Bản án số 12/2025/KDTM-PT ngày 24/06/2025 của TAND tỉnh Long An về tranh chấp về mua bán hàng hóa

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 12/2025/KDTM-PT

Tên Bản án: Bản án số 12/2025/KDTM-PT ngày 24/06/2025 của TAND tỉnh Long An về tranh chấp về mua bán hàng hóa
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp về mua bán hàng hóa
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Long An
Số hiệu: 12/2025/KDTM-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 24/06/2025
Lĩnh vực: Kinh doanh thương mại
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH LONG AN
Bn án s: 12/2025/KDTM-PT
Ngày 24-6-2025
V/v Tranh chấp hợp đồng mua bán
hàng hóa
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH LONG AN
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm :
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Trần Tấn Quốc
Các Thẩm phán Bà Lê Thị Kim Nga
Bà Huỳnh Thị Hồng Vân
- Thư phiên tòa: Ông Khổng Văn Đa Thư Tòa án nhân dân tỉnh
Long An.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Long An tham gia phiên tòa:
Nguyễn Kim Thoa - Kiểm sát viên.
Trong các ngày 17 và 24 tháng 6 năm 2025, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh
Long An tiến hành xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ số 03/2025/TLPT-
KDTM ngày 13 tháng 3 năm 2025 về việc “Tranh chấp hợp đồng mua bán hàng
hóa”.
Do Bản án dân sự thẩm số 15/2024/KDTM-ST ngày 23 tháng 12 năm
2024 của Toà án nhân dân huyện Bến Lức bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 03/2024/QĐ-PT ngày
18 tháng 4 năm 2024, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Công ty TNHH T4. Địa chỉ trụ sở chính: Số A, đường T,
phường T, Quận G, Thành phố Hồ Chí Minh.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Phạm Văn T; chức danh: Giám đốc.
- Bị đơn:
1. Công ty TNHH K1. Địa chỉ trụ schính: Ấp F, M, huyện B, tỉnh
Long An.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Trần Hiệp H, sinh năm 1949; chức
danh: Giám đốc; địa chỉ hiện nay: Tầng B, Tòa nhà C, Số A, đường T, phường
C, quận H, Thành phố Hà Nội.
2. Công ty Cổ phần Đ (đã đổi tên thành Công ty Cổ phần Đ1). Địa chỉ trụ
sở chính: Tầng A, Tòa nhà V, số C đường L, quận Đ, Thành phố Hà Nội.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Trí D; chức danh: Giám đốc.
2
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Ngọc S; chức danh: Trưởng
Ban Điều hành Gói thầu A1 Công ty Cổ phần Đ1 (theo Văn bản ủy quyền ngày
26/4/2024).
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Công ty Cổ phần Đ1: Luật
Nguyễn Hữu Ư Luật Phan Hiếu T1 Trung tâm vấn Pháp luật Học
viện Tư pháp.
3. Công ty Cổ phần V. Địa chỉ trụ sở chính: Số A, đường N, phường Đ,
quận L, Thành phố Hà Nội.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Vũ Đình T2; chức danh: Giám đốc.
4. Tổng Công ty Đ2. Địa chỉ trụ sở chính: Số F, đường B, quận B, Thành
phố Hà Nội.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Phạm Hồng Q; chức danh: Tổng Giám
đốc.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Hoàng K; chức danh: Phó
Giám đốc Ban quản lý dự án các đường cao tốc phía Nam VEC. Địa chỉ liên lạc:
Số G, đường N, phường P, Thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh (theo Văn
bản ủy quyền ngày 15/4/2024).
5. Ban Q1 (SEPMU). Địa chỉ trụ sở chi nhánh: Số G, đường N, phường P,
thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh.
- Người kháng cáo: Công ty Cổ phần Đ1Tổng Công ty Đ2 là bị đơn.
(Ông Phạm Văn T, ông Nguyễn Ngọc S, Luật Nguyễn Hữu Ư Luật
sư Phan Hiếu T1 mặt; các đương sự khác vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo Đơn khởi kiện ngày 09/4/2024 và Đơn khởi kiện bổ sung ngày
14/5/2024, Biên bản xác định yêu cầu khởi kiện ngày 24/5/2024 ngày
30/5/2024, trong quá trình giải quyết vụ án tại phiên tòa thẩm người đại
diện theo pháp luật của nguyên đơn Công ty TNHH T4 (viết tắt Công ty T4)
trình bày:
Công ty T4 03 Hợp đồng kinh tế với bị đơn Công ty TNHH K1 (viết
tắt là Công ty K1) gồm: Hợp đồng kinh tế số 01/HĐKT 2016 ngày 27/8/2016; s
02/HĐKT 2016 ngày 01/9/2016 và số 03/HĐKT ngày 20/10/2016, nội dung của
các Hợp đồng là Công ty T4 bơm cát lên mặt bằng theo sự hướng dẫn của ng
ty K1 tại công trình gói thầu A1 Km0+400 Km1 +100, công trình đường C.
Đoạn xã M, huyện B, tỉnh Long An.
Thực hiện theo các Hợp đồng nêu trên, Công ty T4 bơm cát lên công trình
khoảng 127.000m
3
, trong đó khối lượng đã được 02 Công ty xác nhận
120.717m
3
, khối lượng đã được nghiệm thu đo trên lan chở cát 6.282m
3
chưa làm phiếu xác nhận của 02 Công ty, thì Công ty K1 không thanh toán tiền
cát đã vi phạm nghĩa vụ theo các Hợp đồng đã kết. Công ty T4 chưa bàn
3
giao cát cho Công ty K1, chưa xuất hóa đơn VAT, chưa nhận thanh toán từ
Công ty K1 nên đã đưa công nhân bảo vệ cát.
Vì tình hình phức tạp phát sinh ảnh hưởng đến cát là tài sản của Công ty T4
và căn cứ vào Điều 7 của các Hợp đồng kinh tế đã ký quy định “Trường hợp các
nội dung tranh chấp không tự giải quyết bằng thương lượng điều kiện bất đắc
cuối cùng hai bên thống nhất khởi kiện lên Tòa án nhân dân tỉnh Long An…"
nên ngày 09/4/2024, Công ty T4 khởi kiện yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Long
An giải quyết tuyên hủy 03 Hợp đồng kinh tế nêu trên và Công ty T4 được nhận
lại toàn bkhối lượng cát Công ty T4 đã giao cho Công ty K1 nên Tòa án
nhân dân tỉnh Long An đã thụ vụ án ngày 10/4/2024. Sau đó, chuyển toàn bộ
hồ sơ khởi kiện về Tòa án nhân dân huyện Bến Lức thụ lý theo thẩm quyền ngày
16/5/2024.
Tiếp theo Công ty T4 khởi kiện bổ sung, kiện Ban Quản các đường cao
tốc phía Nam (viết tắt SEPMU). Địa chỉ trụ sở: Số G, đường N, phường P,
thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh. Bởi vì, là đơn vị trực tiếp thụ hưởng khối
lượng cát khoảng 127.000m
3
của Công ty T4. SEPMU đã nhờ lực lượng Công
an M yêu cầu ng an huyện B đưa lực lượng vào hiện trường nơi cát đang
tập kết của Công ty T4, cưỡng chế Công ty T4 không được bảo vệ cát, giao cát
cho SEPMU đưa cát vào thi công. Như vậy, Công ty T4 bị bắt buộc phải giao
cát cho SEPMU đưa vào thi công SEPMU đơn vị trực tiếp thụ hưởng t
của Công ty T4 thì SEPMU phải trách nhiệm thanh toán tiền cát cho Công ty
T4. Công ty T4 không ký hợp đồng bán cát cho SEPMU mà tự nhiên SEPMU tự
tuyên bố cát này đã mua đã thanh toán cho Công ty nào đó không đúng
thực tế. Sau khi Công ty T4 bơm cát lên công trình thì Công ty K1 vi phạm
nghĩa vụ thanh toán công trình cũng tạm ngưng gói thầu A1. Do nhà thầu
VINACONEX E&C, nay đổi tên là Công ty Cổ phần Đ1 (viết tắt là Công ty Đ1)
thi công. Ngày 25/02/2017, Công ty Đ1 tổ chức cuộc họp tại hội trường UBND
huyện B, trong đó các quan ban ngành của tỉnh Long An tham dự chứng
kiến gồm ông C - Phó Chủ tịch UBND tỉnh L; ông T3 - Chủ tịch UBND huyện
B; Công an huyện B; UBND M; Công an M; các đơn vị tham gia gồm:
SEPMU; Công ty Đ1; Công ty Cổ phần V (viết tắt là Công ty V); Công ty K1 và
Công ty T4.
Công ty Đ1 cam kết thanh toán tiền cát cho Công ty T4 thay cho Công ty
K1 nhưng sau đó Công ty Đ1 không thực hiện. Trong thời gian này, Công ty Đ1
cầm đầu thuê mướn rất nhiều băng nhóm giang hồ hội đen hành hung đánh
đập gây thương tích hủy hoại tài sản của Công ty T4. Vụ việc đã được Đội
điều tra tổng hợp Công an huyện B thụ lý.
Đến năm 2018, Công ty Đ1 đã khởi kiện Công ty T4 ra Tòa án nhân dân
Quận 7, Thành phố HChí Minh với nội dung vụ kiện: Yêu cầu Tòa án tuyên
hiệu Biên bản thỏa thuận ngày 25/02/2017 ra Quyết định áp dụng biện
pháp khẩn cấp tạm thời là cấm Công ty T4 vào công trình để Công ty Đ1 E&C
thi công trên mặt nền cát của Công ty T4 trái luật. Sau đó, ng ty T4 đã kịp
thời trình bày yêu cầu Tòa án nhân dân Quận 7 ban hành văn bản hủy bỏ
4
Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời đã cấp cho Công ty Đ1. Công
ty T4 đã trình bày yêu cầu Tòa án ra Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp
tạm thời cấm Công ty Đ1 dịch chuyển sử dụng cát của Công ty T4 TAND
Quận 7 đã ra Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời theo yêu cầu của
Công ty T4. Sau đó, Tòa án không xét xử vụ án mà ban hành Quyết định vô hiệu
biên bản với do ông Nguyễn Ngọc S, người đại diện Công ty Đ1 Biên
bản thỏa thuận là không đúng thẩm quyền.
Ngày 23/9/2024, Tòa án nhân dân huyện Bến Lức đã nhận được ng văn
số 443/CAT-ANKT ngày 16/8/2024 của Phòng An ninh kinh tế Công an tỉnh L
cung cấp thông tin cho Tòa án: “…Phòng An ninh kinh tế Long An đã nhận
được Đơn tố cáo đề ngày 26/02/2024 Đơn trình bày đề ngày 01/3/2024 của
ông Phạm Văn T Giám đốc Công ty T4, nội dung tố cáo Ban Q1 (người đại
diện tham gia điều hành: ông Nguyễn Hoàng K Phó Giám đốc Ban Q1) thuê
các nhà thầu thi công chiếm đoạt 127.000m
3
cát của Công ty T4 đang tập kết tại
mặt bằng của công trình thuộc M, huyện B, tỉnh Long An đsử dụng vào thi
công công trình Dự án cao tốc B - L đoạn đi qua địa bàn huyện B, tỉnh Long
An…”.
Qua nghiên cứu tài liệu, kết quả xác minh, xác định nội dung vụ việc
tranh chấp dân sự trong thực hiện các Hợp đồng mua bán cát giữa Công ty T4 và
Công ty K1. Mặt khác, nội dung tố cáo của Công ty T4 tương tự với nội dung tố
cáo ngày 07/6/2017 đã được quan điều tra Công an tỉnh L giải quyết ra
Quyết định không khởi tố vụ án hình sự (Quyết định số 22/QĐ-CSKT ngày
19/7/2022 của quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh L) nguyên đơn thống
nhất đã nhận Quyết định này cũng không ý kiến gì. Sau khi Công ty T4 nhận
được Công văn nêu trên của Phòng An ninh kinh tế - Công an tỉnh L, thì Công
ty T4 yêu cầu như sau:
Kể từ ngày 25/9/2024 cho đến khi Tòa án các cấp có thẩm quyền giải quyết
xong vụ án thì Công ty T4 không gửi bất Đơn tcáo nào đề nghị quan
điều tra Công an tỉnh L xử ký hình sự đối với các bị đơn trong vụ án nêu trên.
Hiện nay Công ty T4 đã làm Biên bản bàn giao khối lượng cát khoảng
127.000m
3
cho SEPMU với schứng kiến của Phòng An ninh Kinh tế Công an
tỉnh L SEPMU đã giao mặt bằng trong đó cát đắp nền đường của Công ty
T4 cho Công ty C1 thuộc Bộ Q2 thi công đoạn đầu của gói thầu A1 cao tốc Bến
Lức L nối với cao tốc Thành phố H Công ty T5 thi công đoạn đầu đường
vành đai 3 nối với cao tốc Bến Lức L thuộc xã M, huyện B, tỉnh Long An.
Yêu cầu Công ty Đ (tên gọi mới Công ty Cổ phần Đ1) trách nhiệm liên
đới cùng với SEPMU thanh toán số tiền cát theo giá thị trường cho Công ty T4.
Bởi các lý do:
Theo Công ty T4 được biết, SEPMU đại diện chủ đầu công trình
đường C - L Hợp đồng thi ng giao cho Công ty Đ1 (nthầu chính). Sau
khi được hợp đồng thầu chính, Công ty Đ1 tiếp tục hợp đồng giao cho
thầu phụ thi công là Công ty V.
5
Sau khi Công ty V được Hợp đồng thi công (là thầu phụ), Công ty V
tiếp tục hợp đồng liên doanh với Công ty K1 để Công ty K1 mua vật vật
liệu đưa vào thi công công trình. Khi Công ty K1 mua cát của Công ty T4 thì
nguồn cát, chất lượng cát đưa vào công trình tất cả các nhà thầu, chủ đầu đều
biết và chấp nhận chất lượng cát chỉ dẫn địa điểm tập kết cát lên đúng vị trí
của công trình.
Tại phiên tòa thẩm, người đại diện theo pháp luật của Công ty T4 vẫn
yêu cầu Tòa án tuyên hủy 03 Hợp đồng kinh tế giữa Công ty T4 với Công ty
K1, gồm: Hợp đồng số 01 ngày 27/8/2016; Hợp đồng số 02 ngày
01/9/2016 Hợp đồng số 03 ngày 20/10/2016. Đồng thời, Công ty T4 u
cầu giải quyết hậu quả của các Hợp đồng bhủy phải trả lại cho nguyên đơn
số lượng cát đã bán cho Công ty K1. Trường hợp, số lượng cát san lấp hiện
nay đã đưa vào công trình thi công xong thì yêu cầu Tòa án buộc Công ty K1
04 đơn vị Công ty V, Công ty Đ (tên gọi mới Công ty Đ1), Tổng Công ty Đ2
(viết tắt là Tổng Công ty V1) và SEPMU có trách nhiệm liên đới thanh toán tiền
cát cho Công ty T4, gtiền cát theo giá trị của Chứng thư thẩm định gs
020/2024/431-HD/TĐGLA-ĐS ngày 23/8/2024 của Công ty Cổ phần T6 t
nguyện không tính tiền lãi của số tiền này. Đồng thời, cũng không yêu cầu c
bị đơn phải bồi thường thiệt hại đối với khoản tiền nguyên đơn phải thuê
nhiều người bảo vệ lượng cát đã cung cấp cho Công ty K1. Công ty T4 cũng
không yêu cầu Cơ quan điều tra Công an tỉnh L xem xét khởi tố hành vi của các
bị đơn, đề nghị Hội đồng xét xử tiếp tục xét xử vụ án theo Đơn khởi kiện của
Công ty T4 đối với các yêu cầu nêu trên và xác định là vụ án kinh doanh thương
mại không có yếu tố hình sự. Ngoài ra, Công ty T4 không còn yêu cầu nào khác.
Tại bản tự khai ngày 02/8/2024, bị đơn Công ty TNHH K1 do ông Trần
Hiệp H là người đại diện theo pháp luật trình bày:
Công ty K1 thành lập ngày 09/6/2016. Sau khi đăng hoạt động Công ty
một số Hợp đồng mua bán hàng hóa với Công ty T4 và các đối tác khác.
Ngày 30/3/2019, T7 đã đóng số thuế của Công ty với do “NNT không
hoạt động tại trụ sở đã đăng ký”. Sau khi bị đóng mã số thuế, Công ty không có
hoạt động gì. Trong suốt quá trình giải quyết vụ án tại phiên tòa thẩm,
Công ty K1 không cung cấp bất tài liệu, chứng cứ để phản bác lại yêu cầu
khởi kiện của Công ty T4 xin vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án
và tại phiên tòa sơ thẩm.
Bị đơn Công ty Cổ phần Đ (đã đổi tên thành Công ty Cổ phần Đ1) do ông
Nguyễn Ngọc S là người đại diện theo ủy quyền trình bày:
Đối với yêu cầu khởi kiện của Công ty T4 khởi kiện Công ty Đ1 Tòa án
đưa Công ty Đ1 vào tham gia tố tụng với cách bị đơn của vụ án không
căn cứ, bởi vì:
Thứ nhất, việc Công ty T4 kết thực hiện Hợp đồng kinh tế với Công
ty K1 quan hkinh tế của các pháp nhân độc lập với nhau. Tranh chấp hợp
đồng mua bán hàng hoá đối với khoảng 127.000m
3
cát giữa Công ty T4 và Công
6
ty K1 quan hệ tranh chấp giữa hai bên Công ty Đ3, không liên đới với Công
ty Đ1.
Thứ hai, về pháp Công ty Đ1 Công ty T4 không quan hệ với nhau
trong hoạt động thương mại. Số cát mà Công ty T4 đã bán cho Công ty K1 và đã
chuyển quyền sở hữu cho nhiều chủ thể khác nhau thông qua các hợp đồng mua
bán hàng hoá hiệu lực pháp luật, đã được thực hiện đã cấu thành công
trình giao thông B - L thuộc sở hữu Nhà nước. Các hợp đồng này đều được các
bên tự nguyện giao kết, nội dung không trái quy định pháp luật, đạo đức xã hội,
các bên đã thực hiện hợp đồng nên đã phát sinh hiệu lực pháp được pháp
luật công nhận.
Thứ ba, Công ty Đ1 không quan hệ hợp đồng kinh tế với Công ty T4.
Công ty Đ1 không gây thiệt hại cho Công ty T4 ngoài hợp đồng. Do đó, Công ty
Đ1 Công ty T4 không quan hệ hợp đồng hay quan hệ ngoài hợp đồng với
nhau nên Công ty T4 khởi kiện Công ty Đ1 và Tòa án đưa Công ty Đ1 vào tham
gia tố tụng với tư cách bị đơn của vụ án là không có căn cứ.
Đối với yêu cầu của Công ty T4 trong trường hợp không nhận lại được toàn
bộ khối lượng bằng hiện vật thì yêu cầu Tòa án buộc các Công ty trong đó
Công ty Đ1 phải nghĩa vụ liên đới hoàn trả tiền cát cho Công ty T4 là không
có căn cứ, bởi các lý do:
Thứ nhất, Công ty T4 ký kết và thực hiện Hợp đồng kinh tế với Công ty K1
năm 2016. Sau khi Công ty T4 đã thực hiện nghĩa vụ giao hàng, chuyển cát
nhưng chưa được Công ty K1 thanh toán tiền. Công ty T4 đã có Văn bản đề nghị
Công ty K1 thanh toán ngày 01/02/2018. Tuy nhiên, tại Công văn 05/CV.CT
ngày 27/02/2018 Công ty K1 đã phúc đáp Văn bản đề nghị ngày 01/02/2018 của
Công ty T4 về việc thực hiện 03 Hợp đồng kinh tế giữa hai bên không thể
thực hiện việc thanh toán cho Công ty T4 với các do khác nhau. Như vậy, đã
phát sinh tranh chấp giữa Công ty T4 Công ty K1 từ ngày 27/02/2018. Tuy
nhiên, Công ty T4 đã không khởi kiện vụ án kinh doanh thương mại đến Tòa án
thẩm quyền để giải quyết trong thời hiệu luật định đến năm 2024 mới
khởi kiện thì đã hết thời hiệu khởi kiện theo Điều 319 Luật Thương mại 2005.
Thứ hai, như đã phân tích trên, Công ty Đ1 Công ty T4 không kết
Hợp đồng kinh tế với nhau, vậy không quan hệ với nhau trong hoạt động
thương mại, Công ty Đ1 cũng không gây thiệt hại cho Công ty T4 ngoài hợp
đồng. Do đó, Công ty Đ1 và Công ty T4 không có quan hệ hợp đồng và quan hệ
ngoài hợp đồng với nhau.
Công ty Đ1 là thành viên Liên danh Nhà thầu chính thi công gói thầu Al
thuộc dự án đường C - L. Gói thầu A1 đi qua địa bàn tỉnh Long An trong đó
xã M, huyện B, tỉnh Long An. Trong quá trình thực hiện gói thầu nêu trên, Công
ty Đ1 đã kết Hợp đồng số 81/HĐ/EC-HT với nhà thầu phụ thi công Công
ty V (Nhà thầu phụ đã được Chủ Đầu chấp nhận). Để hoàn thành hạng mục
đắp cát nền đường, Công ty V đã mua vật liệu cát của nhà cung cấp Công ty
K1. Đơn vị cung cấp cát này đã được tư vấn giám sát chấp nhận.
7
Liên quan đến kết quả thực hiện Hợp đồng số 81 giữa Công ty Đ1 và Công
ty V: Đến nay các bên đã hồ nghiệm thu thanh toán đến đợt số 7. Số tiền
Công ty Đ1 đã thanh toán/tạm ứng cho Công ty V bằng hình thức chuyển
khoản là: 38.599.068.942 đồng.
Liên quan đến khối lượng cát Công ty V đã thi công cho Công ty Đ1:
Tổng khối lượng giá trị cát Công ty Đ1 đã nghiệm thu, thanh toán cho Công
ty V là: 212.000,00m
3
tương đương 23.517.875.118 đồng (chưa bao gồm VAT
10%); Khối lượng cát chưa được nghiệm thu là: 6.000,00m
3
tương đương
665.328.000 đồng (chưa bao gồm VAT 10%) (số liệu theo hồ quyết toán
chưa ký). Tuy nhiên, Công ty Đ1 đã thanh toán/tạm ứng quá số tiền cho Công ty
V so với giá trị thực hiện Hợp đồng s 81 Công ty V được hưởng là:
4.002.148.711 đồng.
Như vậy, vpháp kinh tế Công ty Đ1 ng ty T4 không có quan
hệ với nhau trong hoạt động thương mại. Số cát mà Công ty T4 đã bán cho Công
ty K1 đã chuyển quyền sở hữu cho nhiều chủ thể khác nhau thông qua các hợp
đồng mua bán hàng hoá hiệu lực pháp luật đã được thực hiện. Các hợp
đồng này đều được các bên tự nguyện giao kết, nội dung không trái quy định
pháp luật, đạo đức hội, các bên đã thực hiện hợp đồng đã sử dụng toàn bộ
số cát trong thực tế để xây dựng thi công.
Công ty Đ1 đã thanh toán toàn bkhối lượng giá trị hạng mục đắp cát
nền đường đã nghiệm thu với Công ty V 212.000,00m
3
. Với khối lượng cát
chưa được nghiệm thu 6.000m
3
thì Công ty Đ1 cũng đã thanh toán/tạm ứng
vượt quá số tiền so với giá trị thực hiện toàn bộ Hợp đồng đã với Công ty V.
Khối lượng cát của Công ty V đã được chuyển giao quyền sở hữu và sử dụng để
xây dựng, thi công công trình, cấu thành một phần trong Dự án xây dựng Đường
C Bến Lức L thuộc sở hữu Nhà nước. Việc Công ty V đã kết Hợp đồng
thực hiện nghĩa vụ thanh toán đối với Công ty K1, Công ty K1 kết Hợp đồng
thực hiện nghĩa vụ thanh toán đối với ng ty T4 đó quan hkinh tế độc
lập của các bên, không liên đới với Công ty Đ1. Do vậy, nội dung trình bày của
Công ty T4 tại Đơn trình bày ngày 28/5/2024 hoàn toàn không sở,
tính chất vu khống. Công ty T4 sẽ phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về hành
vi vu khống đối với ng ty V2. Bởi các lẽ trên, Công ty Đ1 E&C đề nghị Toà
án nhân dân huyện Bến Lức, tỉnh Long An sửa đổi Thông báo thụ lý số 142/TB-
TLST ngày 24/5/2024, về tố tụng xác định lại tư cách tham gia tố tụng của Công
ty Đ1 E&C cho đúng người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Đnghị Tòa án
áp dụng thời hiệu khởi kiện trong vụ án này. Về nội dung đề nghị Tòa án bác
toàn bộ yêu cầu khởi kiện của Công ty T4 đối với Công ty Đ1.
Công ty Đ1 đã gửi kèm theo các tài liệu, chứng cứ liên quan đến vụ kiện
kèm theo Công văn số 773A/YKPL-E&C ngày 28/5/2024, đề nghị Quý Tòa giải
quyết theo thẩm quyền, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của ng ty Đ1. Ngày
02/10/2024, Công ty Đ1 có gửi Đơn yêu cầu Tòa án áp dụng thời hiệu khởi kiện
và đình chỉ giải quyết vụ án đề ngày 30/9/2024 như sau:
8
Căn cứ vào Bluật Dân sự năm 2015, Bluật Ttụng dân sự năm 2015,
thời hiệu khởi kiện không quá 02 năm kể từ ngày phát sinh tranh chấp.
Từ thời điểm ngày 20/6/2016 sau kết thực hiện nghĩa vụ giao hàng
hóa cho Công ty K1, Công ty T4 đòi tiền theo hợp đồng đã kết nhưng Công
ty K1 không trả tiền thì quyền lợi ích hợp pháp của Công ty T4 đã bị xâm
phạm, biết quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm nhưng không thực
hiện quyền khởi kiện, đến tháng 4 năm 2024 mới khởi kiện “Tranh chấp hợp
đồng mua bán hàng hóa” với Công ty K1. Tòa án nhân dân tỉnh Long An thụ
vụ án kinh doanh thương mại trên vào ngày 10/4/2024 là đã hết thời hiệu khởi
kiện.
Yêu cầu n cứ khoản 2 Điều 184 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 “Tòa
án chỉ áp dụng quy định về thời hiệu theo yêu cầu áp dụng thời hiệu của một bên
hoặc các bên với điều kiện yêu cầu này phải được đưa ra trước khi Tòa án cấp sơ
thẩm ra bản án, quyết định giải quyết vụ việc”.
Căn cứ vào điểm e khoản 1 Điều 217 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015:
Điều 217, đình chỉ giải quyết vụ án dân s
1. Sau khi thụ vụ án thuộc thẩm quyền của mình, a án ra quyết định
đình chỉ giải quyết vụ án dân sự trong các trường hợp sau đây:
e) Đương sự có yêu cầu áp dụng thời hiệu trước khi Tòa án cấp sơ thẩm ra
bản án, quyết định giải quyết vụ án và thời hiệu khởi kiện đã hết”.
Công ty Đ1 yêu cầu Tòa án áp dụng thời hiệu khởi kiện theo quy định pháp
luật nêu trên để xem xét, giải quyết về thời hiệu khởi kiện của Công ty T4. Đề
nghị Tòa án ban hành quyết định đình ch giải quyết vụ án Thông báo số
14a/TB-TLVA ngày 24/5/2024 do đã hết thời hiệu khởi kiện.
Ông Nguyễn Hoàng K người đại diện theo y quyền của Tổng Công ty
Đ2 (V1) và Ban Q1 (SEPMU) trình bày:
Không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của Công ty T4 về việc tranh chấp
hợp đồng giữa ng ty T4 Công ty K1, không liên quan đến Tổng Công ty
Đ2 (V1) Ban Q1 (V1), cũng không ý kiến, yêu cầu trong vụ án này
có văn bản xin xét xử vắng mặt.
Tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn vẫn ginguyên ý kiến, yêu cầu của
mình. Đồng thời, cam kết ngoài những chứng cứ đã cung cấp cho Tòa án, thì
không yêu cầu Tòa án thu thập thêm chứng cứ nào khác tại thời điểm hiện tại
cho đến khi Tòa án xét xử các cấp cũng không yêu cầu Tòa án triệu tập thêm
những người khác tham gia tố tụng trong vụ án này.
Các đương sự thống nhất với kết quả Chứng thư thẩm định giá số
020/2024/431-HD/TĐGLA-ĐS ngày 23/8/2024 của Công ty Cổ phần T6 thực
hiện nguyên đơn đề nghị Tòa án căn cứ vào các kết quả trên để giải quyết vụ
án trước khi đưa vụ án ra xét xử.
9
Tại Bản án n sự thẩm số: 15/2024/KDTM-ST ngày 23 tháng 12 năm
2024 của Toà án nhân dân huyện Bến Lức đã tuyên xử:
1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Công ty TNHH T4
đối với các bị đơn Công ty TNHH K1, Công ty Cổ phần Đ1, Công ty Cphần
V, Tổng Công ty Đ2 (V1) Ban Q1 (SEPMU) v vic tranh chấp Hợp đồng
mua bán hàng hóa”.
2. Hủy 03 Hợp đồng kinh tế số 01/HĐKT 2016 ngày 27/8/2016; Hợp đồng
kinh tế số 02/HĐKT 2016 ngày 01/9/2016 Hợp đồng kinh tế số 03/HĐKT
ngày 20/10/2016 giữa Công ty TNHH T4 đã ký kết với Công ty TNHH K1.
3. Buộc các bị đơn Công ty TNHH K1, Công ty Cổ phần Đ1, ng ty Cổ
phần V, Tổng Công ty Đ2 (V1) Ban Q1 (SEPMU) có nghĩa vụ liên đới thanh
toán cho Công ty TNHH T4 khối lượng cát đã san lấp là 120.717,0m
3
được định
giá thành tiền 38.025.855.000 đồng (Bằng chữ: Ba mươi tám tỷ không trăm
hai mươi lăm triệu tám trăm năm mươi lăm nghìn đồng).
Ngoài ra, a án cấp thẩm còn tuyên về nghĩa vụ chịu chi phí tố tụng;
nghĩa vụ chậm thi hành án; án phí; quyền kháng cáo; quyền yêu cầu, nghĩa vụ và
thời hiệu thi hành án.
Ngày 22/01/2024, Tòa án nhân dân huyện Bến Lức nhận được đơn kháng
cáo của Công ty Đ1 kháng cáo Bản án thẩm, u cầu Tán cấp phúc thẩm
xét xử: Áp dụng thời hiệu khởi kiện, hủy bản án thẩm đình chỉ giải quyết vụ
án đối với Công ty Đ1; không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty T4 đối
với Công ty Đ1, trong đó bao gồm yêu cầu giữ nguyên 03 hợp đồng kinh tế;
sửa phần quyết định của bản án sơ thẩm về chi phí tố tụng án phí đối với
Công ty Đ1.
Ngày 22/01/2024, Tòa án nhân dân huyện Bến Lức nhận được đơn kháng
cáo của Tổng Công ty V1 kháng cáo một phần Bản án thẩm, yêu cầu Toà án
cấp phúc thẩm xét xử sửa bản án thẩm: Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện
của Công ty T4 đối với Tổng Công ty V1.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Nguyên đơn không rút đơn khởi kiện. Bị đơn Công ty Đ1 xác định lại yêu
cầu kháng cáo, cụ thể yêu cầu Toà án cấp phúc thẩm: Áp dụng thời hiệu khởi
kiện, hủy bản án sơ thẩm đình chỉ giải quyết vụ án đối với Công ty Đ1; hủy bản
án thẩm do Tòa án cấp thẩm xác định ng ty Đ1 SEPMU bị đơn
sai cách của đương sự; không đồng ý hủy bỏ 03 hợp đồng kinh tế; không
đồng ý liên đới nghĩa vụ hoàn trả giá trị cát cho Công ty T4; sửa phần quyết định
của bản án thẩm về chi phí tố tụng án phí đối với Công ty Đ1. Bị đơn
Tổng ng ty V1 kháng cáo nhưng vắng mặt. Các đương sự không thoả
thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án vẫn giữ nguyên các ý kiến như
đã trình bày tại cấp sơ thẩm, ngoài ra các đương sự còn bổ sung ý kiến trình bày
như sau:
10
Bị đơn Công ty Đ1 do người đại diện theo uỷ quyền ông Nguyễn Ngọc S
và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp là Luật sư Nguyễn Hữu Ư trình bày:
Công ty Đ1 không với Công ty T4 hợp đồng nào cũng không gây
thiệt hại nào cho Công ty T4 kể cả ngoài hợp đồng. Tòa án cấp thẩm đưa
Công ty Đ1 E&C bị đơn không căn cứ, đối với SEPMU đơn vị phụ
thuộc của Tổng Công ty V1 nên việc xác định tư cách tố tụng là bị đơn cũng không
đúng. 03 Hợp đồng kinh tế chỉ liên quan đến Công ty T4 và Công ty K1. Công ty
T4 bàn giao cát cho SEPMU không cách pháp nhân thì Tổng Công ty V1
ủy quyền cho SEPMU hay không thì còn phải xem lại, một tài sản không được trả
hai lần.
Việc phát sinh tranh chấp không liên quan đến Công ty Đ1, Công ty Đ1 đã
thanh toán cho Công ty V nhiều hơn trong hợp đồng giữa hai bên. Công ty T4
hợp đồng với Công ty K1 t Công ty K1 đã xác lập quyền sở hữu cát
120.717m
3
theo 03 hợp đồng đã ký. Căn cứ các Điều 161, 168, 170, 171, 234,
238 Bộ luật Dân sự thì Công ty T4 đã chuyển giao quyền shữu cho Công ty
K1 tại thời điểm năm 2016. Bên mua đã nhận cát, nay ng ty T4 đã thừa nhận
n giao cát nhận tiền chuyển khoản 1.800.000.000 đồng từ Công ty K1.
Như vậy, việc giao tài sản đã hoàn thành. Nghĩa vụ thanh toán thì do Công ty K1
thực hiện, 03 hợp đồng đã thì hoàn toàn tự nguyện, không trái pháp luật, đạo
đức xã hội. Tại phiên toà phúc thẩm, Công ty T4 đề xuất tự nguyện trả lại cho bị
đơn 1.800.000.000 đồng tiền tạm ứng mua cát nhưng số tiền này bị đơn đồng
ý hay không thì là chuyện khác. Công ty Đ1 yêu cầu áp dụng thời hiệu khởi kiện,
Công ty T4 cho rằng lựa chọn tố cáo mà không khởi kiện là không có căn cứ nên
thời hiệu không còn. Do đó, khẳng định cấp thẩm đã thu thập đầy đủ chứng
cứ nhưng án sơ thẩm quyết định không đúng quy định pháp luật. Việc khởi kiện
bổ sung các bị đơn không đúng. Đề nghị sửa án thẩm theo hướng không
chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty T4 với Công ty Đ1, giữ nguyên 03 hợp
đồng kinh tế, áp dụng thời hiệu khởi kiện của Công ty T4 đối với Công ty Đ1,
sửa bản án sơ thẩm về chi phí tố tụng với án phí liên quan đến Công ty Đ1.
Luật Phan Hiếu T1 bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của Công ty Đ1
trình bày: Thống nhất ý kiến của Luật Ư, tuy nhiên đề xuất hủy bản án
thẩm giao về cấp thẩm xét xử lại. Đồng ý quan hệ tranh chấp hợp đồng
mua bán hàng hóa giữa Công ty T4 Công ty K1 thì không thể đưa Công ty
VNCN E&C bị đơn được. Tổng Công ty V1 hợp đồng với Công ty Đ1
E&C là cát thì cát ở đâu không liên quan nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét.
Nguyên đơn Công ty T4 do ông Phạm Văn T đại diện trình bày:
Đối với SEPMU đơn vị trực thuộc của Tổng Công ty V1 thì Công ty T4
thay đổi không yêu cầu buộc SEPMU liên đới trả tiền, Công ty T4 giữ nguyên
yêu cầu đối với Công ty K1, Công ty Đ1, Công ty V, Tổng Công ty V1. Ba hợp
đồng kinh tế đã thì nếu Công ty K1 ý kiến tranh chấp thì phải liên hệ với
Công ty T4 để xem xét còn Công ty Đ1 chỉ liên quan đến nghĩa vụ liên đới chứ
không phải nghĩa vụ chính của 03 hợp đồng. Việc liên đới thì căn cứ biên bản
bàn giao cát cho SEPMU, SEPMU đưa ra các nhà thầu chính, thầu phụ để nhận
11
cát thì nếu thụ hưởng thì phải trách nhiệm liên đới. Đề nghị không chấp nhận
kháng cáo của Công ty Đ1. Tuy nhiên, khi hợp đồng thì Công ty K1 đã
chuyển khoản tạm ứng cho Công ty T4 tổng cộng 1.800.000.000 đồng (trong đó
đợt 01 ngày 14/10/2016 = 300.000.000 đồng, đợt 02 ngày 28/10/2016 =
1.000.000.000 đồng, đợt 03 ngày 08/11/2016 = 500.000.000 đồng). Do Công ty
K1 vi phạm nghĩa vụ thanh toán nên Công ty T4 yêu cầu huỷ bỏ 03 hợp đồng và
giải quyết hậu quả của việc huỷ bỏ hợp đồng, Toà án thẩm tuyên buộc các bị
đơn liên đới cùng với Công ty K1 trả lại cho Công ty T4 38.025.855.000 đồng
của 120.717m
3
cát, Công ty T4 không kháng cáo. Tuy nhiên, Công ty T4 đồng ý
tự nguyện hoàn trả cho Công ty K1 số tiền tạm ứng 03 đợt đã nhận
1.800.000.000 đồng được tính ra giá trị khối lượng cát tại thời điểm ký hợp đồng
bình quân 97.333đồng/m
3
là 18.493,5m
3
cát, và tính với giá theo chứng thư định
giá hiện nay 315.000đồng/m
3
cát thì số tiền 1.800.000.000 đồng theo tỷ giá
hiện nay là 5.825.453.000 đồng. Công ty T4 đồng ý khấu trừ vào số tiền
38.025.855.000 đồng thì các bị đơn nghĩa vụ liên đới trả cho Công ty T4
32.200.402.000 đồng. Những thiệt hại khác do hành vi vi phạm hợp đồng của
Công ty K1 thì Công ty T4 tự nguyện chịu.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Long An phát biểu ý kiến:
Về tính hợp lệ của kháng cáo: Đơn kháng cáo nằm trong hạn luật định nên
được xem xét theo trình tự phúc thẩm.
Về chấp hành pháp luật: Kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội
đồng xét xử nghị án Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư phiên tòa đã tuân thủ
đúng những quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, những người tham gia tố tụng
đã chấp hành đúng pháp luật.
Về giải quyết yêu cầu kháng cáo:
Đối với yêu cầu kháng cáo của Công ty Đ1:
- Về yêu cầu áp dụng thời hiệu khởi kiện: Công ty Đ1 cho rằng tranh chấp
phát sinh từ năm 2017 nhưng đến tháng 4/2024 Công ty T4 mới khởi kiện đã
hết thời hiệu 02 năm. Tuy nhiên lập luận này không sở. Hồ vụ án thể
hiện rõ, vào ngày 08/6/2017, Công ty T4 đã đơn tố giác Giám đốc Công ty
K1 về hành vi “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” liên quan đến khoản
công nợ mua cát 9.973.716.000 đồng. Vụ việc này được quan Cảnh sát điều
tra Công an tỉnh L thụ giải quyết cho đến ngày 19/7/2022 mới ra Quyết định
không khởi tố vụ án hình sự. Căn cứ Điều 156 Bộ luật Dân sự, khoảng thời gian
quan điều tra giải quyết đơn tố giác được xem "trở ngại khách quan",
làm cho thời hiệu khởi kiện chưa bắt đầu tính. Do đó, thời hiệu khởi kiện tranh
chấp hợp đồng phải được tính lại từ ngày 19/7/2022. Việc Công ty T4 khởi kiện
vào tháng 4/2024 là còn trong thời hiệu 02 năm theo Điều 319 Luật Thương mại
2005. vậy, Viện kiểm sát đnghị Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu
này của Công ty Đ1.
12
- Về yêu cầu sửa bản án sơ thẩm, không buộc Công ty Đ1 liên đới thanh
toán: Xét thấy yêu cầu này của Công ty Đ1 hoàn toàn căn cứ đề nghị
Hội đồng xét xử chấp nhận, dựa trên các phân tích sau:
Quan hệ hợp đồng độc lập: Mối quan hệ pháp trong vviệc giao dịch
mua bán cát giữa Công ty T4 Công ty K1 thông qua 03 hợp đồng kinh tế.
Công ty K1 đã vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ thanh toán sau khi nhận 120.717
cát (trị giá 11.773.716.000 đồng) chỉ tạm ứng 1.800.000.000 đồng. Việc
Thảo L yêu cầu hủy hợp đồng và đòi lại tiền là có cơ sở.
Không tồn tại giao dịch trực tiếp: Công ty Đ1 Công ty T4 không bất
kỳ quan hhợp đồng hay giao dịch thương mại trực tiếp nào. Do đó, không
spháp để buộc ng ty Đ1 chịu trách nhiệm cho khoản nợ của Công ty
K1.
Phân định rõ chuỗi quan hệ nhà thầu: Tại dự án đường C - L, Công ty Đ1
nhà thầu chính. Công ty Đ1 đã Hợp đồng thầu phụ số 81/HĐ/EC-HT với
Công ty V. Nghĩa vụ của Công ty Đ1 thanh toán cho Công ty V, không phải
cho các nhà cung cấp của Công ty V hay các nhà cung cấp xa hơn trong chuỗi
cung ứng.
Công ty Đ1 đã hoàn thành nghĩa vụ thanh toán: Các tài liệu chứng minh
Công ty Đ1 đã nghiệm thu thanh toán cho Công ty V khối lượng 212.000m³
cát, trị giá 23.517.875.118 đồng (chưa VAT). Tổng số tiền Công ty Đ1 đã
chuyển khoản tạm ứng thanh toán cho Công ty V lên đến 38.599.068.942
đồng. So với giá trị hợp đồng, Công ty Đ1 thậm chí đã thanh toán vượt cho
Công ty V số tiền là 4.002.148.711 đồng.
Như vậy, việc Công ty V mua ng của Công ty K1, Công ty K1 mua
hàng của Công ty T4 các quan hkinh tế độc lập. Bản án thẩm buộc ng
ty Đ1 - một bên đã thực hiện đầy đủ, thậm chí vượt nghĩa vụ thanh toán cho đối
tác trực tiếp của mình - phải liên đới chịu trách nhiệm cho khoản nợ một mắt
xích khác không đúng quy định pháp luật. Khối t tranh chấp ng đã được
chuyển quyền sở hữu và cấu thành tài sản thuộc sở hữu Nhà nước. Do đó, kháng
cáo của Công ty Đ1 về nội dung này là có cơ sở chấp nhận.
Về kháng cáo của Tổng Công ty V1: Tổng Công ty V1 đã được triệu tập
hợp lệ nhưng vắng mặt tại phiên tòa phúc thẩm, đề nghị đình chỉ xét xử phúc
thẩm đối với kháng cáo của Tổng Công ty V1.
Về cách của SEPMU: SEPMU đơn vquản dán trực thuộc Tổng
Công ty V1, không phải pháp nhân độc lập. Tòa ánthẩm xác định SEPMU
bị đơn không đúng. Đề nghị sửa bản án thẩm, đưa SEPMU ra khỏi cách
bị đơn.
Về ý kiến của Công ty T4: Ghi nhận sự tự nguyện của Công ty T4 về việc
cấn trừ khoản tiền tạm ứng 1.800.000.000 đồng (quy đổi theo giá thẩm định
tương đương 5.825.453.000 đồng) vào nghĩa vụ thanh toán của các bđơn,
điều này là có lợi cho các bị đơn.
13
Về nghĩa vụ của Công ty V: Công ty V không kháng cáo nên không xem
xét lại nghĩa vụ liên đới của công ty này.
Từ những phân ch trên, đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử:
Căn cứ khoản 5 Điều 308 và khoản 2 Điều 312 Bộ luật Tố tụng dân sự, đình chỉ
xét xử phúc thẩm đối với yêu cầu kháng cáo của Tổng Công ty V1; căn cứ
khoản 2 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự, chấp nhận kháng cáo của Công ty Đ1,
sửa một phần bản án dân sự sơ thẩm như đã nêu ở phần trên.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Về thủ tục tố tụng:
[1] Tại phiên tòa phúc thẩm, những người được Tòa án triệu tập mặt,
đơn đề nghị xét xử vắng mặt hoặc đã được triệu tập hợp lệ, Tòa án tiến hành xét
xử theo trình tự phúc thẩm là phù hợp quy định tại Điều 296 Bộ luật Tố tụng dân
sự.
Về việc giải quyết yêu cầu kháng cáo:
[2] Đối với kháng cáo của Tổng Công ty V1: Xét thấy, người đại diện theo
uỷ quyền Tổng Công ty V1 ông Nguyễn Hoàng K đã được Tòa án cấp phúc
thẩm triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không sự kiện bất
khả kháng hoặc trở ngại khách quan ông Nguyễn Hoàng K không đơn đ
nghị xét xử vắng mặt nên coi như Tổng Công ty V1 từ bỏ việc kháng cáo. Do đó
Hội đồng xét xử đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với yêu cầu kháng cáo của Tổng
Công ty V1.
[3] Đối với kháng cáo của Công ty Đ1 u cầu Toà án cấp phúc thẩm: Áp
dụng thời hiệu khởi kiện, hủy bản án thẩm đình chỉ giải quyết vụ án đối với
Công ty Đ1; hủy bản án sơ thẩm do Tòa án cấp sơ thẩm xác định Công ty Đ1
SEPMU bị đơn sai cách của đương sự; không đồng ý hủy bỏ 03 hợp
đồng kinh tế; không đồng ý liên đới nghĩa vụ hoàn trả giá trị cát cho Công ty T4;
sửa phần quyết định của bản án sơ thẩm về chi phí tố tụng án phí đối với
Công ty Đ1.
[3.1] Công ty Đ1 yêu cầu áp dụng thời hiệu khởi kiện, hủy bản án sơ thẩm
đình chỉ giải quyết vụ án đối với Công ty Đ1: Công ty Đ1 cho rằng vụ án đã hết
thời hiệu khởi kiện theo Điều 319 Luật Thương mại 2005, do Công ty T4 đã biết
quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm từ ngày 20/6/2016 khi Công ty
K1 không thanh toán tiền cát, nhưng đến tháng 4 năm 2024 mới khởi kiện. Hội
đồng xét xử phúc thẩm xét thấy:
Tranh chấp giữa Công ty T4 Công ty K1 tranh chấp thương mại,
thời hiệu khởi kiện là hai năm kể từ thời điểm quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm
phạm quy định tại Điều 319 Luật Thương mại 2005. Tuy nhiên, Công ty T4
Công ty K1 chưa thống nhất nghiệm thu khối lượng cát và quyết toán chính thức
về số tiền cát bị đơn nghĩa vụ thanh toán, cũng như chưa xuất hóa đơn, chưa
Biên bản nghiệm thu nên chưa xác định được thời điểm phát sinh nghĩa vụ
thanh toán cũng như quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn bị xâm phạm để
14
làm cơ sở tính thời hiệu khởi kiện. Hơn nữa, trước khi khởi kiện vụ án tại Tòa án
nhân dân tỉnh Long An, vào ngày 09/02/2017, Công ty T4 có Đơn tố cáo hành vi
lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản của Công ty K1 gửi quan Cảnh sát
Điều tra Công an tỉnh L. Đến ngày 19/7/2022, quan Cảnh sát Điều tra
Công an tỉnh L xác định các n tranh chấp về kinh doanh thương mại, đã ban
hành Quyết định không khởi tố vụ án hình sự theo Quyết định số 22/QĐ-CSKT
nên thời gian này trở ngại khách quan, không tính vào thời hiệu khởi kiện
theo quy định tại Điều 156 Bộ luật Dân sự. Với các lý do trên, xét thấy tháng 4
năm 2024 Công ty T4 khởi kiện Công ty K1 yêu cầu hủy bỏ 03 hợp đồng kinh
tế, khởi kiện các bị đơn yêu cầu cùng liên đới hoàn trả giá trị cát đã nhận còn
thời hiệu. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu áp dụng thời
hiệu khởi kiện đình chỉ giải quyết vụ án do hết thời hiệu khởi kiện của Công
ty Đ1 E&C phù hợp với quy định pháp luật ý kiến phát biểu của Kiểm sát
viên tham gia phiên tòa.
[3.2] ng ty Đ1 yêu cầu hủy bản án thẩm do Tòa án cấp thẩm xác định
sai tư cách bị đơn trong vụ án, Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy:
Theo đơn khởi kiện bổ sung Biên bản về việc xác định lại yêu cầu khởi
kiện ngày 14/5/2024 ngày 30/5/2024, Công ty T4 yêu cầu Công ty K1, Công
ty V, Công ty Đ (Công ty Đ1), Tổng Công ty V1 nghĩa vụ liên đới hoàn trả
giá trị cát cho Công ty T4. Căn cứ khoản 3 Điều 68 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa
án cấp sơ thẩm xác định Công ty K1, Công ty V, Công ty Đ (Công ty Đ1), Tổng
Công ty V1 bị đơn trong vụ án là đúng quy định.
Đối với SEPMU không phải là pháp nhân theo quy định tại Điều 74 Bộ luật
Dân sự 2015 SEPMU chi nhánh, đơn vị do Tổng Công ty V1 thành lập,
đại diện thay mặt cho Tổng Công ty V1 để quản dự án, thực hiện một số
quyền và trách nhiệm của chủ đầu đối với dự án. SEPMU không quyền
nghĩa vụ độc lập mà SEPMU chỉ đại diện cho quyền và nghĩa vụ của Tổng Công
ty V1 trong khi Tổng Công ty V1 đã từ bỏ việc kháng cáo nên Tổng Công ty V1
phải nghĩa vụ liên đới cùng với các bị đơn không kháng cáo Công ty K1,
Công ty V hoàn trả giá trị cát cho Công ty T4 như án thẩm đã tuyên. Do đó
Tòa án cấp thẩm xác định SEPMU bđơn trong vụ án không chính xác
nhưng sai sót này không xâm phạm đến quyền lợi của các đương sự trong vụ án,
nên không xem vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, vậy người đại diện
và Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho Công ty Đ1 yêu cầu hủy bản án
sơ thẩm vì lý do này là không có căn cứ chấp nhận.
[3.3] Công ty Đ1 không đồng ý hủy bỏ 03 Hợp đồng kinh tế giữa Công ty
T4 với Công ty K1, Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy:
Theo thỏa thuận trong 03 Hợp đồng kinh tế số 01/HĐKT 2016 ngày
27/8/2016, số 02/HĐKT 2016 ngày 01/9/2016 và số 03/HĐKT ngày 20/10/2016,
thì Công ty T4 bán cát đắp nền đường cho Công ty K1 để phục vụ thi công dự
án đường C - L gói thầu A1. Tại Điều 4 của 03 Hợp đồng nêu trên (Công ty K1
là Bên A, Công ty T4 là Bên B) có thỏa thuận:
15
“Điều kiện thanh toán - khi Bên B cung cấp cát cho Bên A tương đương
10.000m
3
cát (đơn giá của 03 hợp đồng tương ứng là 93.000 đồng, 98.000 đồng
101.000 đồng/m
3
cát) phiếu xác nhận khối lượng hàng ngày của Bên A,
căn cứ xác nhận hàng ngày của Bên A thì Bên B làm công văn đề nghị Bên A
thanh toán cho Bên B.
Khi nhận được công văn đề nghị thanh toán m bản phô to biên bản xác
nhận nghiệm thu khối lượng hàng ngày của bên A, thì Bên A thanh toán chuyển
khoản cho bên B đủ số tiền làm 1 lần của tổng khối lượng, Bên B đề nghị thanh
toán đúng biên bản xác nhận khối lượng của Bên A.
Khi nhận được công văn đnghị thanh toán của Bên B gửi Bên A tại văn
phòng công trình Bên A đang thi công Bên A cam kết sẽ thanh toán cho Bên B
đủ số tiền 1 lần không chậm 05 ngày kể từ ngày Bên B gửi công văn đề nghị
thanh toán tới Bên A”.
Trong quá trình thực hiện hợp đồng, Công ty T4 đã giao khối lượng cát đến
địa điểm theo thỏa thuận trong hợp đồng được bởi người đại diện hợp
pháp của hai công ty có đóng dấu pháp nhân đã giao nhận đủ 120.717m
3
cát
(theo Bảng tổng hợp đối chiếu khối lượng vật của 11 đợt), Công ty K1
cũng thừa nhận một số hợp đồng mua bán ng hóa với Công ty T4 tại Bản
tự khai ngày 02/8/2024. Đồng thời, Công ty K1 đã tạm ứng cho Công ty T4
thành 03 đợt tổng cộng 1.800.000.000 đồng (trong đó đợt 01 ngày 14/10/2016 =
300.000.000 đồng, đợt 02 ngày 28/10/2016 = 1.000.000.000 đồng, đợt 03 ngày
08/11/2016 = 500.000.000 đồng). Sau đó, Công ty T4 văn bản yêu cầu thanh
toán gửi đến văn phòng công trình Công ty K1 nhưng Công ty K1 không có mặt,
không xuất hóa đơn VAT mà chuyển địa điểm kinh doanh và bị đóng mã số thuế
vào ngày 20/7/2017 nên Công ty T4 đã thuê bảo vệ giữ số cát đã vận chuyển
đến.
Như vậy, Công ty K1 đã không thanh toán tiền cát theo thỏa thuận tại Điều
4 của 03 Hợp đồng. Theo nội dung của 03 Hợp đồng kinh tế hai bên đã
kết không thỏa thuận về điều kiện hủy bỏ hợp đồng nhưng việc bị đơn Công
ty K1 đã nhận tổng khối lượng cát 120.717m
3
không thanh toán tiền mua
hàng là vi phạm bản (vi phạm nghiêm trọng) nghĩa vụ hợp đồng, làm cho
Công ty T4 không đạt được mục đích của việc giao kết hợp đồng nên Công ty
T4 yêu cầu hủy bỏ 03 Hợp đồng kinh tế số 01/HĐKT 2016 ngày 27/8/2016, số
02/HĐKT 2016 ngày 01/9/2016 số 03/HĐKT ngày 20/10/2016 đúng với
quy định tại điểm b khoản 4 Điều 312 Luật Thương mại 2005; điểm b khoản 1,
khoản 2 Điều 423 Bộ luật Dân sự. Cấp thẩm chấp nhận u cầu của nguyên
đơn tuyên hủy b03 hợp đồng kinh tế căn cứ nên không chấp nhận kháng
cáo của bị đơn Công ty Đ1 về việc không đồng ý hủy bỏ 03 hợp đồng kinh tế
nêu trên.
[3.4] Công ty Đ1 không đồng ý liên đới nghĩa vụ hoàn trả giá trị cát cho
Công ty T4, Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy:
[3.4.1] Đối với việc Công ty T4 yêu cầu giải quyết hậu quả của 03 hợp
đồng kinh tế bị hủy bỏ, yêu cầu Công ty K1 thực hiện nghĩa vhoàn trả giá trị
16
cát cho Công ty T4, thì tại Điều 314 Luật Thương mại quy định về hậu quả pháp
lý của việc huỷ bỏ hợp đồng:
“1. Trừ trường hợp quy định tại Điều 313 của Luật này, sau khi huỷ bỏ hợp
đồng, hợp đồng không có hiệu lực từ thời điểm giao kết, các bên không phải tiếp
tục thực hiện các nghĩa vụ đã thoả thuận trong hợp đồng, trừ thỏa thuận về các
quyền và nghĩa vụ sau khi huỷ bỏ hợp đồng và về giải quyết tranh chấp.
2. Các bên quyền đòi lại lợi ích do việc đã thực hiện phần nghĩa vụ của
mình theo hợp đồng; nếu các bên đều nghĩa vụ hoàn trả thì nghĩa vụ của họ
phải được thực hiện đồng thời; trường hợp không thể hoàn trả bằng chính lợi
ích đã nhận thì bên có nghĩa vụ phải hoàn trả bằng tiền.
3. Bên bị vi phạm quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại theo quy định của
Luật này.”.
Tại Điều 427 Bộ luật Dân sự 2015 cũng quy định tương tự về hậu quả của
việc hủy bỏ hợp đồng.
Như vậy, theo quy định trên thì Công ty K1 phải hoàn trả cho Công ty T4
120.717m
3
cát và Công ty T4 phải hoàn trả cho Công ty K1 1.800.000.000 đồng.
Tuy nhiên, đến ngày 13/5/2024 Công ty T4 đã lập Biên bản bàn giao cát cho
SEPMU (đại diện cho Tổng Công ty V1) dưới sự chứng kiến của Phòng An ninh
Kinh tế Công an tỉnh L nên hiện nay toàn bộ khối lượng cát đã được đưa vào thi
công các đoạn đường cao tốc, hoàn tất công trình và thông xe vào ngày
02/9/2024. Biên bản xem xét thẩm định tại chỗ ngày 12/8/2024 và phụ lục ảnh
kèm Chứng thư thẩm định giá số 020/2024/431-HD/TĐGLA-ĐS ngày
23/8/2024 của Công ty Cổ phần T6 đều thể hiện toàn bộ khối lượng cát đã thi
công lấp nền không thể thu hồi bằng hiện vật. Do đó, việc nguyên đơn yêu
cầu trị giá thành tiền 120.717m
3
cát để hoàn trả là có căn cứ phù hợp với quy
định tại các Điều 292, 312, 314 của Luật Thương mại; các Điều 423, 427 Bộ
luật Dân sự năm 2015.
Căn cứ Chứng thư định giá số 020/2024/431-HD/TĐGLA-ĐS ngày
23/8/2024 của Công ty Cổ phần T6 thì giá cát hiện nay 315.000đ/m
3
. Do đó,
cấp thẩm buộc Công ty K1 nghĩa vụ hoàn trả cho Công ty T4 số tiền
38.025.855.000 đồng phù hợp. Công ty T4 đã nhận của Công ty K1
1.800.000.000 đồng tiền tạm ứng mua cát nên nghĩa vụ hoàn trả cho Công ty
K1 nhưng cấp sơ thẩm không xem xét 1.800.000.000 đồng này là thiếu sót. Tại
phiên toà phúc thẩm, Công ty T4 tự nguyện trả lại cho Công ty K1 số tiền
1.800.000.000 đồng được quy đổi giá cát từ năm 2016 bình quân 97.333
đồng/m
3
ra giá cát hiện nay theo chứng t định giá 315.000đ/m
3
5.825.453.000 đồng. Số tiền 5.825.453.000 đồng này Công ty T4 đồng ý hoàn
trả bằng cách khấu trừ vào nghĩa vụ trả nợ 38.025.855.000 đồng lợi cho
Công ty K1 nên buộc Công ty K1 nghĩa vụ trả cho Công ty T4 s tiền
32.200.402.000 đồng.
[3.4.2] Đối với việc Công ty T4 yêu cầu các bị đơn khác phải nghĩa vụ
liên đới với bị đơn Công ty K1 hoàn trả giá trị cát cho Công ty T4:
17
Người đại diện, người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của Công ty Đ1
cho rằng chỉ Công ty K1 hợp đồng với Công ty T4 nên chỉ Công ty K1
nghĩa vụ hoàn trả giá trị cát cho Công ty T4 còn các bị đơn khác không hợp
đồng nên không nghĩa vụ hoàn trả. Xét thấy, lập luận này là không phù hợp,
bởi lẽ việc Công ty Đ1, Tổng Công ty V1 Công ty V cùng liên đới với
Công ty K1 hoàn trả giá trị t cho Công ty T4 hay không thì đây cách giải
quyết hậu quả của việc hủy bỏ hợp đồng, không phải thực hiện hợp đồng hợp
đồng bị hủy bỏ, không hiệu lực từ thời điểm giao kết. Do đó để xác định các
bị đơn có phải liên đới hoàn trả giá trị cát cho nguyên đơn hay không cần làm
các vấn đề liên quan đến trách nhiệm của các bên trong việc thụ hưởng khối
lượng 120.717m
3
cát của Công ty T4.
Xét thấy, quá trình giải quyết vụ án, có chứng cứ xác định gói thầu A1 - Dự
án xây dựng đường cao tốc B - L, do Liên danh Nhà thầu Công ty H1 Công ty
Đ1 thi công theo Hợp đồng xây lắp số 03/HĐXD-VEC/2015 ngày 12/02/2015
với Tổng Công ty V1 Chủ đầu tư. Công ty Đ1 thành viên Liên danh Nhà
thầu chính thi công gói thầu Al. Trong quá trình thực hiện gói thầu nêu trên,
Công ty Đ1 đã ký kết Hợp đồng số 81/HĐ/EC-HT ngày 26/10/2015 với nhà thầu
phụ thi công là Công ty V. Để hoàn thành hạng mục đắp cát nền đường, Công ty
V đã mua vật liệu cát lấp nền của nhà cung cấp Công ty K1 theo Hợp đồng
liên doanh thi công xây dựng công trình số 01/HĐ/LD ngày 27/8/2016.
Công ty Đ1 cho rằng đã thanh toán toàn bộ khối lượng giá trị hạng mục
đắp t nền đường đã nghiệm thu cho ng ty V 212.000m
3
. Tuy nhiên, các
hóa đơn giá trị gia tăng mà Công ty Đ1 cung cấp để chứng minh việc thanh toán
cho Công ty V không thể hiện việc thanh toán tiền cát lấp một số hóa đơn
ngày phát hành trước thời điểm Công ty T4 Công ty K1 kết hợp đồng
mua bán cát đầu tiên. Báo cáo tài chính của ng ty Đ1 E&C từ năm 2016-2023
cũng không thể hiện số tiền đã mua cát từ Công ty V theo các hóa đơn đã cung
cấp. Công ty Đ1 thừa nhận đã sử dụng số lượng t mua từ Công ty K1 để thi
công, nhưng không chứng minh được quyền sở hữu hợp pháp số lượng cát trên.
Tương tự như Công ty Đ1, Báo cáo tài chính, hồ quyết toán thuế của
Công ty V cũng không thể hiện nội dung “tiền mua cát từ Công ty K1. Công ty
V không cung cấp bất kỳ tài liệu, chứng cứ nào để phản đối yêu cầu của nguyên
đơn và vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án. Do đó, Tòa án căn cứ vào
tài liệu, chứng cứ do nguyên đơn cung cấp để giải quyết vụ án, xác định lời trình
bày của Công ty Đ1 về việc đã thanh toán toàn bộ khối lượng cát cho Công ty V
và không liên quan đến số lượng cát tranh chấp là không có căn cứ.
Tại Văn bản số 210/SEPMU-QLTCMB ngày 19/4/2024 của người đại diện
Tổng Công ty V1 là ông Nguyễn Hoàng K xác nhận gói thầu A1 nêu trên, Tổng
Công ty V1 là Chủ đầu tư đã thanh toán cho nhà thầu là Liên danh Công ty H1 -
Công ty Đ1 nên toàn bcác hạng mục ng trình thuộc gói thầu tài sản của
chủ đầu nhưng không cung cấp được tài liệu, chứng cứ chứng minh việc
thanh toán. Trong khi đó, Tổng Công ty V1 tên vào Biên bản bàn giao cát
ngày 13/5/2024, xác nhận của đại diện Phòng An ninh Kinh tế Công an tỉnh
18
L thì người bàn giao cát Công ty T4 chứ không phải Công ty K1 hay các nhà
thầu chính, thầu phụ. Do đó, căn cứ xác định 120.717m
3
cát đã được sử dụng
cho công trình thi công dự án đường C - L.
Ngoài ra, ngày 23/02/2017 giữa người đại diện của Công ty Đ1, Công ty
T4, Công ty K1 Công ty V có “Biên bản thỏa thuậnnội dung thanh
toán số tiền cát cho Công ty T4. Mặc tại Quyết định số 85/2020/QĐST-
KDTM ngày 29/9/2020 của Tòa án nhân dân Quận 7 đã tuyên bố hiệu Biên
bản thỏa thuận” này do người Biên bản thỏa thuận không đúng thẩm quyền
nhưng về nội dung, Biên bản này vẫn sxác định c bên đều thừa nhận
chưa thanh toán tiền cát cho Công ty T4 cam kết về phương thức, lộ trình
thanh toán.
Về mối quan hệ giữa Công ty K1 Công ty V, tnguyên đơn trình y
Công ty K1 Công ty V mối quan hệ thân thiết, người đại diện theo pháp
luật của Công ty V con rể của người đại diện theo pháp luật của Công ty K1,
họ đã cấu kết với nhau đmua bán cát của nguyên đơn. Các văn bản tố tụng
cho cả hai công ty này đều được cùng một người nhận.
[3.4.3] Với những tình tiết, chứng cứ nêu trên sở xác định chủ đầu
Tổng Công ty V1 đơn vị đã thụ hưởng 120.717m
3
cát nhưng không chứng
cứ đầy đủ chứng minh đã thanh toán cho nhà thầu liên danh ng ty H1 - Công
ty Đ1. Thành viên liên danh nhà thầu chính Công ty Đ1 cũng không có chứng
cứ đầy đủ chứng minh đã thanh toán tiền cho nhà thầu phụ Công ty V. Công ty
V không chứng minh được đã thanh toán tiền mua cát cho Công ty K1. Với
những do trên đủ sở xác định trách nhiệm liên đới của các bị đơn đối với
120.717m
3
cát của Công ty T4 nên cần buộc Công ty Đ1, Tổng Công ty V1,
Công ty V liên đới với Công ty K1 trả cho Công ty T4 số tiền 32.200.402.000
đồng theo quy định tại Điều 288 Bộ luật Dân sự phù hợp. vậy ý kiến của
người đại diện, người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của Công ty Đ1 cũng
như ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa cho rằng Công ty Đ1
không có nghĩa vụ liên đới hoàn trả giá trị cát là không có căn cứ chấp nhận.
[3.5] Công ty Đ1 yêu cầu sửa phần quyết định của bản án thẩm về chi
phí tố tụng và án phí đối với Công ty Đ1, Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy:
Do chp nhn yêu cu khi kin ca Công ty T4 nên các b đơn Công ty
K1, Công ty Đ1, Công ty V, Tng Công ty V1 phải liên đi chu chi phí t tng
án phí theo quy định ca pháp lut. Về án phí dân sự thẩm: Buộc các b
đơn Công ty K1, Công ty Đ1, Công ty V, Tổng Công ty V1 nghĩa vụ liên đới
chịu án phí sơ thẩm với số tiền 143.200.402 đồng (Trong đó án phí đối với
yêu cầu hủy bhợp đồng 3.000.000 đồng yêu cầu hoàn trả tiền mua hàng
hóa là 140.200.402 đồng). Do đó không chấp nhận kháng cáo của Công ty Đ1 v
phn này.
[4] Đối với các hợp đồng đã giữa Tổng Công ty V1 với Công ty Đ1
E&C, giữa Công ty Đ1 E&C với Công ty V, giữa Công ty V với Công ty K1,
nếu không thỏa thuận được các bên có quyền khởi kiện bằng vụ án khác.
19
[5] Từ những nhận định trên, xét thấy kháng cáo của Công ty Đ1 không
căn cứ nên Hội đồng xét xphúc thẩm không chấp nhận, nhưng sửa một
phần bản án sơ thẩm như phân tích nêu trên.
[6] V án phí dân sự phúc thẩm: Tổng Công ty V1 phải chịu 2.000.000
đồng, Công ty Đ1 phải chịu 2.000.000 đồng.
[7] c phần khác của bản án thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị
hiệu lực thi hành.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 2 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự.
- Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với kháng cáo của Tổng Công ty Đ2.
- Không chấp nhận kháng cáo của Công ty Cổ phần Đ (đã đổi tên thành
Công ty Cổ phần Đ1).
Sửa một phần Bản án thẩm số: 15/2024/KDTM-ST ngày 23 tháng 12
năm 2024 của Toà án nhân dân huyện Bến Lức.
Căn cứ các Điều 30, 35, 39, 68, 147, 148, 157, 165, 184, 296 và 483 của Bộ
luật Tố tụng dân sự;
Áp dụng các Điều 117, 156, 288, 357, 423, 427 Điều 688 của Bộ luật
Dân sự năm 2015; các Điều 2, 3, 4, 6, 24, 292, 312, 314 của Luật Thương mại
năm 2005; các Điều 26 và 29 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm,
thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Công ty TNHH T4 đối với
các bị đơn Công ty TNHH K1, Công ty Cổ phần Đ1, Công ty Cổ phần V, Tổng
Công ty Đ2 v vic tranh chấp “Hợp đồng mua bán hàng hóa”.
- Hủy 03 Hợp đồng kinh tế số 01/HĐKT 2016 ngày 27/8/2016; Hợp đồng
kinh tế số 02/HĐKT 2016 ngày 01/9/2016 Hợp đồng kinh tế số 03/HĐKT
ngày 20/10/2016 giữa Công ty TNHH T4 đã ký kết với Công ty TNHH K1.
- Buộc các bị đơn Công ty TNHH K1, Công ty Cổ phần Đ1, Công ty Cổ
phần V, Tổng Công ty Đ2 phải có nghĩa vụ liên đới hoàn trả cho Công ty TNHH
T4 giá trị 120.717,0m
3
cát san lấp với stiền 32.200.402.000 đồng (Ba mươi
hai tỷ hai trăm triệu bốn trăm lẻ hai nghìn đồng).
2. V chi phí tố tụng định giá tài sản xem xét, thẩm định tại chỗ
70.000.000 đồng (Bảy mươi triệu đồng). Do nguyên đơn Công ty TNHH T4 đã
nộp tạm ứng nên buộc các bị đơn Công ty TNHH K1, Công ty Cổ phần Đ1,
Công ty Cổ phần V, Tổng Công ty Đ2 nghĩa vụ liên đới hoàn trả cho nguyên
đơn Công ty TNHH T4 số tiền 70.000.000 đồng (Bảy mươi triệu đồng).
20
3. Kể từ ngày bản án, quyết định hiệu lực pháp luật hoặc ktừ ngày
đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án
xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản
tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2
Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.
4. Về án phí dân sự sơ thẩm:
- Buộc các bị đơn Công ty TNHH K1, Công ty Cổ phần Đ1, Công ty Cổ
phần V, Tổng Công ty Đ2 (V1) nghĩa vụ liên đới chịu án phí thẩm với số
tiền 143.200.402 đồng án phí dân sự thẩm đối với tranh chấp về kinh
doanh thương mại.
- Hoàn trả 3.000.000 đồng (ba triệu đồng) tiền tạm ứng án phí sơ thẩm đã
nộp cho Công ty TNHH T4 theo Biên lai thu tạm ng án phí, lệ pa án số
0000312 ngày 10/4/2024 của Cục Thi hành án Dân sự tỉnh Long An.
5. Về án phí dân sự phúc thẩm:
- Buộc Tổng Công ty Đ2 phải chịu 2.000.000 đồng án phí dân sự phúc
thẩm đối với tranh chấp về kinh doanh thương mại, nhưng được khấu trừ vào số
tiền tạm ứng án phí đã nộp 2.000.000 đồng theo biên lai thu số 0007410 ngày
05/02/2025 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bến Lức, tỉnh Long An.
- Buộc Công ty Cổ phần Đ (đã đổi tên thành Công ty Cổ phần Đ1) phải
chịu 2.000.000 đồng, nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp
2.000.000 đồng theo biên lai thu số 0007431 ngày 11/02/2025 của Chi cục Thi
hành án dân sự huyện Bến Lức, tỉnh Long An.
6. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2
Luật Thi hành án dân sự tngười được thi hành án dân sự, người phải thi hành
án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện
thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a
9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định
tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
7. Bản án phúc thẩm có hiu lc thi hành k t ngày tuyên án./.
Nơi nhận:
- TANDCC tại Tp. Hồ Chí Minh;
- VKSND tỉnh Long An;
- TAND huyện Bến Lức;
- Chi cục THADS huyện Bến Lức;
- Đương sự;
- Lưu hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Trần Tấn Quốc
Tải về
Bản án số 12/2025/KDTM-PT Bản án số 12/2025/KDTM-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 12/2025/KDTM-PT Bản án số 12/2025/KDTM-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất