Bản án số 01/2025/KDTM-ST ngày 11/06/2025 của TAND huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang về tranh chấp về mua bán hàng hóa

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 01/2025/KDTM-ST

Tên Bản án: Bản án số 01/2025/KDTM-ST ngày 11/06/2025 của TAND huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang về tranh chấp về mua bán hàng hóa
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp về mua bán hàng hóa
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND huyện An Biên (TAND tỉnh Kiên Giang)
Số hiệu: 01/2025/KDTM-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 11/06/2025
Lĩnh vực: Kinh doanh thương mại
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Công ty TNHH gạo H khởi kiện yêu cầu ông H thanh toán nợ mua bán
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
HUYỆN AN BIÊN Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
TỈNH KIÊN GIANG
Bản án số: 01/2025/KDTM-ST
Ngày: 11 - 6 - 2025
V/v tranh chấp hợp đồng mua bán
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN AN BIÊN, TỈNH KIÊN GIANG
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Đinh Thị Thơm.
Các Hội thẩm nhân dân: Nguyễn Ngọc Duyên Trần Thị Mộng
Lành.
- Thư ký phiên tòa: Ông Nguyễn Văn Mau Thư ký Tòa án nhân dân huyện
An Biên tỉnh Kiên Giang.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện An Biên tỉnh Kiên Giang: Bà Lai
Thị Ngọc Thuý.
Trong ngày 11 tháng 6 năm 2025, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện An Biên
tỉnh Kiên Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ số 02/2025/TLST-KDTM
ngày 11 tháng 6 năm 2025 về việc “Tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản” theo
Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 99/2025/QĐXXST-DS ngày 26 tháng 5 năm
2025 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Công ty trách nhiệm hữu hạn gạo H (Công Ty TNHH gạo
H)
Người đại diện theo pháp luật: Ông Đặng Văn T, chức danh: chủ tịch kiêm
giám đốc công ty.
Địa chỉ: Ấp M, xã M, huyện H, tỉnh Kiên Giang. (Có mặt).
2. Bị đơn: Ông Nguyễn Văn H, sinh năm 1972
Địa chỉ: Ấp N, xã Đ, huyện A, tỉnh Kiên Giang. ( mặt).
3. Người quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Ông Trần Thanh T1, sinh năm
1977
Địa chỉ: Ấp T1, xã Đ, huyện A, tỉnh Kiên Giang. (Vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN:
2
Theo đơn khởi kiện quá trình làm việc tại Tòa án, đại diện của
nguyên đơn Công Ty TNHH gạo H - ông Đặng Văn T (Ông T) trình bày:
Vào ngày 13/10/2023 ông Nguyễn Văn H (ông H) hợp đồng với ông T
mua lúa giống của Công ty TNHH gạo H, số lượng gcả cthể như sau: Ông
H mua giống lúa OM18 slượng 14 tấn 960 kg với giá 14.000 đồng/kg, tổng số
tiền mua bán 209.440.000 đồng. Việc mua bán các bên thoả thuận miệng, không
lập hợp đồng nhưng khi giao hàng ông T ghi hoá đơn bán lẻ ông H tên
xác nhận hàng nhận nợ. Sau khi nhận hàng ông H đã chuyển trả cho ông T
90.000.000 đồng và còn nợ lại 119.440.000 đồng và hẹn tới vụ thu hoạch lúa ông H
sẽ thanh toán hết số tiền còn lại. Tuy nhiên đến vụ thu hoạch lúa ông H không thực
hiện trả nợ, ông T đã yêu cầu ông H trả nợ nhưng ông H không thanh toán.
Trong quá trình giải quyết vụ án tại phiên toà ông T yêu cầu Toà án buộc
ông H trả số nợ mua bán là 119.440.000 đồng. Ngoài ra không yêu cầu gì thêm.
Trong quá trình giải quyết ván, bị đơn ông Nguyễn Văn H không
yêu cầu phản tố và có ý kiến trình bày như sau:
Ông H không thống nhất với nội dung yêu cầu của ông T. Ông H xác định
bản thân ông H làm trung gian kết nối cho ông T bán lúa giống cho ông Đặng Văn
T1 địa chỉ tại ấp Thuận Tây A, Đông Thạnh, An Minh, Kiên Giang để ông
T1 bán lại cho người dân. Sau đó ông T1 đã hợp đồng mua bán 15 tấn lúa giống
của ông T ông T1 cũng đã chuyển trả cho ông T số tiền 90.000.000 đồng. Ông
H xác định trong giao dịch mua bán giữa ông T ông T1 tông H chỉ đóng vai
trò trung gian kết nối việc mua bán giữa người mua người bán, trách nhiệm
trả nợ tiền mua bán trách nhiệm của ông T1, ông H không đồng ý trả số tiền
ông T yêu cầu.
Ông H trình bày việc ông T bán lúa giống cho ông T1 các bên thoả thuận
sau khi người dân thu hoạch lúa ông T sẽ thu mua lại lúa ngang của người dân do
ông T1 cung cấp lúa giống. Tuy nhiên sau đó giữa bên ông T và bên ông T1 không
thoả thuận được việc mua bán lúa sau thu hoạch nên ông T1 không thanh toán hết
số tiền còn lại cho ông T cho đến nay.
Người quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Trần Thanh T1 ý
kiến trình bày như sau:
Ông T1 không có quan hệ quen biết gì với ông T và là bạn làm ăn với ông H.
3
Giữa ông T1 và ông T không hợp đồng mua bán với nhau còn việc mua bán
lúa giống giữa ông H với ông T thì ông T1 nắm bắt được như sau: Ông T
người cung cấp lúa giống cho ông H ông H dùng số lúa giống đó để cung cấp
cho ông T2 U Minh Thượng. Khi ông H nhận lúa giống từ ông Th thì ông H
thoả thuận hợp tác với ông T1 để cung cấp số lúa giống trên cho ông T2 do ông T2
quan hệ quen biết cũng mối làm ăn của ông T1. Sau khi ông T giao lúa
giống cho ông H thì ông H ông T1 đã giao cho ông T2 nhưng sau đó ông T2
không thực hiện nghĩa vụ thanh toán cho ông H bỏ trốn. Khi ông H nhận lúa
giống ông T1 người chuyển trả cho ông T1 số tiền 90.000.000 đồng, số tiền còn
lại khoảng 120 triệu đồng ông T2 không trả nên ông H chưa trả được nợ cho ông T.
Ông T1 xác định ông T1 hoàn toàn không biết ông T ai, không tham gia
giao dịch hay thoả thuận mua bán với ông T. Việc ông H mua lúa giống của ông
T thì ông H trách nhiệm thanh toán nợ cho ông T còn ông T1 hợp tác với ông H
giao số a ông H mua của ông T cho ông T2 nay ông T2 bỏ trốn thì ông T1
đồng ý trả cho ông H ½ số tiền ông T2 nợ của ông H. Ông T1 xác định chỉ
trách nhiệm thanh toán nợ nần với ông H, còn với ông T thì không thoả thuận
hay giao dịch gì với ông T nên ông T1 không chịu trách nhiệm gì với ông T.
Ngoài ra ông T1 còn cho biết ông H1 mua lúa giống của ông T1 để bán cho
người khác mục đích để kiếm tiền cò (tiền lời), do ông T1 quan hệ làm ăn với
ông T2 trước đó nên ông H mới kéo ông T1 hợp tác với ông H để cung cấp lúa
cho ông T2.
Kết quả thu thập chứng cứ:
Tài liệu, chứng cứ do nguyên đơn cung cấp gồm: 01 (một) hoá đơn bán lẻ
lp ngày 13/10/2023. Bị đơn người quyền lợi nghĩa vụ liên quan không cung
cấp chứng cứ.
Qua yêu cầu khởi kiện ý kiến của các đương sự đã thống nhất
không thống nhất với nhau các vấn đề sau:
Nội dung thống nhất: Không có
Nội dung không thống nhất: Ông T xác định ông H mua lúa giống của ông T
còn nợ số tiền mua bán 119.440.000 đồng, ông H không thừa nhận mua bán
lúa giống của ông T xác định là (trung gian) kết nối việc mua bán lúa giống
giữa ông T với ông T1, ông T1 xác định không quan hệ mua bán lúa giống với
4
ông T chỉ hợp tác với ông H để giao số lúa ông H mua của ông T cho ông
T2.
Ý kiến phát biểu của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa:
Về tố tụng: Hội đồng xét xử, Thẩm phán, thư phiên tòa và nguyên đơn ,
bị đơn đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Không có kiến
nghị về phần thủ tục tố tụng.
Về nội dung: Đề nghị chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu trong hồ vụ án, được thẩm tra tại phiên
tòa và căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ do các đương sự cung cấp, Hội đồng xét xử
nhận định:
[1] Về tố tụng:
Thẩm quyền giải quyết: Nguyên đơn khởi kiện đối với bị đơn nơi trú
trên địa bàn huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang nên căn cứ vào các Điều 35, Điều 39
của Bộ luật tố tụng dân sự xác định vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án
nhân dân huyện An Biên.
Về quan hệ pháp luật của vụ án: Bị đơn vi phạm nghĩa vụ trả nợ từ quan hệ
mua bán, do đó quan hệ pháp luật của vụ án được xác định “Tranh chấp hợp
đồng mua bán tài sản”. Trong quá trình th Toà án xác định đây v án dân s
v tranh chp hợp đồng mua bán tài sn. Tuy kết trong giai đoạn chun b xét x
nguyên đơn cung cấp giy chng nhn đăng kinh doanh ca doanh nghip ca
công ty TNHH go H xác định ngun lúa ging cung cp cho ông H ca
Công ty TNHH go H đồng thi qua các tài liệu đã thu thập được có trong h sơ vụ
án (li khai ca b đơn và người quyn lợi nghĩa vụ liên quan), Hội đồng xét x
nhận định trong giao dch mua bán lúa ging thì bên bán là t chức có đăng ký kinh
doanh còn bên mua lá cá nhân c bên bán và bên mua đu có chung mục đích là
li nhun nên được xác định loại án kinh doanh thương mại theo khoản 1 Điều
30 của Bộ luật tố tụng dân sự. Do đó, Hội đồng xét xử quyết định chuyển vụ án từ
thụ vụ án dân sự số: 191/2024/TLST-DS ngày 06/11/2024 thành thụ vụ án
kinh doanh thương mại số 02/2025/TLST-KDTM ngày 11 tháng 6 năm 2025 về
tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản.
Việc vắng mặt của đương sự tại phiên toà: Người có quyền lợi nghĩa vụ
liên quan vắng mặt tại phiên toà nhưng đã đơn xin xét xử vắng mặt, căn cứ vào
5
khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự xét xử vắng mặt người quyền lợi
nghĩa vụ liên quan.
[2] Về nội dung vụ án:
Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, Hội đồng xét xử xét thấy: Ông Tlà
đại diện của Công ty TNHH gạo H khởi kiện yêu cầu ông H thanh toán tiền nợ mua
bán lúa giống, tuy nhiên trong quá trình giải quyết vụ án ông H không chấp nhận
nội dung khởi kiện của ông T xác định chủ thể của giao dịch mua bán 14 tấn
960 kg lúa giống loại OM18 là ông T1 và cho rằng ông H chỉ là trung gian cho việc
mua bán giữa ông T và ông T1.
Trong quá trình giải quyết vụ án, ông T ông T1 đều xác định giữa ông T
và ông T1 không có giao dịch mua bán lúa giống với nhau, chưa từng biết nhau nên
không các thoả thuận liên quan đến việc mua bán 14 tấn 960 kg lúa giống
OM18. Mặc ông H cho rằng ông T người bán lúa giống còn ông T1 người
mua nhưng bản thân ông H cũng xác định ông T1 chỉ liên hệ với ông H còn mọi
giao dịch liên quan đến việc mua bán lúa giống như trao đổi thoả thuận về giá cả,
số lượng đều do ông H ông T giao dịch với nhau. Trong hoá đơn bán lẻ thể hiện
ông H người xác nhận việc nhận hàng ông H không cung cấp được chứng
cứ nào khác chứng minh việc ông T1 người giao dịch mua bán với ông T và ông
T1 đã nhận slúa giống bán từ ông T nên không sở để xác định có diễn ra
giao dịch mua bán giữa ông T và ông T1 như lời ông H trình bày.
Qua lời trình bày của ông T1 cho biết do ông T có quan hệ quen biết với ông
T2 U Minh Thượng và ông T2 mối làm ăn của ông T1 nên sau khi ông H nhận
lúa giống từ ông T thì ông H mới thoả thuận hợp tác với ông T1 để cung cấp số lúa
giống cho ông T2. Nvậy ông T1 chỉ liên quan đến việc ông H1 cung cấp lúa
giống cho ông T2 đồng thời khi ông T2 không thực hiện nghĩa vụ trả tiền mua lúa
giống cho ông H thì ông T1 cũng đã xác định trách nhiệm của mình trả cho ông H
½ số tiền ông T2 nợ của ông H. Việc ông T1 xác nhận quan hệ hợp tác làm ăn
với ông H để giao lúa cho ông T2 và không xác nhận quan hệ mua bán với ông T là
cơ sở để xác định ông T1 không nghĩa vụ thanh toán tiền nợ mua bán cho ông T.
Quá trình giải quyết vụ án ông T cung cấp chứng cứ là 01 Hoá đơn bán lẻ đề
ngày 13/10/2023 thể hiện chữ xác nhận bên mua hàng ông H, ông Hthừa
nhận chữ tên viết họ tên của mình trong hoá đơn bán lẻ này do ông H .
Tại phiên toà ông H trình bày ông H chỉ xác nhận chữ tên của mình trong hoá
6
đơn bán lẻ thời điểm ký tên vào hoá đơn này thì ông H chỉ xác nhận đã nhận
2.600kg lúa giống nhưng nội dung hoá đơn lại thể hiện khối lượng lúa giống số
tiền nợ không đúng với số lượng lúa giống mà ông H đã nhận. Nhận thấy, quá trình
giải quyết vụ án giữa ông H và ông T đều xác định ông T đã cung cấp số lượng lúa
giống OM18 14 tấn 960kg tính thành tiền 209.440.000 đồng ông T1 đã
chuyển trả được 90.000.000 đồng, số tiền còn lại chưa thanh toán 119.440.000
đồng, đối chiếu với dữ liệu trong chứng cứ là hoá đơn bán lẻ cũng thể hiện số tiền
nợ còn lại là 119.440.000 đồng và như vậy số tiền mua bán còn thiếu trong hoá đơn
bán lẻ hoàn toàn phù hợp với nội dung xác nhận số nợ giữa ông T ông H do
đó không có cơ sở để xác định nội dung của hoá đơn là không phản ánh đúng số nợ
mà nguyên đơn đã yêu cầu.
Căn cứ vào Hđơn bán lẻ ngày 13/10/2023 thể hiện ông H đã xác nhận
bên nhận hàng nên ông H phải nghĩa vụ thanh toán tiền mua bán lúa giống
cho ông T phù hợp với chứng cứ trực tiếp của vụ án. Do đó căn cứ vào Điều 50
Luật thương mại, Điều 440 Bộ luật dân sự Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của
ông T cần buộc ông H nghĩa vụ thanh toán số tiền mua bán lúa giống cho ông T
là 119.440.000 đồng.
Ghi nhận ý kiến của ông T chỉ yêu cầu ông H trả số nợ mua bán là
119.440.000 đồng không yêu cầu ông H phải trả lãi suất chậm thực hiện nghĩa
vụ trả tiền.
[3] Về án phí của vụ án: Do yêu cầu của ông T được chấp nhận nên buộc
ông H phải nộp án phí giá ngạch, cụ thể như sau: 119.440.000 đồng x 5% =
5.972.000 đồng.
Ông T được hoàn trả số tiền nộp tạm ứng án phí là 2.968.000 đồng.
[4] Về ý kiến phát biểu về việc tuân theo pháp luật tố tụng và đề nghị hướng
giải quyết vụ án của đại diện Viện kiểm sát huyện An Biên tại phiên tòa là có cơ sở
căn cứ pháp luật nên Hội đồng xét xử đã xem xét ghi nhận trong quá trình
giải quyết vụ án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Áp dụng Điều 30, Điều 35, Điều 39, Điều 144, Điều 147, Điều 271 Điều
273 Bộ luật tố tụng dân năm 2015;
7
Áp dụng Điều 24, Điều 50 Luật thương mại 2005; Điều 280, Điều 440 Bộ
luật dân sự 2015;
Áp dụng Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ
Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản sử dụng án phí và
lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Đặng Văn T.
Buộc ông Nguyễn Văn H nghĩa vụ thanh toán cho ông Đặng Văn T số
tiền nợ mua bán là 119.440.000 đồng (Một trăm mười chín triệu, bốn trăm bốn
mươi nghìn đồng).
Nghĩa vụ trả nợ được thực hiện khi án có hiệu lực pháp luật.
Ghi nhận ý kiến của ông Đặng Văn T không yêu cầu ông Nguyễn Văn H
phải trả lãi suất chậm thực hiện nghĩa vụ trả tiền.
2. V án phí vụ kiện:
Buộc ông Nguyễn Văn H phải nộp án phí dân sự thẩm 5.972.000 đồng
(Năm triệu chín trăm bảy mươi hai nghìn đồng).
Ông Đặng Văn T được hoàn trả tiền tạm ứng án phí 2.986.000 đồng (Hai
triệu, chín trăm tám mươi sáu nghìn đồng) theo biên lai thu tiền số 0003396 ngày
16/10/2024 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện An Biên.
3. Quyền kháng o: Án xử công khai, nguyên đơn, bị đơn quyền kháng
cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án ngày 11/6/2025. Người có quyền
lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo bản án trong
hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.
Trường hp bn án, quyết định được thi hành theo quy đnh tại Điều 2 Lut
thi hành án dân s thì người được thi hành án dân sự, người phi thi hành án dân s
có quyn tha thun thi hành án, quyn yêu cu thi hành án, t nguyn thi hành án
hoc b ng chế thi hành án theo quy định ti các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Lut thi
hành án dân s; Thi hiu thi hành án được thc hiện theo quy định tại Điều 30
Lut thi hành án dân sự./.
Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
- TAND tỉnh Kiên Giang; THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
- VKSND huyện An Biên;
- Chi cục THADS huyện An Biên;
- Các đương sự; (Đã ký)
- Lưu: VT, HSDS.
8
Đinh Thị Thơm
Tải về
Bản án số 01/2025/KDTM-ST Bản án số 01/2025/KDTM-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 01/2025/KDTM-ST Bản án số 01/2025/KDTM-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất