí Minh).
Không chấp nhận đối với yêu cầu buộc ông Trương B phải bồi thường thiệt hại do
ông B tự ý đập tường rào xác định ranh giới đất giữa ông B ông Đ 5.400.000
đồng (năm triệu bốn trăm nghìn đồng).
Đình chỉ yêu cầu đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc buộc
Huỳnh Ngọc Trà ông Huỳnh Lâm Trí trách nhiệm trả cho nguyên đơn phần đất
diện tích 17m
2
thuộc thửa 1019 tờ bản đồ số 16 (nay thửa 211, tờ bản đồ số 26)
phần đất diện tích 15,1m
2
thuộc thửa 1073 (mới 238) tờ bản đồ số 16 (mới 26)
thuộc phường Phú Mỹ, Thành phố Hồ Chí Minh.
6
Về án phí: Đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Nguyên đơn ông Hồ Trọng Đ khởi kiện yêu cầu ông B, bà S, trả lại phần
đất diện tích 17m
2
thuộc thửa 1019 tờ bản đồ số 16 (nay thưa 211, tờ bản đồ số
26) 15,1m
2
thuộc thửa 1073, tờ bản đồ số 16 (nay thửa 238, tờ bản đồ số 26),
phường Mỹ Xuân, thành phố Phú Mỹ, tỉnh Rịa Vũng Tàu (nay phường Phú
Mỹ, Thành phố Hồ Chí Minh). Yêu cầu ông Trương B phải bồi thường thiệt hại số tiền
5.400.000 đồng (năm triệu bốn trăm nghìn đồng). Đây tranh chấp về quyền sử
dụng đất tranh chấp bồi thường thiệt hại theo quy định tại khoản 6, 9 Điều 26 Bộ
luật tố tụng dân sự 2015.
[2] Đối tượng tranh chấp là bất động sản tọa lạc tại phường Mỹ Xuân, thị xã
Phú Mỹ, tỉnh Rịa Vũng Tàu (nay phường Phú Mỹ, Thành phố Hồ Chí Minh)
nên theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm c khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng
dân sự 2015 Điều 4 Nghị quyết số 81/2025/UBTVQH15 ngày 27/6/2025 của Ủy
ban Thường vụ Quốc hội thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân
khu vực 12 – Thành phố Hồ Chí Minh.
[3] Xét các yêu cầu của đương sự:
3.1. Ngày 11/9/2025 nguyên đơn xin rút một phần yêu cầu khởi kiện đối với
Huỳnh Ngọc Trà, ông Huỳnh Lâm Trí nên Hội đồng xét xử xác định Huỳnh Ngọc
Trà ông Huỳnh Lâm Trí không phải bị đơn trong vụ án này, do đó, Hội đồng xét
xử đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện về việc buộc Huỳnh Ngọc Trà ông
Huỳnh Lâm Trí trả lại phần đất có diện tích 17m
2
thuộc thửa 1019 tờ bản đồ số 16 (nay
thưa 211, tờ bản đồ số 26) 15,1m
2
thuộc thửa 1073, tờ bản đồ số 16 (nay thửa
238, tờ bản đồ số 26), phường Mỹ Xuân, thành phố Phú Mỹ, tỉnh Rịa Vũng Tàu
(nay là phường Phú Mỹ, Thành phố Hồ Chí Minh)
3.2. Xét yêu cầu của nguyên đơn về việc yêu cầu bị đơn ông Trương B, bà Phạm
Thị Thu S trả lại cho nguyên đơn phần đất diện tích diện tích 17m
2
thuộc thửa
1019 tờ bản đồ số 16 (nay thửa 211, tờ bản đồ số 26) 15,1m
2
thuộc thửa 1073, tờ
bản đồ số 16 (naythửa 238, tờ bản đồ số 26), phường Mỹ Xuân, thành phố Phú Mỹ,
tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu (nay là phường Phú Mỹ, Thành phố Hồ Chí Minh)
Theo sơ đồ vị trí của Trung tâm Kỹ thuật Tài nguyên và Môi trường tỉnh Bà Rịa
Vũng Tàu lập ngày 17/02/2025 thì vị trí phần đất tranh chấp hiệu vị trí A
vị trí B trên sơ đồ vị trí như sau:
Vị trí A thuộc thửa 211 (cũ 1019), tờ bản đồ số 26 (cũ 16) diện tích 17m
2
gồm các điểm (21, 34, 31, 35, 20, 21)
Vị trí B thuộc thửa 238 (cũ 1073), tờ bản đồ số 26 (cũ 16) diện tích 15,1m
2
gồm các điểm (20, 35, 32, 19, 33, 20)
Xét nguồn gốc thửa 211 (cũ 1019), tờ bản đồ số 26 (cũ 16) do ông Trương
B Phạm Thị Thu S nhận chuyển nhượng của ông Nguyễn Thanh Bình vào ngày
13/9/1992. Ngày 21/9/1996 Phạm Thị Thu S làm đơn xin cấp giấy chứng nhận
7
quyền sử dụng đất, ngày 26/12/2003 Ủy ban nhân dân huyện Tân Thành, tỉnh Rịa
Vũng Tàu cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số X 271452 cho hộ Phạm Thị
Thu S đối với phần đất thuộc thửa 1019, tờ bản đồ số 16. Ngày 23/01/2010 ông Trương
B và bà Phạm Thị Thu S đã tặng cho phần đất này cho bà Trương Thị Giang Đài. Ngày
15/3/2010, Ủy ban nhân dân huyện Tân Thành, tỉnh Rịa Vũng Tàu đã cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất cho Trương Thị Giang Đài theo giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BB212714
Do đó, Hội đồng xét xử sở xác định phần đất này của nhân
Trương Thị Giang Đài. Đài chết ngày 04/10/2016. Chồng của Đài ông Huỳnh
Lâm Sơn, chết ngày 29/12/2012, hàng thừa kế thứ nhất của bà Đài gồm ông Trương B,
Phạm Thị Thu S, Huỳnh Ngọc Trà, ông Huỳnh Lâm Trí. Ngày 26/4/2023
Huỳnh Ngọc Trà ông Huỳnh Lâm Trí có văn bản từ chối nhận di sản thừa kế của bà
Đài đối với phần đất thuộc thửa 1019, tờ bản đồ số 16, địa chỉ xã Mỹ Xuân, huyện Tân
Thành, tỉnh Rịa Vũng Tàu (nay là phường Phú Mỹ, Thành phố Hồ Chí Minh). Do
đó, Hội đồng xét xử sở xác định phần đất thuộc thửa 1019 tờ bản đồ số 16 di
sản thừa kế của Đài để lại cho ông Trương B Phạm Thị Thu S. Quá trình giải
quyết vụ án tại phiên tòa, nguyên đơn không đưa ra được bất kỳ tài liệu chứng cứ
nào chứng minh cho phần đất này là của nguyên đơn nên Hội đồng xét xử không
sở chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc buộc bị đơn phải trả cho
nguyên đơn phần đất diện tích 17m
2
thuộc thửa 1019 tờ bản đồ số 16 (nay thửa
211, tờ bản đồ số 26) tương ứng với vị trí A gồm các điểm (21, 34, 31, 35, 20, 21) trên
đồ vị trí ngày 17/02/2025 của Trung tâm Kỹ thuật Tài nguyên Môi trường tỉnh
Bà Rịa – Vũng Tàu
Xét nguồn gốc thửa 238 (cũ 1073), tờ bản đồ số 26 (cũ 16) nguồn gốc như
sau: Ngày 16/5/2001 bà Thị N (mẹ của ông Hồ Trọng Đ) có đơn xin cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất. Ngày 14/11/2001 N được Ủy ban nhân dân huyện Tân
Thành, tỉnh Rịa Vũng Tàu cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ
Thị N đối với phần đất thuộc thửa 1073, tờ bản đồ số 16. Ngày 06/12/2017 hộ gia đình
bà N đã tặng cho toàn bộ phần đất thuộc thửa 1073, tờ bản đồ số 16 cho ông Hồ Trọng
Đ. Ngày 29/01/2018 Văn phòng đăng đất đai huyện Tân Thành, tỉnh Bà Rịa Vũng
Tàu cập nhật biển động sang tên cho ông Hồ Trọng Đ.
Tại sơ đồ vị trí của Trung tâm Kỹ thuật Tài nguyên và Môi trường tỉnh Bà Rịa –
Vũng Tàu lồng ghép ranh đất của nguyên đơn bị đơn tại thời điểm cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất cho nguyên đơn bị đơn lên đồ vị trí thể hiện khu B
diện tích 15,1m
2
trong đó có 11,8m
2
đều nằm trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
của nguyên đơn bị đơn nhưng trong quá trình giải quyết vụ án tại phiên tòa bị
đơn đồng ý với ranh bản đồ địa chính đồng ý trả lại cho nguyên đơn phần đất
diện tích 15,1m
2
thuộc thửa 1073 (mới 238) tờ bản đồ số 16 (mới 26). Đây sự tự
nguyện của bị đơn, không trái luật nên Hội đồng xét xử ghi nhận sự tự nguyện này của
bị đơn, vậy, Hội đồng xét xử sở chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn
về việc buộc bị đơn phải trả cho nguyên đơn phần đất nêu trên.
8
Do bị đơn đồng ý trả cho nguyên đơn phần diện tích này nên Hội đồng xét xử
không đưa người kế thừa quyền nghĩa vụ tố tụng của Ủy ban nhân dân thành phố
Phú Mỹ, tỉnh Rịa Vũng Tàu (cũ) Ủy ban nhân dân phường Phú Mỹ, Thành phố
Hồ Chí Minh vào tham gia tố tụng với cách người quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan trong vụ án.
3.3. Xét yêu cầu của nguyên đơn về việc yêu cầu bị đơn phải bồi thường thiệt
hại số tiền 5.400.000 đồng
Nguyên đơn cho rằng bị đơn ông Trường Bình tự ý đập hàng rào ranh giới đất
giữa nguyên đơn bị đơn nhưng nguyên đơn không cung cấp được bất kỳ tài liệu
chứng cứ nào chứng minh cho yêu cầu của nguyên đơn hợp pháp theo thông báo về
việc giao nộp chứng cứ ngày 14/8/2024 của Tòa án nhân dân thị Phú Mỹ, tỉnh
Rịa – Vũng Tàu (nay là Tòa án nhân dân khu vực 12 thành phố Hồ Chí Minh). Do đó
căn cứ vào khoản 4 Điều 91 Bộ luật tố tụng dân sự Hội đồng xét xử không chấp nhận
yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
[4] Về chi phí tố tụng: Chi phí đo đạc, thẩm định tại chỗ, sao lục tài liệu
chứng cứ chi phí định giá 13.717.000 đồng. Nguyên đơn chịu 6.858.500 đồng.
Nguyên đơn đã nộp đủ số tiền này. Bị đơn chịu 6.858.500 đồng, do nguyên đơn đã tạm
ứng nên bị đơn có trách nhiệm hoàn trả cho nguyên đơn số tiền này.
[5] Về án phí: Do yêu cầu của nguyên đơn được Hội đồng xét xử chấp nhận
một phần nên nguyên đơn phải chịu án phí dân sự thẩm đối với phần không được
chấp nhận bị đơn phải chịu án phí đối với phần yêu cầu của nguyên đơn được Hội
đồng xét xử chấp nhận theo quy định tại Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015
Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc
hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa
án. Cụ thể, ông Hồ Trọng Đ chịu án phí giá ngạch đối với phần đất không được
chấp nhận yêu cầu bồi thường thiệt hại 580.250 đồng án phí dân sự thẩm, ông
Trương B Phạm Thị Thu S chịu án phí giá ngạch đối với phần đất được chấp
nhận 300.000 đồng án phí dân sự thẩm. Tuy nhiên do ông Đ, ông B S thuộc
trường hợp người cao tuổi quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết
326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội đơn
đề nghị xin miễn nộp án phí gửi Tòa án nên ông Đ, ông B, S được miễn án phí theo
quy định của pháp luật.
các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào khoản 6, khoản 9 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm c khoản 1
Điều 39, khoản 4 Điều 91, Điều 147, khoản 1, điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 228,
Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;
Căn cứ vào Điều 166, Điều 170, khoản 1 Điều 203 Luật đất đai năm 2013;
9
Căn cứ vào Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của
Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản sử
dụng án phí và lệ phí Tòa án
Tuyên xử:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Hồ Trọng Đ đối
với bị đơn ông Trương B, bà Phạm Thị Thu S về việc tranh chấp quyền sử dụng đất
Buộc ông Trương B Phạm Thị Thu S trách nhiệm trả lại cho ông Hồ
Trọng Đ phần đất có diện tích 15,1m
2
thuộc thửa 1073 (mới 238) tờ bản đồ số 16 (mới
26) phường Phú Mỹ, Thành phố Hồ Chí Minh tương ứng với vị trí B gồm các điểm
(20, 35, 32, 19, 33, 20) theo đồ vị trí của Trung tâm Kỹ thuật Tài nguyên Môi
trường tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu cấp ngày 17/02/2025
2. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Hồ Trọng Đ về
việc buộc bị đơn ông Trương B Phạm Thị Thu S trả lại phần đất diện tích
17m
2
thuộc thửa 1019 tờ bản đồ số 16 (nay là thửa 211, tờ bản đồ số 26) tương ứng với
vị trí A gồm các điểm (21, 34, 31, 35, 20, 21) theo đồ vị trí ngày 17/02/2025 của
Trung tâm kỹ thuật tài nguyên và môi trường tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu
3. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Hồ Trọng Đ về
việc buộc ông Trương B bồi thường thiệt hại số tiền 5.400.000 đồng (năm triệu bốn
trăm nghìn đồng
4. Đình chỉ đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc buộc Huỳnh
Ngọc Trà ông Huỳnh Lâm Trí trách nhiệm trả cho nguyên đơn phần đất diện
tích 17m
2
thuộc thửa 1019 tờ bản đồ số 16 (nay thửa 211, tờ bản đồ số 26) phần
đất diện tích 15,1m
2
thuộc thửa 1073 (mới 238) tờ bản đồ số 16 (mới 26) thuộc
phường Phú Mỹ, Thành phố Hồ Chí Minh.
5. Về chi phí tố tụng: ông Hồ Trọng Đ chịu 6.858.500 đồng (sáu triệu tám
trăm năm mươi tám nghìn năm trăm đồng), ông Trương B, Phạm Thị Thu S chịu
6.858.500 đồng (sáu triệu tám trăm năm mươi tám nghìn năm trăm đồng) chi phí xem
xét thẩm định tại chỗ, đo vẽ, sao lục tài liệu định giá tài sản. Ông Đ đã nộp xong,
ông Trương B Phạm Thị Thu S trách nhiệm trả lại cho ông Đ số tiền
6.858.500 đồng (sáu triệu tám trăm năm mươi tám nghìn năm trăm đồng)
Kể từ khi ông Hồ Trọng Đ đơn yêu cầu thi hành án, nếu ông Trương B
Phạm Thị Thu S chưa thực hiện nghĩa vụ trả số tiền nói trên thì phải chịu lãi đối với số
tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả theo quy định tại Điều 357, khoản 2
Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015
6. Về án phí: Ông Hồ Trọng Đ, ông Trương B Phạm Thị Thu S được
miễn án phí theo quy định của pháp luật.
7. Về quyền kháng cáo: Đương sự mặt tại phiên tòa quyền kháng cáo
trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân
sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự quyền thoả
10
thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế
thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7A, 7B 9 Luật Thi hành án dân sự; thời
hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Nơi nhận:
- Các đương sự;
- TAND TPHCM;
- VKSND TPHCM;
- VKSND KV 12 - TPHCM;
- Thi hành án dân sự TPHCM;
- Lưu VP, hồ sơ.
T.M HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Nguyễn Thị Thùy
Tải về
Bản án số 73/2025/DS-ST Bản án số 73/2025/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 73/2025/DS-ST Bản án số 73/2025/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất