Bản án số 69/2025/KDTM-PT ngày 09/06/2025 của TAND cấp cao tại TP.HCM về tranh chấp về mua bán hàng hóa

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 69/2025/KDTM-PT

Tên Bản án: Bản án số 69/2025/KDTM-PT ngày 09/06/2025 của TAND cấp cao tại TP.HCM về tranh chấp về mua bán hàng hóa
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp về mua bán hàng hóa
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND cấp cao tại TP.HCM
Số hiệu: 69/2025/KDTM-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 09/06/2025
Lĩnh vực: Kinh doanh thương mại
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: sửa án
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Bản án số: 69/2025/KDTM-PT
Ngày: 09 - 6 - 2025
V/v: “Đòi lại tài sản”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN
CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Thúy Hòa;
Các Thẩm phán: Bà Nguyễn Thị Thụy Vũ;
Bà Nguyễn Thị Cúc.
- Thư phiên tòa: Ông Thân Văn Nhường - Thư Toà án nhân dân
cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân
cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh
tham gia phiên tòa: Ông Hà Văn Hừng - Kiểm sát viên.
Trong các ngày 03 tháng 6 năm 2025 ngày 09 tháng 6 năm 2025, tại trụ
sở Tòa án nhân dân
cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh, xét xử phúc thẩm công
khai vụ án kinh doanh thương mại thụ số 08/2025/TLPT-DS ngày 06 tháng
02 năm 2025 về việc “Đòi lại tài sản”.
Do Bản án kinh doanh thương sơ thẩm 119/2024/KDTM-ST ngày 21 tháng
6 năm 2024 của Toà án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 1079/2025/QĐ-PT
ngày 10 tháng 4 năm 2025, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: ng ty TNHH C4;
Địa chỉ: Số A T, Phường A, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh.
Đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Công ty C4 các Cộng sự (Văn
bản ủy quyền ngày 08/9/2020).
Công ty C4 các Cộng sự ủy quyền lại cho: Nguyễn Quỳnh T, sinh
năm 1998;
Địa chỉ: Căn A - A, Paris H, số C đường số A, phường A, thành phố T,
Thành phố Hồ Chí Minh.
Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Luật NThị
Kim T1 - Đoàn Luật sư Thành phố H.
- Bị đơn:
1. Công ty Cổ phần C4 (tên cũ Công ty TNHH C4);
Địa chỉ: C L, phường B, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh.
2
Đại diện theo ủy quyền của bị đơn:
- Bà Lê Thị Diệu H, sinh năm 1990;
- Ông Mai Thành T2, sinh năm 1994;
2. Ông Trần Xuân T3, sinh năm 1975;
Địa chỉ: SD khu dân C, đường số E, Phường G, quận G, Thành phố
Hồ Chí Minh.
3. Ông Huỳnh Lập N, sinh năm 1993;
Địa chỉ: T Cao ốc Đảo K, phường B, thành phố T, Thành phố Hồ Chí
Minh.
Đại diện theo ủy quyền của ông N: Ông Trần Xuân T3, sinh năm 1973.
4. Bà Trần Tú Q, sinh năm 1974;
Địa chỉ: Số D khu dân C, đường số E, Phường G, quận G, Thành phố
Hồ Chí Minh.
Đại diện theo ủy quyền của bà Q: Ông Mai Thành T2, sinh năm 1994.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: SW1 (VietNam) Pte.Ltd.
Địa chỉ: A Toa Payoh N #06-03/07 S.
Địa diện theo ủy quyền của SW1 (VietNam) Pte.Ltd: Công ty C4 các
Cộng sự.
Công ty C4 các Cộng sự ủy quyền lại cho: Trương Thị H1, sinh năm
1947;
Địa chỉ: Căn A - A, Paris H, số C đường số A, phường A, thành phố T,
Thành phố Hồ Chí Minh.
- Người kháng cáo: Bị đơn Công ty Cổ phần C4.
(Tại phiên tòa phúc thẩm mặt: Nguyễn Quỳnh T, Luật Ngô Thị
Kim T1, Thị Diệu H, ông Mai Thành T2, ông Trần Xuân T3; Các đương
sự khác vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN:
* Tại đơn khởi kiện đề ngày 11/9/2020, đơn sửa đổi bổ sung đơn khởi kiện
ngày 24/11/2021, đơn xác định lại yêu cầu khởi kiện ngày 27/3/2024, đơn rút
một phần yêu cầu khởi kiện ngày 20/10/2023 lời khai trong quá trình giải quyết
vụ án cũng như tại phiên tòa đại diện nguyên đơn trình bày:
Vào cuối năm 2019, các nhân sự cấp cao của Công ty Cổ phần C4 (năm
2021 chuyển đổi ng ty TNHH C4) (Viết tắt EGI) có đến Bộ phận Da liễu của
Phòng khám Q1, thuộc Chi nhánh của Công ty TNHH C4 (Viết tắt Công ty
C4) tại đa ch Lầu B, C, A T, phường T, Quận G, Thành phố H Chí Minh để
vấn cho Bộ phận Da liễu này. Do đó, nhân sự của EGI được quyền ra vào Bộ
3
phận Da liễu này (có cửa lối đi riêng), trên thực tế nhân viên Bộ phận Da
liễu nghe theo hướng dẫn của các nhân sự EGI.
Vào các ngày 12, 15 27/11/2019, EGI đã nhận một số máy móc thiết
bị (viết tắt thiết bị) từ Công ty C4 nhận các biên bản bàn giao. Cũng
trong giai đoạn này, EGI đã lấy một số hàng hoá trị giá 408.041.794 đồng. Việc
EGI lấy số hàng hoá này không được sự đồng ý của Công ty C4, không có
chứng txác nhận giữa EGI Công ty C4 do EGI không đồng ý ký Biên bản
bàn giao cho số hàng hoá.
Việc tư vấn của EGI việc Công ty C4 bàn giao thiết bị cho EGI nêu trên
nêu trên xuất phát từ việc thoả thuận giữa SW1 (V) P., L (viết tắt SW1) và các
cổ đông của EGI để chuẩn bị cho việc hợp tác đầu tư giữa SW1 và các cổ đông.
Trên thực tế, SW1 và các cổ đông đã kết một Hợp đồng hợp tác đầu (hoặc
Thỏa thuận đầu tư) vào tháng 02 năm 2020, trong đó có nội dung Công ty C4 và
EGI sẽ ký kết hợp đồng mua bán thiết bị và hàng hoá với giá 400.000 USD (Bốn
trăm ngàn Đ-la Mỹ). Tuy nhiên, cho đến nay, Công ty C4 EGI vẫn chưa
kết hợp đồng mua bán này và EGI vẫn chưa thanh toán gì cho Công ty C4.
Do một số điều kiện đầu theo Hợp đồng hợp tác đầu tư giữa SW1 cổ
đông không được đáp ứng và Hợp đồng hợp tác đầu không được triển khai
trong một thời gian dài nên ngày 24/6/2020, SW1 thông báo cho các cổ đông về
việc chấm dứt Hợp đồng hợp tác đầu tư. Hợp đồng hợp tác đầu bị chấm
dứt nên ngày 04/8/2020, Công ty C4 đã gửi thư yêu cầu EGI: Hoàn trả cho Công
ty C4 toàn bộ thiết bị; Thanh toán cho Công ty C4 tiền hàng hóa trị g
408.041.794 đồng. Tuy nhiên, EGI vẫn chưa hoàn trả thiết bị thanh toán tiền
hàng cho Công ty C4.
Ngày 24/11/2021 Công ty C4 đơn khởi kiện bổ sung yêu cầu Q, ông
T3, ông N cùng liên đới với EGI chịu trách nhiệm trong việc hoàn trả thiết bị
thanh toán cho Công ty C4 cụ thể:
Buộc các bị đơn: EGI, ông T3, Q, ông N liên đới hoàn trả cho Công ty
C4 toàn bộ các thiết bị trong tình trạng hoạt động bình thường (như được liệt
trong các Biên bản bàn giao). Trường hợp EGI đã bán thiết bị, EGI phải thanh
toán giá trị của thiết bị cho nguyên đơn;
Buộc các bị đơn thanh toán cho Công ty C4 s tiền hàng hóa trị giá
408.041.794 đồng mà EGI đã lấy của nguyên đơn.
Tổng giá trị tiền thiết bị và hàng hoá 9.236.000.000 đồng (tương đương với
400.000 USD theo thoả thuận giữa SW1 và các cổ đông).
Ngày 20/10/2023 Công ty C4 rút một phần yêu cầu khởi kiện về tiền hàng
hóa trị giá 408.041.794 đồng.
Tại phiên tòa đại diện nguyên đơn yêu cầu tòa án giải quyết:
Buộc các bị đơn: EGI, ông T3, Q, ông N liên đới hoàn trả cho Công ty
C4 toàn bộ các thiết bị mà EGI đã nhận trong tình trạng hoạt động bình thường.
4
Trường hợp các bị đơn không thể hoàn trả các thiết bị thì các bị đơn phải
hoàn trả một lần bằng tiền là 8.468.294.000 đồng.
* Đại diện bị đơn EGI đồng thời là đại diện của bà Trần Tú Q trình bày:
Bên trách nhiệm lớn nhất trong vụ việc này công ty S. Toàn bộ sự
việc không đơn giản như phía CityClinic trình bày mà còn liên đới rất nhiều đến
SW1.
Thứ nhất: Về mối quan hệ với Nguyên đơn - Công ty C4 nghĩa vụ hoàn
trả thiết bị máy móc, tiền hàng.
Tại mục 1.6 Điều 1 của Thỏa thuận hợp tác đầu giữa Bên A là SW1
bên B gồm: Trần Q, ông Trần Xuân T3, ông Huỳnh Lập N Hợp
đồng hợp tác vào tháng 2/2020, (gọi tắt là: Thỏa thuận hợp tác đầu tư).
Trong Thỏa thuận hợp tác đầu thể hiện “Phòng khám SW1 D7 phòng
khám T4 hiện đang hoạt động dưới thương hiệu SW1 bởi Công ty TNHH C4 tại
Trung tâm thương mại C5, Quận G, Thành phố Hồ Chí Minh”. Điều đó chứng
minh rằng giữa Công ty C4 và SW1 có mối quan hệ mật thiết, giống như công ty
con hoạt động tại Việt Nam, bởi Công ty S đang muốn mở rộng thương hiệu
SW1 tại Việt Nam.
Toàn bộ máy móc theo Biên bản bàn giao vào các ngày 12, 15
27/11/2019 mà nguyên đơn chủ động bàn giao cho EGI đều được thực hiện dưới
sự chỉ đạo của SW1. SW1 đã không thực hiện đúng như thỏa thuận, bỏ mặc EGI
với một món nợ khổng lồ, khi thời điểm dịch Covid bùng nổ, EGI phải bán công
ty để bớt một phần nợ, bây giờ mượn tay của Công ty C4 để đòi lại máy móc
thỏa thuận sẽ hợp pháp hóa phần vốn góp của SW1 thay bằng tiền mặt vào
công ty, được gọi là Hợp đồng vay chuyển đổi.
Căn cứ Điều 4, thỏa thuận hợp tác có thỏa thuận:
Mục 4.1 4.2 các cổ đông gồm ông T3, Q, ông N đã hoàn tất vốn góp
vào ngân hàng A1 Chi nhánh V1 vào ngày 19/12/ 2019 tổng cộng
15.570.025.000 đồng.
Mục 4.3 4.4 quy định: “SW1 sẽ cung cấp 01 khoản vay tổng giá trị
540.000 USD cho EGI với quyền lựa chọn chuyển đổi khoản vay thành 45%
vốn chủ sở hữu….”
Mục (i) (ii) thể hiện: “Khoản vay đợt 1, khi kết thỏa thuận chuyển
nhượng tài sản, SW1 sẽ cung cấp 400,000 USD…Và khoản vay đợt 2 nếu Q
cung cấp kế hoạch chi tiết được SW1 chấp thuận…”
Tại mục 4.4.1 thỏa thuận SW1 mua bán kinh doanh với phòng khám
SW1 D7 với tài sản chuyển nhượng với trị giá 400,000 USD…
Như vậy, các bên thỏa thuận sau khi hợp tác thành ng, các bên cổ đông
góp đủ cổ phần để công ty đi vào hoạt động thì sẽ thực hiện việc kết lại hợp
đồng vay chuyển đổi để hợp pháp hóa vốn góp cho SW1 (gọi tài sản chuyển
nhượng là máy móc của SW1 thành vốn góp vào công ty)
5
Do đó, số máy móc trong các biên bản giao cũng thể hiện máy móc tại
phụ lục 02 của thỏa thuận hợp tác.
Trước khi làm việc với SW1, EGI chỉ dự định mở một chuỗi Clinic bình
dân với chi phí đầu thấp vừa với tài chính của EGI, nhưng chính SW1 bên
đề xuất EGI thay đổi hứa hẹn hợp tác đầu tư, nên EGI đã tin tưởng vay
mượn tiền đ mClinic cao cấp theo hướng SW1 muốn. đthể hiện
thiện chí cho sự hợp tác làm ăn, mở rộng phòng khám dưới thương hiệu SW1
thứ 2 tại Việt Nam sau SW1 D7 dưới pháp nhân Công ty C4, SW1 đã chđộng
chỉ đạo cho Công ty C4 chuyển trước một số máy móc qua EGI chứ giữa EGI và
Công ty C4 không mối quan hệ không thỏa thuận gì. Chỉ SW1
EGI ký thỏa thuận hợp tác đầu tư. Tuy nhiên, đang trong quá trình thực hiện hợp
đồng hợp tác thì SW1 bỏ ngang.
Do vậy, giữa EG1 Công ty C4 không bất kỳ hợp đồng mua bán các
thiết thị máy móc nguyên đơn yêu cầu phải hoàn trả. SW1 yêu cầu bên
Công ty C4 đưa máy móc qua EGI tEGI nhận và ký biên bản để báo lại SW1,
chứ EGI không biết, không làm ăn hợp tác với Công ty C4. vậy, số tiền mà
Công ty C4 yêu cầu EGI trả, bằng đúng với số tiền mà SW1 phải góp vốn đợt 1
vào công ty như thỏa thuận. Bên B sẽ kết hợp đồng chuyển nhượng tài sản
trị giá 400.000 USD”.
Thỏa thuận thành lập Công ty Cổ phần C4 Bên B (EGI) sẽ bỏ ra 55%
bên A (SW1) sẽ bỏ 45% cổ phần tương đương 540.000 USD để xây dựng
phát triển Công ty Cổ phần C4.
Số tiền này, Bên A sẽ chia làm 2 đợt thanh toán:
Đợt 1: 400.000 USD
Đợt 2: 140.000 USD
Bên B sẽ kết hợp đồng chuyển nhượng tài sản trị giá 400.000 USD, sẽ
được chia làm 2 đợt thanh toán:
Đợt 1: 100.000 USD - sau khi Bên B nhận được khoản tiền đợt 1 trong
Điều 1
Đợt 2: 300.000 USD, thanh toán trả chậm trong vòng 24 tháng.
Chính không phải bán hàng hóa, máy móc cho EGI nên không bất kỳ
một hợp đồng hay thỏa thuận nào khác, các hóa đơn chứng từ mua bán máy móc
để bàn giao cho EG1 đều không có, chỉ là Công ty C4 thực hiện đòi lại máy móc
theo yêu cầu của SW1 nên số tiền trùng khớp với góp vốn.
Thứ hai: Đối với toàn bmáy móc hậu quả của việc đơn phương chấm
dứt của SW1.
Do SW1 đã vi phạm Điều 6 cam kết của các bên nên đgiải quyết nh
cấp thiết lúc dịch C ttoàn bộ máy móc, trang thiết bị như lời trình bày của
nguyên đơn EGI đã bán sang tay cho nhiều người tại thời điểm đó để giải quyết
nợ nần. Thời điểm bán EGI không hợp đồng mua bán thời điểm Covid di
6
chuyển gặp mặt rất khó khăn, chỉ liên lạc gọi điện thoại. Trong tình cảnh tuyệt
vọng, bị SW1 phủi trách nhiệm, EGI đã tự rao bán, ai cần thì đến mua trao
tiền khi lấy máy nên EGI cũng không biết hiện nay smáy móc trang thiết bị đã
bán vđâu ai đang người quản lý, sử dụng chúng. do bán máy móc đó
là một phần vốn góp của SW1 vì:
Bà Trần Tú Q và các cổ đông EGI đã bỏ tiền ra để:
- Thiết kế, thi công xây dựng công ty tại địa chỉ C L, phường B, Quận A,
Thành phố Hồ Chí Minh hoàn thiện.
- Mua sắm các trang thiết bị, tuyển dụng nhân viên …
- Làm marketing, quảng cáo thương hiệu cho SW1 Việt Nam. Chuẩn bị
hình ảnh, chiến lược phát triển trong 5 năm cho công ty hoạt động.
- Xây dựng nguồn khách hàng trang Facebook, webside, và các trang
mạng xã hội khác.
- Xây dựng hệ thống vận hành ERP hoàn chỉnh.
Thời điểm ký hợp đồng công ty đã đi vào hoạt động ổn định như Hợp
đồng hợp tác. Tuy nhiên, sau khi ký hợp đồng thì bên A không thực hiện như đã
cam kết. SW1 đã vi phạm mục 10.3 Điều 10 thỏa thuận. “việc chấm dứt thỏa
thuận sẽ không gây phương hại và không ảnh hưởng đến bất kỳ quyền, nghĩa vụ
và biện pháp khắc phục hậu quả phát sinh do hậu quả của việc chấm dứt đó”.
Sau khi hợp tác với SW1 không thành, các thành viên của EGI ông T3
Q là con nợ của ngân hàng, một số tài sản đã bị ngân hàng P2 để thu hồi nợ.
Bị đơn không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, đề nghị bác
toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
* Ông Trần Xuân T3 đồng thời đại diện bị đơn ông Huỳnh Lập N trình
bày: Thống nhất với ý kiến của bị đơn EGI.
* Đại diện người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan SW1 (VietNam) Pte.Ltd
trình bày:
- Về quan hệ giữa các bên đối với việc hợp tác đầu theo Thỏa thuận hợp
tác đầu tư giữa SW1 và bà Q, ông T3, ông N
Năm 2019, SW1 đã làm việc với Q với tư cáchcổ đông sáng lập nắm
giữ phần lớn cổ phần của EGI để thương lượng thống nhất về kế hoạch SW1
đầu tư vào EGI để EGI vận hành và phát triển một phòng khám thẩm mỹ mới tại
Việt Nam dưới thương hiệu SW1 (công ty S (V) Pte. Ltd. không phải chủ sở hữu
thương hiệu này). Trong quá trình thương lượng đàm phán Hợp đồng hợp tác
đầu tư, SW1 chỉ làm việc với các cổ đông của EGI. Công ty C4 chưa bao giờ
một bên tham gia thương lượng Hợp đồng, không phải là một bên của Hợp đồng
và không có bất kỳ quyền và nghĩa vụ nào theo Hợp đồng hợp tác đầu tư.
Để Q làm quen với hoạt động kinh doanh theo các tiêu chuẩn dưới
thương hiệu SW1 hỗ trợ EGI trong việc tìm kiếm đơn vị để EGI thể mua
7
các thiết bthẩm mỹ chất lượng phù hợp, SW1 đã giới thiệu Q với Công ty
C4 một doanh nghiệp được thành lập tại Việt Nam đang vận hành phòng khám
da liễu dưới thương hiệu SW1. SW1 không chỉ đạo, không bắt buộc EGI phải
mua thiết bcủa Công ty C4. Việc danh mục thiết bị theo Phụ lục 2 của Hợp
đồng hợp tác đầu tư giống với danh mục tài sản mà EGI lấy của Công ty C4 là
do EGI đã lấy các thiết bị này trước khi SW1 và bà Q, ông T3 và ông N Hợp
đồng hợp tác đầu tư. Hợp đồng hợp tác đầu chỉ ghi nhận các thiết bị EGI
đồng ý mua từ Công ty C4, thể hiện bằng việc bà Q, ông T3 và ông N đã đồng ý
đưa danh mục này vào Hợp đồng hợp tác đầu tư đã vào Hợp đồng này.
Hợp đồng hợp tác đầu tư thể hiện ý định của các bên về việc EGI sẽ mua các
thiết bị này, và không có điều khoản nào trong Hợp đồng hợp tác đầu tư thể hiện
nội dung EGI bắt buộc phải mua các thiết bị này hay sẽ chịu hình phạt nào nếu
không mua các thiết bị này.
Nói cách khác, không có việc SW1 buộc EGI phải mua các thiết bị từ Công
ty C4, đây là việc EGI lấy các thiết bị này trước và đồng ý sẽ mua thiết bị.
- SW1 không góp vốn vào EGI bằng các thiết bị
- SW1 đã khẳng định SW1 không phải chủ sở hữu của các thiết bị của
Công ty C4. Bên cạnh đó, SW1 cũng không phải cổ đông góp vốn vào EGI.
Theo thoả thuận tại Hợp đồng hợp tác đầu tư, SW1 sẽ trở thành cổ đông của
EGI nhưng kế hoạch này đã không được thực hiện. Cả SW1 và EGI đều biết
Công ty C4 chủ shữu duy nhất quyền quyết định đối với các thiết bị.
Theo đó, SW1 chưa từng chỉ đạo hay yêu cầu EGI đến Công ty C4 để nhận thiết
bị. Ngoài ra, EGI chưa bao giờ xem các thiết bị này là tài sản SW1 góp vốn
vào EGI, thể hiện việc hợp đồng hợp tác đầu tư, được kết sau khi EGI lấy
các thiết bị, không ghi nhận việc góp vốn này, EGI chưa bao giờ làm thủ tục với
các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để đăng ký việc mua cổ phần của SW1.
Nói cách khác, việc EGI khai nhận rằng EGI nhận các tài sản này nghĩ
rằng đó là tài sản mà SW1 góp vốn vào EGI là không đúng với thực tế, không có
căn cứ pháp lý cũng như không được các bên thoả thuận.
SW1 cho rằng bản chất của vụ án này là chủ sở hữu đòi lại tài sản của mình
đang bị người khác chiếm hữu không căn cứ pháp luật. Nếu chỉ SW1
đã giới thiệu Công ty C4 các bị đơn với nhau truy xét trách nhiệm của
SW1 trong vụ án thì không hợp không có cơ sở pháp lý. Do đó, SW1 kính
đề nghị giải quyết yêu cầu khởi kiện của Công ty C4 theo quy định của pháp
luật Việt Nam để đảm bảo việc giải quyết ván được khách quan, đúng pháp
luật và bảo đảm quyền lợi hợp pháp của đương sự.
Tại Bản án kinh doanh thương sơ thẩm 119/2024/KDTM-ST ngày 21 tháng
6 năm 2024, Toà án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:
- Căn cứ khoản 1 Điều 30; khoản 3 Điều 35; điểm c khoản 1 Điều 37; Điều
147; khoản 2 Điều 244, khỏan 1 Điều 273 của Bộ luật tố tụng Dân sự ;
- Căn cứ khoản 3 Điều 4, Điều 306 Luật thương mại năm 2005;
8
- Căn cứ khoản 2 Điều 164 và khoản 1 Điều 166, khoản 1 Điều 579, khoản
3 điều 580 Bộ luật Dân sự năm 2015;
- Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy đinh về
mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án
- Căn cứ Điều 26 Luật Thi hành án dân sự đã được sửa đổi, bổ sung năm
2014.
Xử:
1/ Chấp nhận một phần yêu cầu của nguyên đơn
- Buộc Công ty Cổ phần C4 nghĩa vụ hoàn trả cho Công ty TNHH C4
giá trị các thiết bị 8.468.294.000 đồng (Tám tỷ bốn trăm sáu ơi tám triệu
hai trăm chín mươi bốn nghìn đồng), trả một lần kể từ ngày án hiệu lực pháp
luật.
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến
khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số
tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường
tại thời điểm thanh toán tương ứng với thời gian chậm trả theo quy định tại Điều
306 Luật thương mại.
2/ Không chấp nhận yêu cầu của Công ty TNHH C4 về việc buộc bà Trần
Q, ông Trần Xuân T3, ông Huỳnh Lập N liên đới với Công ty Cổ phần C4
thanh toán tiền giá trị các thiết bị 8.468.294.000 đồng (Tám tỷ bốn trăm sáu
mươi tám triệu hai trăm chín mươi bốn nghìn đồng).
3/ Đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu buộc Công ty Cổ phần C4, Trần
Q, ông Trần Xuân T3, ông Huỳnh Lập N liên đới thanh toán cho Công ty
TNHH C4 giá trị của số hàng hóa 408.041.794 đồng (Bốn trăm lẻ tám triệu
không trăm bốn mươi mốt nghìn bảy trăm chín mươi bốn đồng) do rút lại yêu
cầu.
Ngoài ra, Tòa án cấp thẩm n quyết định về án phí, chi phí tố tụng
quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Sau khi xét xử sơ thẩm:
Ngày 04/7/2024, ông Trần Xuân T3 người đại diện theo pháp luật của bị
đơn có kháng cáo đề nghị sửa bản án sơ thẩm theo hướng bác yêu cầu khởi kiện
của nguyên đơn.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Các đương sự không tự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.
- Ông Mai Thành Trung đại D theo ủy quyền của bị đơn trình bày quan
điểm tranh luận như sau: Chúng tôi không đồng ý với bản án thẩm. Việc
nguyên đơn giao máy móc cho bđơn thực hiện theo điều phối của SW1,
chúng tôi không có ký hợp đồng mua bán với nguyên đơn, chúng tôi chỉ có hợp
đồng hợp tác đầu tư với SW1, tài sản nguyên đơn chuyển giao cho bị đơn là tài
9
sản mà SW1 góp vốn, nếu có tranh chấp chúng tôi sẽ thực hiện với SW1 theo
khuôn khổ hợp đồng hợp tác đầu tư. Đề nghị Hội đồng xét xử sửa bản án
thẩm, bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
- Luật Ngô Thị Kim T1 trình bày quan điểm bảo vệ cho nguyên đơn:
Tài sản tranh chấp của nguyên đơn mua về, hóa đơn chứng từ hợp pháp.
Các bên đã bàn giao tài sản, tuy nhiên một thời gian sau vẫn chưa kết hợp
đồng. Lúc đó nguyên đơn yêu cầu đòi lại tài sản. Tuy nhiên, bđơn không trả
tài sản lại mang tài sản đi bán. Nếu bị đơn cho rằng tài sản của SW1, tuy
nhiên việc bán tài sản cũng không thông báo cho nguyên đơn và thậm chí SW1.
Nguyên đơn yêu cầu bị đơn trả lại giá trị tài sản theo chứng thư thẩm định giá
theo mức giá đã khấu hao là đã có lợi cho bị đơn. Trong vụ việc này SW1 cũng
chỉ là người giới thiệu cho nguyên đơn bán tài sản cho bị đơn nên SW1 không
nghĩa vụ trong vụ việc này. Nếu bị đơn không kết hợp đồng mua bán,
thì chúng tôi yêu cầu trả lại tài sản cho chúng tôi, nếu tài sản đã bán thì chúng
tôi yêu cầu thanh toán lại giá trị theo chứng thư thẩm định giá. Do đó, chúng tôi
đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị đơn, giữ nguyên
bản án sơ thẩm.
- T không trình bày bổ sung gì thêm.
- Ông Mai Thành T2 tranh luận bổ sung: Chúng tôi khẳng định rằng C1
SW1 quan hệ công việc với nhau. Về tố tụng nguyên đơn SW1 quan
hệ sung đột quyền lợi nhưng cùng ủy quyền cho Công ty Luật P1 và Cộng sự là
vi phạm nguyên tắc hành nghề của Luật sư.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh
phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án:
+ Về tố tụng: Về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội
đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và những người tham gia tố tụng, trong quá trình
giải quyết vụ án, kể từ khi thụ lý, cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị
án: đã tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
+ Về nội dung vụ án: Tòa án cấp thẩm giải quyết vụ án chấp nhận yêu
cầu khởi kiện của nguyên đơn căn cứ, đúng pháp luật. Bị đơn kháng cáo
nhưng không cung cấp thêm tài liệu chứng cứ nào mới làm căn cứ để chấp
nhận kháng cáo. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử bác kháng cáo của bị đơn, giữ
nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ trong hồ vụ án được thẩm
tra tại phiên tòa, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát kết quả tranh tụng tại
phiên tòa, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định:
[1]. Về những người tham gia tố tụng: Tại phiên tòa phúc thẩm, vắng mặt
người quyền lợi nghĩa vụ liên quan SW1 (Việt Nam) Pte.Ltd người đại
diện theo ủy quyền của đương sự này. Tuy nhiên, Trương Thị H1, người đại
diện theo ủy quyền của SW1 có Bản ý kiến ngày 25/4/2025 gửi Hội đồng xét xử
10
phúc thẩm. Xét, việc vắng mặt của đương sự nêu trên không ảnh hưởng đến việc
xét kháng cáo của bị đơn. Do đó, căn cứ các Điều 227, 228 của Bộ luật Tố tụng
dân sự, Hội đồng xét xử phúc thẩm tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự nêu
trên.
[2.]. Về nội dung: Xét kháng cáo của bị đơn đối với yêu cầu khởi kiện của
nguyên đơn về việc buộc bị đơn trả lại các thiết bị bị đơn đã nhận theo các
Biên bản bàn giao ngày 12, 15, 17 tháng 11 năm 2019; trường hợp không trả
được bằng hiện vật thì yêu cầu trả giá trị tài sản với số tiền 8.468.294.000 đồng.
[2.1]. Căn cứ Biên bản bàn giao ngày 12/11/2019, Biên bản bàn giao ngày
15/11/2019, Biên bản bàn giao ngày 17/11/2019 (BL: 341-344) sự thừa nhận
của các đương sự trong hồ vụ án, sở xác định vào các ngày 12, 15,
17 tháng 11 năm 2019, Công ty TNHH C4 (dưới đây viết tắt Công ty C4) đã bàn
giao một số thiết bị, máy móc cho Công ty Cổ phần C4 (năm 2021 chuyển đổi
thành loại hình công ty trách nhiệm hữu hạC4, dưới đây viết tắt là Công ty E1).
Trong các Biên bản bàn giao nêu trên, các bên không ghi về do bàn giao
thiết bị, máy móc, cũng như không nêu các căn cứ, sở bàn giao, tại phần
cuối của biên bản các bên thỏa thuận chỉ ghi Kể từ ngày biên bản bàn giao
Công ty TNHH C4 không chịu trách nhiệm về sự mất mát, hại phát sinh đối
với các thiết bị văn phòng và đồ nội thất kể trên”.
Quá trình giải quyết vụ án, Công ty C4 lời trình bày không thống nhất
về do Công ty C4 bàn giao thiết bị cho Công ty E1 trong 03 Biên bản bàn
giao nêu trên, cụ thể như sau:
Tại đơn khởi kiện ngày 11/9/2020, Công ty C4 trình bày “…việc CityClilic
bàn giao thiết bị cho EGI nêu trên xuất phát từ việc thỏa thuận giữa SW1 và các
cổ đông để chuẩn bị cho việc hợp tác đầu giữa SW1 các cổ đông. Trên
thực tế, SW1 và các cổ đông có ký kết một Hợp Đồng Hợp tác Đầu tư vào tháng
02 năm 2020 (“Hợp đồng Hợp Tác Đầu Tư) (đính kèm Đơn khởi kiện này),
trong đó nội dung CityClilic EGI sẽ kết hợp đồng mua bán Thiết bị
Hàng Hóa với giá 400.000 USD (bốn trăm ngàn Đ - la Mỹ). Tuy nhiên, cho đến
nay, CityClilic và EGI vẫn chưa ký kết hợp đồng mua bán này và EGI vẫn chưa
thanh toán gì cho CityClilic.” (BL số 102- 104).
Tại Bản ý kiến ngày 21/4/2023, người đại diện theo ủy quyền của nguyên
đơn trình bày: “Trong vụ án chỉ tồn tại duy nhất một mối quan htranh chấp
việc nguyên đơn khởi kiện đòi EGI trả lại tài sản của mình bị đơn đang giữ.
Trong khi đó, giữa hai bên không xác lập bất cứ quan hệ hợp đồng mua bán
nào. EGI đã thừa nhận sự việc nhận tài sản của nguyên đơn cũng xác định
không quan hệ mua bán với nguyên đơn. Do đó, chúng tôi xác định quan hệ
tranh chấp trong vụ án tranh chấp dân sự về kiện đòi tài sản chứ không phải
tranh chấp về hợp đồng mua bán tài sản”. (BL số 355-357).
Tại “Quan điểm pháp lý” ngày 11/6/2024, Luật sư bảo vệ quyền lợi ích
hợp pháp cho nguyên đơn cũng trình bày: “Trong vụ án này, nguyên đơn yêu
cầu bđơn hoàn trả các thiết bị thuộc quyền sở hữu của nguyên đơn bị đơn
11
đang chiếm giữ. Giữa nguyên đơn Bị đơn không phát sinh bất kỳ giao dịch
dân sự nào liên quan đến việc mua bán hay chuyển giao các Thiết bị này Bị
đơn cũng chưa thanh toán cho Nguyên đơn bất cứ khoản tiền nào”. (BL s
365).
Tuy nhiên, tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn lại trình bày căn cứ để
nguyên đơn giao các thiết bị cho bị đơn thông qua việc mua bán giữa nguyên
đơn bị đơn, nhưng nguyên đơn thừa nhận không cung cấp được chứng cứ
chứng minh cho việc chào hàng cũng như thương thảo các điều khoản của hợp
đồng mua bán tài sản các bên cũng không hợp đồng mua bán tài sản.
Đồng thời, sau khi EGI nhận thiết bị thì đến 8 tháng sau Công ty C4 mới gửi thư
yêu cầu trả lại thiết bị và thừa nhận khi giao hàng, không xuất hóa đơn bán hàng.
[2.2]. Trong khi đó, bị đơn không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của nguyên
đơn cho rằng các thiết bị mà nguyên đơn bàn giao cho bị đơn không phải
đối tượng bàn giao từ bất cứ hợp đồng mua bán hay thỏa thuận nào khác giữa
nguyên đơn bị đơn xuất phát tsự chỉ định của SW1, yêu cầu C4 giao
cho EGI đây tài sản góp vốn của SW1 thông qua Hợp đồng hợp tác đầu
kết vào tháng 2 m 2020 giữa SW1 (Việt Nam) Pte.Ltd các ông Trần
Tú Q, Trần Xuân T3 và Huỳnh Lập N.
Xét lời trình bày của bị đơn là có căn cứ, bởi lẽ:
[2.2.1]. Tại email ngày 04/8/2020, do Công ty C4 gửi cho EGI cũng thể
hiện: “Căn cứ vào Hợp đồng Hợp tác đầu đã kết giữa SW1 (VietNam)
Pte.Ltd các cổ đông của EGI, CityClinic đã giao các máy móc thiết bị “Thiết
bị” như đã thỏa thuận giữa SW1 (V) Pte.Ltd các cổ đông của EGI theo các
biên bản bàn giao ngày 12 tháng 11 năm 2019, ngày 15 tháng 11 năm 2019
ngày 27 tháng 11 năm 2029”.
[2.2.2]. Về mối quan hệ pháp giữa Công ty TNHH C4 và SW1 (Việt
Nam) Pte.Ltd:
Tại Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp Công ty C4 hữu hạn một thành
viên thể hiện Công ty TNHH C4 Công ty TNHH MTC4 100% vốn nước
ngoài, thuộc chủ sở hữu Cityclinic Asia Investments Pte.Ltd tại S (BL 385).
SW1 (Việt Nam) Pte.Ltd là Công ty Tư nhân Trách nhiệm Hữu hạn theo cổ
phần trong đó Cityclinic Asia I.Ltd là cổ đông (BL 651, 649).
Tại mục 1.6 của Hợp đồng hợp tác đầu tư quy định: ““Phòng khám D1”
phòng khám T4 hiện đang hoạt động theo thương hiệu “SW1” của Công ty
TNHH C4 tại C6, Quận G, Thành phố Hồ Chí Minh”.
Tại Biên bản đối chất ngày 16/5/2023, đại diện theo ủy quyền của SW1
trình bày: “Mục đích của hợp đồng hợp tác đCông ty S (Vietnam) đầu tư vào
Công ty E1 mở phòng khám phát triển hthống phòng khám thẩm mỹ mang
thương hiệu SW1 theo tiêu chuẩn của SW1 (dự định trong tương lai sẽ chuyển
phòng khám da liễu của Công ty C4 thành phòng khám của Công ty E2)” (BL
số 753).
12
Như vậy, bị đơn cho rằng giữa Công ty TNHH C4 với SW1 (Việt Nam)
Pte.Ltd có chung sở hữu chủ là Cityclinic Asia Investments Pte.Ltd là có căn cứ.
[2.2.3]. Bản dịch Hợp đồng hợp tác đầu do nguyên đơn cung cấp (BL:
724) phù hợp với Bản dịch Hợp đồng hợp tác đầu tư do bị đơn cung cấp cho Tòa
án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Tại Điều 4 của Hợp đồng hợp tác đầu tư quy định:
Mục 4.1 4.2 các cổ đông gồm ông T3, Q, ông N đã hoàn tất vốn góp
vào ngân hàng A1 Chi nhánh V1, vào ngày 19/12/2019, tổng cộng 15.570.025
đồng.
Mục 4.3 4.4 quy định SW1 sẽ cung cấp một khoản vay tổng giá trị
540.000 USD cho EGI với quyền lựa chọn chuyển đổi khoản vay thành 45%
vốn chủ sở hữu.
Mục (i) (ii) thể hiện khoản vay đợt 1 khi ký kết thỏa thuận chuyển
nhượng tài sản, SW1 sẽ cung cấp 400.000 USD … khoản vay đợt 2 nếu bà Q
cung cấp kế hoạch chi tiết được SW1 chấp thuận.
Tại mục 4.4.1 thể hiện: 4.4.1. Thỏa thuận mua bán tài sản kinh doanh với
Phòng khám D1 như được quy định tại Phụ lục II của hợp đồng này”. Đồng thời
các tài sản tại Phụ lục 2 kèm theo Thỏa thuận hợp tác đầu được kết giữa
SW1 EGI chính các tài sản nguyên đơn đã bàn giao cho bị đơn tnăm
2019. Do đó, quan điểm của bị đơn cho rằng do SW1 và ông T3, bà Q, ông N
thỏa thuận nội dung SW1 sẽ cung cấp khoản vay chuyển đổi thành cổ phần của
SW1 vào Công ty E1, vậy SW1 đưa nội dung sẽ làm hợp đồng mua bán tài
sản với bên thứ ba để hợp thức hóa phần tài sản của SW1 đưa vào Công ty E1,
chính vì vậy EGI nhận thiết bị là phần góp vốn của SW1 là có căn cứ.
[2.2.4]. Thỏa thuận hợp tác đầu được ký kết vào Tháng 2 năm 2020
nhưng thực tế nguyên đơn đã bàn giao các thiết bị cho bị đơn từ năm 2019. Do
đó, trình bày của bđơn cho rằng trước khi Thỏa thuận hợp tác đầu các
bên đã thương thảo công việc qua emai là căn cứ. Tòa án cấp thẩm cũng
sử dụng các nội dung trong emai do bị đơn cung cấp tại Vi bằng số 55/2023/VB-
TPL ngày 18/4/2023 đã được công khai chứng cứ để làm căn cứ giải quyết vụ
án. Xét thấy, nội dung các emai do bị đơn cung cấp thể hiện tại các vi bằng do bị
đơn cung cấp, phù hợp với các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, do đó, được
công nhận là chứng cứ để giải quyết vụ án.
Cụ thể:
Email ngày 20/8/2019, từ Giám đốc tài chính của SW1 là ông Wong Sian J
nội dung thống nhất về bản thảo Hợp đồng hợp tác đầu vào ngày
20/8/2019;
Email ngày 09/10/2019 từ đại diện theo pháp luật của City C1 ông A gửi
cho toàn thể nhân viên của City C2 và bà Q, có nội dung:
“Thân gửi các đồng nghiệp SW1,
13
Rất vui mừng thông báo với các bạn rằng bà Q, một nữ doanh nhân thành
đạt trong lĩnh vực thẩm mỹ, nhà sáng lập quản thương hiệu C3, sẽ gia
nhập SW1 Việt Nam. Chúng tôi sthành lập các liên doanh để quản các hoạt
động của S1 mở thêm các phòng khám thẩm mỹ mới trong tương lai (với
sở đầu tiên tại Quận A).
Trong khi chờ hoàn thiện các thỏa thuận cụ thể, chúng tôi mong muốn triển
khai các bước hợp tác sớm nhất thể. vậy, Q sẽ đảm nhận các vai trò
của quản của SW1 Việt Nam, hiệu lực từ ngày 10 tháng 10 năm 2019
chịu trách nhiệm về lợi nhuận của SW1 (P&L) dưới sự hướng dẫn từ phía
Singapore. Chúng tôi đang hoạch định các bước tiếp theo cho giai đoạn chuyển
tiếp này, bao gồm chuyển giao nhân sự, giấy phép, thiết bị vào liên doanh y
dưới sự chỉ đạo của Q. Cho đến khi thông báo mới bằng văn bản về các
vấn đề dưới đây, tôi muốn nhấn mạnh các nội dung chi tiết liên quan đến
hoạt động để nhân viên SW1 thực hiện theo...”.
Email ngày 06/11/2019 từ Giám đốc SW1 Singapore, ông Tech Liang B
gửi cho đại diện pháp luật của City C1- ông A để giao việc rằng:
“Quyên skhông sử dụng toàn bộ phòng khám Quận G, ngoại trừ một căn
phòng nhỏ để làm việc với A”;
“Bà Q làm việc với A để chuyển cho bất kỳ nhân viên nào ấy
muốn”;
“Tài sản phải được chuyển giao cho EGI”.
Email ngày 11/11/2019, từ đại diện theo pháp luật của City C1 là ông A gửi
cho bà Q và đội ngũ CarePlus, có nội dung:
“Tôi được biết các thiết bị SW1 (tài sản cố định) đã được di dời từ D7 sang
D1 như một phần của quá trình chuyển giao... Tôi cần @Hoang mặt tại
D7 trong ngày thứ 4 đkiểm tài sản cố định và hàng tồn kho để chúng tôi
thể kết sổ SW1 và báo cáo cho bộ phận SW1 tại Singgaore theo tiến độ”.
Từ nội dung các email nêu trên diễn biến bàn giao thiết bị giữa nguyên
đơn bị đơn cho thấy quan điểm của bị đơn cho rằng CityClinic liên quan đến
SW1; nguyên đơn giao thiết bị cho bị đơn do chỉ đạo của SW1 các thiết bị
này là tài sản góp vốn của SW1 vào công ty E1 là có căn cứ.
[2.2.5]. Biên bản bàn giao thiết bị ngày 15/11/2019 phần tiếng Anh thể hiện
nội dung Công ty C4 giao tài sản cho SW1. Xét thấy, mặc EGI ký vào phần
người nhận nhưng chủ thể của bên nhận là “SW1”, điều này chứng tỏ EGI chỉ là
bên nhận tài sản góp vốn của SW1 do CityClinic chuyển giao thay cho SW1.
[2.2.6]. Tại Danh mục thiết bị kèm theo email ngày 04/8/2020, do Công ty
C4 gửi cho EGI thể hiện một số thiết bị bàn giao gắn nhãn SW1. Do đó, E
cho rằng đây là một trong những căn cứ chứng minh các tài sản bàn giao của
SW1 là phù hợp; Công ty C4 cho rằng chữ SW1 dán trên các sản phẩm bàn giao
chỉ là mã tài sản chứ không phải là tên công ty S là không phù hợp.
14
[3]. Từ các phân tích nêu trên cho thấy Tòa án cấp thẩm chấp nhận yêu
cầu của nguyên đơn không căn cứ. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị đơn cũng
trình bày bị đơn sẽ thực hiện nghĩa vụ với SW1 trong khuôn khổ hợp đồng hợp
tác thỏa thuận giữa EGI SW1, khi bị đơn SW1 thanh hợp đồng hợp tác
thỏa thuận.
Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy kháng cáo của Công ty E1 về việc yêu
cầu Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm theo hướng không chấp nhận toàn
bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, căn cứ nên được chấp nhận. Do đó,
Tòa án cấp phúc thẩm chấp nhận kháng cáo của bị đơn, sửa bản án sơ thẩm theo
hướng không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
[4]. Về phần thẩm định giá các thiết bị: Do Hội đồng xét xử phúc thẩm
không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn nên không xem xét lại phần
này.
[5]. Ý kiến của nguyên đơn Công ty TNHH C4, người quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan SW1 (VietNam) Pte.Ltd, không được chấp nhận.
[6]. Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ
Chí Minh tại phiên tòa, không được chấp nhận.
[7]. Về án phí kinh doanh thương mại thẩm chi pthẩm định giá,
nguyên đơn phải chịu.
[8]. Các quyết định khác của bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm không
kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, hiệu lực pháp luật kể từ
ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
[9]. Về án phí kinh doanh thương mại phúc thẩm: Bị đơn không phải chịu
theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ Điều 148; Điều 270; Điều 293; khoản 2 Điều 308; Điều 309; Điều
313 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016
của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Khóa XIV quy định về mức thu, miễn, giảm,
thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Tuyên xử:
1. Chấp nhận kháng cáo của bị đơn Công ty Cổ phần C4.
2. Sửa Bản án kinh doanh thương mại thẩm số 119/2024/KDTM-ST
ngày 21/6/2024 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh v“Đòi lại tài
sản”, giữa nguyên đơn Công ty TNHH C4 với bị đơn Công ty Cổ phần C4, như
sau:
15
Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc buộc Công ty
Cổ phần C4 nghĩa vụ hoàn trả cho Công ty TNHH C4 giá trị các thiết bị
8.468.294.000 đồng (Tám tbốn trăm sáu mươi tám triệu hai trăm chín mươi
bốn nghìn đồng).
3. Về án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm:
Công ty TNHH C4 phải chịu 116.464.294 đồng (Một trăm mười sáu triệu
bốn trăm sáu mươi bốn nghìn hai trăm chín ơi bốn đồng) án phí kinh doanh
thương mại sơ thẩm; Khấu trừ số tiền 13.168.836 đồng (Mười ba triệu một trăm
sáu mươi tám nghìn tám trăm ba mươi sáu đồng) do nguyên đơn đã nộp tại các
Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2019/0093262 ngày
10/11/2020 số AA/2019/0093263 ngày 10/11/2020 của Cục Thi hành án dân
sự Thành phố Hồ Chí Minh. Do đó, nguyên đơn Công ty TNHH C4 n phải
chịu 103.295.458 đồng (Một trăm lẻ ba triệu hai trăm chín mười lăm nghìn bốn
trăm năm mươi tám đồng).
Công ty Cổ phần C4 không phải chịu án phí kinh doanh thương mại
thẩm.
4. Về chi phí thẩm định giá:
Công ty TNHH C4 phải chịu là 44.000.000 đồng (đã nộp xong).
Công ty Cổ phần C4 không nghĩa vụ phải nộp nên không phải hoàn lại
chi phí thẩm định giá 44.000.000 đồng cho Công ty TNHH C4.
5. Về án phí kinh doanh thương mại phúc thẩm: Công ty Cổ phần C4
không phải chịu. Hoàn trả số tiền 2.000.000 đồng tạm ứng án phí cho bị đơn, do
bị đơn đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0069346 ngày
25 tháng 11 năm 2024 của Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh.
6. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- Tòa án nhân dân tối cao;
- VKSNDCC tại TP.HCM;
- TAND TP.HCM;
- Cục THADS TP.HCM;
- Các đương sự;
- Lưu: HS, VP (TVN).
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Nguyễn Thị Thúy Hòa
Tải về
Bản án số 69/2025/KDTM-PT Bản án số 69/2025/KDTM-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 69/2025/KDTM-PT Bản án số 69/2025/KDTM-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất