Bản án số 73/2024/DS-ST ngày 17/09/2024 của TAND huyện Cư M'Gar, tỉnh Đắk Lắk về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 73/2024/DS-ST

Tên Bản án: Bản án số 73/2024/DS-ST ngày 17/09/2024 của TAND huyện Cư M'Gar, tỉnh Đắk Lắk về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND huyện Cư M'Gar (TAND tỉnh Đắk Lắk)
Số hiệu: 73/2024/DS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 17/09/2024
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Tuyên xử
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
HUYỆN CƯ M’GAR Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
TỈNH ĐĂK LĂK
Bản án số: 73/2024/DSST
Ngày 17/9/2024
“Vv: Tranh chấp hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất”
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CƯM’GAR, TỈNH ĐẮK LẮK
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Bế Văn Toàn.
Các Hội thẩm nhân dân: 1. Ông Hoàng Duy Thanh.
2. Ông Nguyễn Văn Mạnh.
- Thư Tòa án ghi biên bản phiên tòa: Ông Nguyễn Văn Trung - Thư
Tòa án nhân dân huyện Cư M’gar, tỉnh Đắk Lăk.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện CưM’gar tham gia phiên tòa:
Trần Thị Ngọc Oanh – Chức vụ: Kiểm sát viên.
Ngày 17 tháng 9 năm 2024. Tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Cư M’gar, tỉnh
Đăk Lăk, xét xthẩm công khai vụ án dân sự thụ số: 350/2023/TLST-DS ngày
14/11/2023, về việc Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất”. Theo
Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 67/2024/QĐXXST - DS, ngày 02 tháng 8 năm
2024; Theo Quyết định hoãn phiên tòa số 61/2024/QĐST-DS ngày 28/8/2024, giữa
các đương sự:
1. Nguyên đơn:Phạm Thị T (Có mặt);
Địa chỉ: Thôn A, xã E, huyện C, tỉnh Đăk Lăk.
2. Bị đơn: Ông Hoàng Văn V, bà Nguyễn Thị L (Vắng mặt).
Cùng địa chỉ: Thôn A, xã E, huyện C, tỉnh Đăk Lăk.
3. Người làm chứng:Trần Thị H (Vắng mặt).
Địa chỉ: Thôn A, xã E, huyện C, tỉnh Đắk Lắk;
NỘI DUNG VỤ ÁN:
* Theo đơn khởi kiện, bản tự khai, quá trình hòa giải tại phiên tòa,
nguyên đơn bà Phạm Thị T trình bày:
2
Ngày 19/5/2009 Phạm Thị T mua của vợ chồng ông Hoàng Văn V, bà
Nguyễn Thị L một thửa đất diện tích 18m x 45m = 810m
2
tại thôn A, xã E, huyện C,
tỉnh Đăk Lăk. Thửa đất có tứ cận:
Phía Đông giáp đất T; Phía Tây giáp đất ông T1; Phía Nam giáp lô cao su;
Phía Bắc giáp đất ông N.
Hai bên thỏa thuận giá sang nhượng là 6.500.000 đồng/met. Tổng số tiền sang
nhượng là 117.000.000đ (Một trăm mười bảy triệu). Bên ông V có trách nhiệm làm
bìa đỏ giao cho bà T, còn bà T có trách nhiệm giao đủ số tiền sang nhượng cho ông
V, bà L. Sau khi thỏa thuận, cùng ngày bà T đã giao đủ s tiền sang nhượng trên cho
ông V, bà L và ông V, bà L đã nhận stiền trên đồng thời chuyển đi nơi khác và bàn
giao lại đất cho bà Thanh quản L1 từ khi mua đến nay.
Mặc dù bà T đã nhiều lần yêu cầu ông V, bà L làm thủ tục sang tên phần diện
tích đất T đã mua tại cơ quan thẩm quyền nhưng ông V, L không hợp
tác. Đến ngày 14/10/2011 UBND huyện C gar đã cấp Giấy chứng nhận quyền s
dụng đất số BC 952499 tại thửa 301, tờ bản đồ 36 tại E, huyện C, tỉnh Đăk Lăk
cho ông Hoàng Văn V, bà Nguyễn Thị L nhưng ông Vbà L lấy lý do T còn nợ
10.000.000đ tiền chuyển nhượng nên không đồng ý sang tên quyền sử dụng đất.
vậy, T yêu cầu Toà án giải quyết, ng nhận hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất, buộc ông Hoàng Văn V, Nguyễn Thị L phải tách thửa, sang
tên phần diện tích 18m x 45m = 810m
2
cho bà T, nằm trong thửa đất số 301, tờ bản
đồ số 36 tại thôn A, E, huyện C, tỉnh Đăk Lăk theo Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất số BC 952499 do Ủy ban nhân dân huyện C cấp ngày 14/10/2011 để
Thanh quản L1, sử dụng theo quy định của pháp luật.
* Bị đơn ông Hoàng Văn V, bà Nguyễn Thị L vắng mặt tại phiên tòa, tuy
nhiên quá trình giải quyết vụ án ông V, bà L trình bày:
Ngày 19/5/2009 vợ chồng tôi có bán cho bà T phần đất có diện tích 18m x 45m
= 810m
2
nằm trong thửa 301, tờ bản đồ 36, diện tích 1.092m tại thôn A, xã E, huyện
C, tỉnh Đăk Lăk với giá thỏa thuận là 6.500.000 đồng/1m ngang mặt đường. Giấy
mua bán tay là do bà Trần Thị H trú tại thôn A, xã E, huyện C, tỉnh Đăk Lăk viết và
dưới phần người làm chứng. Phần chvà chữ viết trong giấy sang nhượng của
bên bán đúng là chữ ký và chữ viết của vợ chồng tôi.
Cùng ngày, vợ chồng tôi chuyển nhượng phần đất còn lại diện tích 6m x 45m
270m
2
nằm trong thửa 301 nói trên cho ông Trần Văn T1 là em trai của bà Trần Thị
H. Thực chất thửa đất này là doH mua lại của vợ chồng tôi nhưng cho ông Trần
Văn T1 đứng tên. Các bên mua bán cùng thống nhất sau khi ký giấy mua bán thì bà
H còn giữ lại 10.000.000 đồng để khi nào làm xong bìa đỏ, tách thửa ra tên ông T1,
bà L sẽ giao đủ tiền.
3
Sau khi mua bán với bà T, ông T1, ngày 14/10/2011 vợ chồng i được UBND
huyện C đã cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BC 952499, thửa 301, tờ bản
đồ 36 tại xã E, huyện C, tỉnh Đăk Lăk.
Nay nguyên đơn khởi kiện yêu cầu công nhận quyền sử dụng đất thì tôi có ý
kiến như sau: Tôi chấp nhận sang tên phần diện tích đất đã bán cho Phạm Thị T
theo giấy mua bán ngày 19/5/2009, tuy nhiên phía bà T, ông T1 chưa trả cho vợ
chồng tôi 10.000.000 đồng tại thời điểm đó. trượt giá đồng tiền, nay tôi yêu cầu
T trả lại cho tôi 80.000.000 đồng và phía gia đình ông T1 trả cho tôi 20.000.000
đồng. Sau khi T trả tiền cho tôi, tôi sẽ có trách nhiệm tách thửa thửa đất cho T.
* Người làm chứng Trần Thị H vắng mặt tại phiên tòa, tuy nhiên quá
trình giải quyết vụ án, H trình bày:
Tôi Phạm Thị T, ông Hoàng Văn V, Nguyễn Thị L mối quan hệ
hàng xóm láng giềng, không phải quan hệ anh em họ hàng với nhau. Ngày 19/5/2009,
Phạm Thị T và vợ chồng ông Hoàng Văn V, Nguyễn Thị L lập giấy sang
nhượng lô cư có nội dung là ông Hoàng Văn V, bà Nguyễn Thị L sang nhượng cho
Phạm Thị Thanh M đất mặt đường cao su chiều rộng 18m, chiều dài 45m,
trong đó có 50m đất ở ổn định. Phía Đông giáp đất nhà bà T; Phía Tây giáp đất ông
T1; Pa Nam giáp cao su; Phía Bắc giáp đất ông N. Tôi là người viết giấy cho hai
bên chuyển nhượng, và chữ dưới mục người làm chứng của tôi. Hai bên thỏa
thuân số tiền sang nhượng diện tích đất trên là 6.500.000đ một mét ngang. Tổng
cộng 18m ngang là 117.000.000đ. Bên ông V có trách nhiệm làm bìa đỏ cho T
T trách nhiệm giao đủ số tiền trên. Lúc đóT đã giao đủ 117.000.000đ cho
ông V, L, đồng thời ông V tên xác nhận đã nhận đủ tiền. Thời điểm ngày
19/5/2009, hai bên sang nhượng có ra vị trí đất để cắm mốc ranh giới và tôi cũng có
mặt tôi ở đó.
*Phần tranh luận: Nguyên đơn Phạm Thị T trình bày ý kiến tranh luận: Tại
thời điểm sang nhượng ngày 19/5/2009 ông V L nói giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất rồi. Mãi năm 2011 tôi mới thấy ông V sổ đỏ. Nguồn gốc đất ông V,
bà L tđâu mà có thì tôi không biết, tôi chỉ thấy ông V, bà L canh tác trên đất và tôi
mua lại đất.
Sáu khi bán đất cho tôi, ông V và bà L sang nhượng cho ai nữa hay không
tôi không được biết, vì tôi nhận đất từ ngày 19/5/2009 và canh tác từ đó cho đến bây
giờ, tôi không thấy có ai đến trên phần đất tôi đã mua và cũng không có tranh chấp
đất với ai từ khi mua đến nay. Việc ông V, L tiếp tục chuyển nhượng đất cho
người khác là không thể chấp nhận được, vì đất này đã bán cho tôi, vợ chồng ông V
L đã nhận đủ tiền của tôi. Nay tôi đề nghị HĐXX chấp nhận đơn khởi kiện của
tôi, công nhận hợp đồng sang nhượng ngày 19/5/2024 để nhà nước tách thửa sang
tên cho tôi.
4
* Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện M’gar phát biểu ý
kiến về việc tuân thủ các quy định của Bộ Luật ttụng dân scủa Thẩm phán, Hội
đồng xét xử, thư ký, cũng như những người tham gia tố tụng quan điểm về việc
giải quyết vụ án:
- Đối với Thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư ký phiên tòa: Trong quá trình chuẩn
bị xét xử Thẩm phán đã tuân thủ đúng, đầy đủ các quy định của Bộ luật tố tụng dân
sự.
+ Nguyên đơn thực đã hiện đúng, đầy đủ quyền nghĩa vụ quy định tại các
Điều 70; Điều 71 BLTTDS; Bị đơn thực hiện không đúng, đầy đủ quyền nghĩa
vụ quy định tại các Điều 70; Điều 72 BLTTDS.
* Về nội dung vụ án: Hồ chưa làm đất do bị đơn chuyển nhượng cho
nguyên đơn nguồn gốc nthế nào. (Nhận chuyển nhượng từ ai, thời gian nào?...)
để xác định tại thời điểm chuyển nhượng đất phải do bị đơn đang canh tác sử dụng
hợp pháp hay không?
Cụ thể: Về nguồn gốc đất tranh chấp: Ngày 11/5/2010 ông V, bà L mới nhận
chuyển nhượng thửa đất từ ông Văn N, Thị T2. Ngày 19/5/2009 đã làm
hợp đồng chuyển nhượng cho bà Phạm Thị Thanh B giấy viết tay. Như vậy, tại thời
điểm chuyển nhượng đất cho bà Phạm Thị T chưa có tài liệu, chứng cứ nào cho thấy
diện tích đất chuyển nhượng cho Phạm Thị Thanh T3 quyền sở hữu ca ông V,
L. Như vậy, căn cứ cho thấy hợp đồng chuyển nhượng ngày 19/5/2009 vi phạm
cả về hình thức lẫn nội dung. Do vậy không đủ sở đcông nhận hay không
công nhận hợp đồng chuyển nhượng ngày 19/5/2009 nói trên.
Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 259 Bộ luật tố tụng dân sự đề nghị Hội đồng xét
xử tạm ngừng phiên toà để thu thập tài liệu, chứng cứ nêu trên để đảm bảo giải quyết
vụ án được khách quan, toàn diện đúng quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN;
Sau khi nghiên cứu các tài liệu trong hồ vụ án đã được thẩm tra tại
phiên tòa căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận
định:
[1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án: Nguyên
đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất với bị đơn trú tại huyện C. Tranh chấp này là Tranh chấp về hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân
huyện Cư M’gar, được quy định tại khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm
a khoản 1 Điều 39 Bộ Luật tố tụng dân sự.
[2] Về thủ tục tố tụng:
Tại phiên tòa, mặc đã được triệu tập hợp lệ nhưng bị đơn vắng mặt không
có lý do, do đây là phiên tòa lần thứ hai nên HĐXX căn cứ Điều 227 BLTTDS tiếp
tục xét xử vụ án là đúng quy định pháp luật.
5
[3]. Về nội dung vụ án:
[3.1 Xét về hình thức hợp đồng: Ngày 19/5/2009 Phạm Thị T lập hợp
đồng nhận sang nhượng của vợ chồng ông Hoàng Văn V, Nguyễn Thị L một thửa
đất diện tích 18m x 45m = 810m
2
tại thôn A, xã E, huyện C, tỉnh Đăk Lăk, giá sang
nhượng là 6.500.000 đồng/met. Tổng cộng 117.000.000đ (Một trăm mười bảy triệu).
Hai bên thỏa thuận, ông V và bà L có trách nhiệm làm bìa đỏ giao cho T, còn bà
T trách nhiệm giao đủ số tiền sang nhượng cho ông V L. Hợp đồng chuyển
nhượng là bản giấy viết tay do bà Trần Thị H (Người làm chứng) viết giùm cho hai
bên, hợp đồng chưa được công chứng, đối tượng của hợp đồng là bất động sản, việc
hợp đồng giữa các bên chưa đảm bảo về mặt hình thức, quy định tại khoản 2 Điều
119, Điều 502 Bộ luật dân sự.
[3.2] Về nội dung của hợp đồng quá trình thực hiện hợp đồng: Cùng ngày
lập hợp đồng chuyển nhượng ngày 19/5/2009 T đã giao đủ số tiền sang nhượng
117.000.000đ, ông V, L đã bàn giao đất cho Thanh quản L1 sử dụng
trồng cây tiêu cho đến nay, không tranh chấp với ai, việc chuyển nhượng giữa các
bên hoàn toàn tự nguyện, không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã
hội. Nên mặc dù hợp đồng sang nhượng đất có vi phạm về mặt hình thức nhưng hợp
đồng đã được các bên thực hiện quá 2/3 nội dung hợp đồng do đó hợp đồng không
bị vô hiệu theo khoản 2 Điều 129 Bộ luật dân sự.
[4] Về nguồn gốc đất pháp thửa đất: Quá trình giải quyết vụ án, bđơn
không hợp tác. Tòa án đã tiến hành thu thập tài liệu chứng cứ tại Chi nhánh Văn
phòng đăng đất đai huyện C, hồ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, tại
thời điểm các bên lập hợp đồng chuyển nhượng (Ngày 19/5/2009), không thể hiện
ông V, bà L được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hay chưa? Ngày 11/5/2010
ông V, L nhận sang nhượng từ ông Văn N, Thị T2 và được UBND huyện
C cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BA 918241, thửa đất 227, tờ bản đồ số
36, diện ch 1.972m
2
tại E, huyện C. Ngày 21/02/2011 ông V làm đơn xin tách
thửa 277, và được tách thành hai thửa: Thửa 301, diện tích 1.092m
2
thửa 277,
diện tích 880m
2
cùng tờ bản đồ 36. Đến ngày 12/9/2022 ông Hoàng Văn V bà
Nguyễn Thị L tiếp tục chuyển nhượng thửa đất 301 tờ bản đồ 36 cho bà Nguyễn Thị
T4, ông Phan Đức N1. Ngày 10/10/2023 Nguyễn Thị T4, ông Phan Đức N1
chuyển nhượng lại cho ông Hoàng Văn V1 Nguyễn Thị L, cho đến nay phần
diện tích đất bà T2 nhận sang nhượng đang đứng tên ông V và bà L.
Mặc dù tại thời điểm chuyển nhượng ngày 19/5/2009, hồ sơ cấp đất không thể
hiện ông V, bà L giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chưa? Nhưng việc bà T2
nhận đất từ ông V, và bà L, đồng thời sử dụng đất ổn định từ khi nhận sang nhượng
đến nay thật, có người làm chứng, đồng thời không tranh chấp với ai. Do
đó, HĐXX nhận định tại thời điểm chuyển nhượng ngày 19/5/2009 phần đất sang
nhượng đang thuộc quyền sử dụng của ông V, bà L.
6
Đến nay ông V và bà L không làm thủ tục sang tên cho Phạm Thị T với
do T còn nợ 10.000.000đ không căn cứ. Bởi lẽ, giấy sang nhượng đất thể
hiện ông V đã nhận đủ số tiền 117.000.000đ, ông V thừa nhận chữ trong giấy
sang nhượng là của vợ chồng ông V, đồng thời có bà H làm chứng. Ngoài ra ông V,
L không cung cấp được tài liệu chứng cứ nào khác thể hiện T còn nợ số tiền
trên.
Quá trình giải quyết, Tòa án đã xem xét, thẩm định tại chỗ đối với thửa đất
Phạm Thị Thanh N2 sang nhượng của ông V và L, thể hiện T đang canh tác
trên diện tích đất 796,5m
2
có tứ cận như sau:
Phía Đông giáp thửa 251, cạnh dài 45m; Phía Tây giáp phần còn lại của thửa đất 301
có cạnh dài 45m; Phía Bắc giáp thửa 252, có cạnh dài 17,7m; Phía Nam giáp đường
bê tông có cạnh dài 17,7m;
Việc ông Hoàng Văn V và bà Nguyễn Thị L không sang tên quyền sử dụng đất
theo thỏa thuận trong hợp đồng sang nhượng vi phạm nghĩa vcủa bên sang
nhượng. Do vậy, cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Phạm Thị T,
công nhận hợp đồng sang nhượng quyền sử dụng đất ngày 19/5/2009.
Quá trình đăng ký kê khai cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, ông V và
L đã đăng luôn phần đất đã chuyển nhượng cho T; ngày 14/10/2011 Ủy ban
nhân dân huyện C cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BC 952499, thửa đất
số 301, tờ bản đồ số 36, diện tích 1.092m
2
tại xã E, huyện C cho ông Hoàng Văn V
bà Nguyễn Thị L. Do đó, cần kiến nghị Ủy ban nhân dân huyện C thu hồi, hủy bỏ
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BC 952499, thửa đất số 301, tờ bản đồ số 36,
diện tích 1.092m
2
đã cấp cho ông Hoàng Văn V, bà Nguyễn Thị L để cấp lại theo
đúng thực tế diện tích sử dụng đất cho các bên.
[5] Về chi phí tố tụng: Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận
nên bị đơn phải chịu chi phí xem xét thẩm định tại chỗ với số tiền 3.000.000đ.
Phạm Thị T được nhận lại số tiền 3.000.000 đồng đã chi phí sau khi thu
được từ ông Hoàng Văn V và bà Nguyễn Thị L.
[6] Về án phí: Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận nên bị
đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định pháp luật. Trả lại tiền tạm ứng án
phí cho nguyên đơn.
* Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
- Căn cứ khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều
144; Điều 147; Điều 157 Bộ luật tố tụng dân sự.
- Căn cứ Điều 116; Điều 117; khoản 2 Điều 119; Điều 129; Điều 500; Điều
501; Điều 502; điều 503 Bộ luật dân sự.
- Căn cứ khoản 2 Điều 5; Điều 167; Điểm b khoản 1 Điều 169, điểm c khoản 1
Điều 179 Luật đất đai năm 2013.
7
- Căn cứ khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày
30/10/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu,
nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện ca nguyên đơn bà Phạm Thị T.
[1]. Công nhận Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 19/5/2009
giữa bên chuyển nhượng ông Hoàng Văn V, Nguyễn Thị L và bên nhận chuyển
nhượng bà Phạm Thị T. Bà Phạm Thị T được quyền sdụng đối với diện tích đất đã
nhận sang nhượng theo đo đạc thực tế là 796,5m
2
nằm trong thửa số 301, tờ bản đồ
36, tại thôn A, xã E, huyện C, tnh Đăk Lăk, diện tích đất có tứ cận:
+ Phía Đông giáp thửa 251, cạnh dài 45m;
+ Phía Tây giáp phần diện tích đất còn lại của thửa đất 301, cạnh dài 45m;
+ Phía Bắc giáp thửa 252, có cạnh dài 17,7m;
+ Phía Nam giáp đường bê tông có cạnh dài 17,7m;
- Phạm Thị T trách nhiệm liên hệ với cơ quan nhà nước thẩm quyền
để thực hiện thủ tc sang tên theo quy định pháp luật.
Kiến nghị Ủy ban nhân dân huyện C thu hồi, hủy bỏ Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất sBC 952499 do Ủy ban nhân dân huyện C cấp ngày 14/10/2011, đứng
tên quyền sử dụng đất ông Hoàng Văn V, bà Nguyễn Thị L để cấp lại giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất theo đúng thực tế sử dụng cho Phạm Thị T.
[2]. Về chi phí tố tụng: Buộc ông Hoàng Văn V và bà Nguyễn Thị L phải chịu
chi phí xem xét thẩm định tại chỗ 3.000.000đ. Bà Phạm Thị T được nhận lại số tiền
3.000.000 đồng sau khi thu được từ ông Hoàng Văn V và bà Nguyễn Thị L.
[3]. Về án phí dân sự sơ thẩm: Bị đơn ông Hoàng Văn V Nguyễn Thị L
phải nộp 300.000đ án phí dân ssở thẩm. Phạm Thị T được nhận lại 300.000đ
tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số AA/2021/0014748, ngày 13/11/2023 tại Chi
cục Thi hành án dân sự huyện Cư M’gar, tỉnh Đăk Lăk.
[4] Về quyền kháng cáo: Đương sự có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo
bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày
kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành án theo quy định tại Điều 2 Luật
thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án dân sự
quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc
bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 Điều 9 Luật thi
hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật
thi hành án dân sự.
Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
- TAND tỉnh Đắk Lắk; Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa
8
- VKSND tỉnh Đắk Lắk;
- VKSND huyện Cư M’gar;
- Chi cục THADS huyện Cư M’gar;
- Các đương sự; Đã ký
- Lưu hồ sơ vụ án.
Bế Văn Toàn
Tải về
Bản án số 73/2024/DS-ST Bản án số 73/2024/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 73/2024/DS-ST Bản án số 73/2024/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất