Bản án số 81/2025/DS-ST ngày 21/04/2025 của TAND TX. Phú Mỹ, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu về tranh chấp hợp đồng tặng cho tài sản

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 81/2025/DS-ST

Tên Bản án: Bản án số 81/2025/DS-ST ngày 21/04/2025 của TAND TX. Phú Mỹ, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu về tranh chấp hợp đồng tặng cho tài sản
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng tặng cho tài sản
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND TX. Phú Mỹ (TAND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu)
Số hiệu: 81/2025/DS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 21/04/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Trần Thị M, Ngô Thị H, Ngô Thị Thu H1 - Ngô Thị Thu H2
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ PHÚ MỸ
TỈNH BÀ RỊA VŨNG TÀU
Bản án số: 81/2025/DS-ST
Ngày: 21-4-2025
V/v tranh chấp hợp đồng tặng cho quyền sử
dụng đất và tranh chấp liên quan đến yêu cầu
tuyên bố một văn bản công chứng vô
hiệu
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHÚ MỸ, TỈNH BÀ RỊA VŨNG TÀU
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm:
Thẩm phán Chủ tọa phiên tòa: Nguyễn Thị Thùy
Các Hội thẩm nhân dân:
1. Bà Nguyễn Thị Bạch Gương
2. Bà Trần Thị Hậu
- Thư phiên tòa: Ông Lâm Công Chức Thư ký Tòa án của Tòa án nhân dân
thành phố Phú Mỹ
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phú Mỹ tham gia phiên tòa:
Hoàng Thị Hồng Kiểm sát viên.
o ngày 21 tháng 4 năm 2025 tại phòng xử án, Tòa án nhân dân thành phố Phú Mỹ,
tỉnh Rịa Vũng Tàu xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 47/2021/TLST-DS
ngày 17 tháng 3 năm 2021 về việc “tranh chấp hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất
Tranh chấp liên quan đến yêu cầu tuyên bố một văn bản công chứng hiệu theo Quyết
định đưa vụ án ra xét xử số 35/2025/XXST-DS ngày 26 tháng 02 năm 2025 Quyết
định hoãn phiên tòa số 61/2025/QĐST-DS ngày 21/3/2025 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn:
1.1. Trần Thị M, sinh năm: 1952
Địa chỉ: Tổ 5, khu phố Tân Lộc, phường Phước Hoà, thị Phú Mỹ, tỉnh Rịa
Vũng Tàu (có mặt)
Người đại diện theo ủy quyền của bà Mận: Ngô Thị H, sinh năm: 1972
Địa chỉ: Tổ 5, khu phố Tân Lộc, phường Phước Hoà, thị Phú Mỹ, tỉnh Rịa
Vũng Tàu (có mặt)
1.2. Ngô Thị Thu H1, sinh năm: 1990
Địa chỉ: Tổ 5, khu phố Tân Lộc, phường Phước Hoà, thị Phú Mỹ, tỉnh Rịa
Vũng Tàu (có mặt)
Người đại diện theo ủy quyền của bà Hà: Ông Trương Quốc Q, sinh năm: 1984
Địa chỉ: 19 Oanh, phường 25, Quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh
(có mặt)
1.3. Ngô Thị H, sinh năm: 1972
2
Địa chỉ: Tổ 5, khu phố Tân Lộc, phường Phước Hoà, thị Phú Mỹ, tỉnh Rịa
Vũng Tàu (có mặt)
2. Bị đơn: Bà Ngô Thị Thu H2, sinh năm: 1996
Địa chỉ: Tổ 5, khu phố Tân Lộc, phường Phước Hoà, thị Phú Mỹ, tỉnh Bà Rịa
Vũng Tàu (vắng mặt)
Người đại diện theo ủy quyền của bà H2: Ông Trần Quốc V, sinh năm: 1962
Địa chỉ nhận văn bản tố tụng: 935/7/27D6 đường Bình Giã, phường 10, thành
phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu (có mặt)
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
3.1. Ngân hàng TMCP C
Địa chỉ: 108 Trần Hưng Đạo, phường Cửa Nam, quận Hoàn Kiếm, thành phố
Nội
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Huỳnh Thanh N, Lục Thảo Phương H,
ông Hồ Q
Địa chỉ nhận thư: 138 Độc Lập, phường Phú Mỹ, thị Phú Mỹ, tỉnh Rịa -
Vũng Tàu. (có đơn xin xét xử vắng mặt)
3.2. Ông Ngô Quang M, sinh năm: 1950
Địa chỉ: Tổ 5, khu phố Tân Lộc, phường Phước Hoà, thị xã Phú Mỹ, tỉnh Bà Rịa
Vũng Tàu (có mặt)
3.3. Ông Ngô Quốc H, sinh năm: 1993
Địa chỉ: Tổ 5, khu phố Tân Lộc, phường Phước Hoà, thị Phú Mỹ, tỉnh Rịa
Vũng Tàu (vắng mặt)
Người đại diện theo ủy quyền của ông H: Ông Trương Quốc Q, sinh năm: 1984
Địa chỉ: 19 Oanh, phường 25, Quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh
(có mặt)
3.4. Ông Nguyễn Văn H, sinh năm 1988
Địa chỉ: Tổ 5, khu phố Tân Lộc, phường Phước Hoà, thị Phú Mỹ, tỉnh Rịa
Vũng Tàu (vắng mặt)
Người đại diện theo ủy quyền của ông Hùng: Ông Trần Quốc V, sinh năm: 1962
Địa chỉ nhận văn bản tố tụng: 935/7/27D6 đường Bình Giã, phường 10, thành
phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu (có mặt)
3.5. Văn phòng công chứng P
Trụ sở: Tổ 2, khu phố Quảng Phú, phường Phú Mỹ, thị xã Phú Mỹ, tỉnh Bà Rịa
Vũng Tàu
Người đại diện theo pháp luật: Ông Trần Trung K chức vụ Trưởng Văn
Phòng (có đơn xin xét xử vắng mặt)
3.6. Văn phòng công chứng T
Trụ sở: Số 40 C, khu phố Song Vĩnh, phường Tân Phước, thị Phú Mỹ, tỉnh
Bà Rịa – Vũng Tàu
Người đại diện theo pháp luật: Ông Phạm Xuân K, chức vụ Trưởng Văn phòng.
(có đơn xin xét xử vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Tại đơn khởi kiện đề ngày 03/02/2021 của Trần Thị M, Ngô Thị Thu H1,
Ngô Thị H trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn Ngô Thị H H
cũng là người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn bà Trần Thị M trình bày:
3
Thửa đất 1804 tờ bản đồ số 26 diện tích 501m
2
tại ấp Tân Lộc, Phước
Hòa, huyện Tân Thành (nay thị Phú Mỹ), tỉnh Rịa Vũng Tàu theo giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở tài sản khác gắn liền với đất số
CL990861, số vào sổ cấp giấy chứng nhận CS 04701 do Sở Tài nguyên và Môi trường
tỉnh Rịa Vũng Tàu cấp ngày 22/12/2017 cho hộ ông Ngô Quang M. ông Ngô
Quang M thường xuyên nhậu nhẹt, không chịu khó làm ăn nên thường lấy bản chính
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nêu trên đi cầm cố rồi lấy tiền tiêu xài cá nhân, gia
đình của Mận, Hà, Hằng sợ mất đất nên các thành viên trong gia đình đã
thống nhất chuyển toàn bộ phần đất diện tích 501m
2
thuộc thửa 1804, tờ bản đồ số
26, tại ấp Tân Lộc, Phước Hòa, huyện Tân Thành (nay thị Phú Mỹ), tỉnh
Rịa Vũng Tàu cho Ngô Thị Thu H2 ông Ngô Quốc H cùng đứng tên đồng sở
hữu.
Gia đình đã thống nhất giao bản chính giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nêu
trên cho bà Ngô Thị Thu H2 để bà H2 làm thủ tục tặng cho quyền sử dụng đất nêu trên
từ hộ ông Ngô Quang M sang cho bà Ngô Thị Thu H2 và ông Ngô Quốc H.
Ngày 20/3/2018 H2 báo gia đình đến phòng công chứng P để làm thủ tặng
cho quyền sử dụng đất nêu trên cho H2 và ông H. Các thành viên trong gia đình tin
tưởng H2 nên đã đến phòng công chứng nhưng không đọc nội dung nghĩ
H2 làm đúng theo thỏa thuận của các thành viên trong gia đình sang tên thửa đất
này cho bà H2 và ông H cùng đồng sở hữu.
Năm 2019 các thành viên trong gia đình mới phát hiện ra H2 không thực
hiện đúng theo thỏa thuận của các thành viên trong gia đình sang tên thửa đất này
cho H2 ông H cùng đồng sở hữu sang tên cho cá nhân H2. Sau khi bà H2
được đứng tên cá nhân đối với phần đất có diện tích 501m
2
thuộc thửa 1804, tờ bản đồ
số 26 thì H2 đã tách thửa đất này thành ba thửa gồm phần đất diện tích 151m
2
thuộc thửa 1840 mang tên Ngô Thị Thu H1 phần đất diện tích 157m
2
thuộc
thửa 1808 mang tên ông Nguyễn Văn Chi Thị Hoàng phần đất diện
tích 193m
2
thuộc thửa 1804 mang tên bà Ngô Thị Thu H2Nguyễn Văn H.
Khi phát hiện ra sự việc thì gia đình đã làm việc với bà H2 yêu cầu bà H2 trả lại
đất cho gia đình. Ngày 10/6/2019 H2 đã viết một giấy tay đề giấy trả đất với nội
dung H2 đồng ý trả lại cho bố mẹ phần đất diện tích ngang 6m dài 32 (là phần
đất diện tích 193m
2
thuộc thửa 1804, tờ bản đồ số 26 mà bà H2 ông Hùng đang
đứng tên sở hữu). Do khi H2 làm thủ tục tách thửa đã bỏ tiền lên thổ với số
tiền 70.000.000 đồng và trước đó bà H2 đã bỏ tiền ra để chuộc sổ đất số tiền
60.000.000 đồng. Tổng cộng 130.000.000 đồng nên H2 yêu cầu Mận, ông
Minh trả lại cho H2 số tiền này. Mận đã thanh toán cho H2 100.000.000
đồng, còn lại 30.000.000 đồng các bên thống nhất khi nào H2 hoàn tất thủ tục
chuyển lại tên quyền sử dụng đất cho Mận thì khi đó Mận giao nốt số tiền còn
lại. Đến nayH2 vẫn không thực hiện theo thỏa thuận ngày 10/6/2019, không đồng ý
sang tên cho bà Mận đối với phần đất có diện tích 193m
2
thuộc thửa 1804 tờ bản đồ số
26, xã Phước Hoà, thị xã Phú Mỹ, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
Do đó, bà Hằng, bà Mận yêu cầu:
- Tòa án tuyên bố vô hiệu một phần hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất ký
ngày 20/3/2018 giữa hộ ông Ngô Quang M, Trần Thị M, Ngô Thị Thu H1, ông
Ngô Quốc H với Ngô Thị Thu H2 được Văn phòng công chứng P công chứng số
1322, quyển số 01/2018 TP/CC-SCC/HĐGD
4
- Yêu cầu Tòa án tuyên hiệu văn bản thỏa thuận tài sản chung của vợ
chồng ngày 03/4/2019 giữa Ngô Thị Thu H2 với ông Nguyễn Văn H được Văn
phòng công chứng T, tỉnh Rịa Vũng Tàu công chứng số 492, quyển số
02/TP/CC-SCC/HĐGD
Yêu cầu Tòa án giải quyết hậu quả của hai hợp đồng nêu trên là:
- Buộc Ngô Thị Thu H2 ông Nguyễn Văn H trả lại cho chúng tôi phần
đất diện tích 193m
2
thuộc thửa 1804, tờ bản đồ số 26, phường Phước Hòa, thị
Phú Mỹ, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu
- Yêu cầu Tòa án công nhận thửa đất diện tích 193m
2
thuộc thửa 1804, tờ
bản đồ số 26, phường Phước Hòa, thị Phú Mỹ, tỉnh Rịa Vũng Tàu cho ông
Ngô Quang M với bà Trần Thị M
Đối với phần đất diện tích 151m
2
thuộc thửa 1840 mang tên Ngô Thị Thu
H1 phần đất có diện tích 157m
2
thuộc thửa 1808 mang tên ông Nguyễn Văn Chi
bà Hà Thị Hoàng thì bà Hằng, bà Mận không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Đối với biên bản định giá ngày 07/11/2023 thì nguyên đơn không ý kiến gì,
đồng ý với giá theo biên bản định giá ngày 07/11/2023, không yêu cầu định giá lại.
Ông Trương Quốc Q người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn Ngô
Thị Thu H1 thống nhất với phần trình bày của Hằng Mận. không ý
kiến yêu cầu gì khác.
Tại phiên tòa các nguyên đơn vẫn giữ nguyên ý kiến yêu cầu nêu trên mà không
có ý kiến yêu cầu gì khác.
Trong quá trình giải quyết vụ án bị đơn Ngô Thị Thu H2 người đại diện
theo ủy quyền của bị đơn ông Trần Quốc V trình bày:
Ngày 20/3/2018 tại Văn phòng công chứng P hộ ông Ngô Quang M, Trần
Thị M, Ngô Thị Thu H1 ông Ngô Quốc H cùng với Ngô Thị Thu H2 đã hợp
đồng tặng cho quyền sử dụng đất với nội dung ông Minh, Mận, ông H
tặng cho bà H2 phần đất diện tích 501m
2
thuộc thửa 1804, tờ bản đồ số 26, tại ấp
Tân Lộc, Phước Hòa (nay phường Phước Hòa), huyện Tân Thành (nay thị
Phú Mỹ), tỉnh Rịa Vũng Tàu đã được công chứng viên chứng thực số 1322, quyển
số 01/2018 TP/CC-SCC/HĐGD. Sau khi hợp đồng thì ngày 30/3/2018 Ngô Thị
Thu H2 đã được cập nhật biến động sang tên phần này cho H2. Ngày 27/6/2018
H2 đã thực hiện chuyển mục đích sử dụng 200m
2
cây lâu năm sang đất ở, hoàn thành
nghĩa vụ tài chính với nhà nước. Ngày 22/10/2018 thửa đất 1804 được tách ra diện tích
151m
2
trong đó 100m
2
đất 51m
2
đất cây lâu năm để tặng cho Ngô Thị Thu
H1. Diện tích còn lại 350m
2
trong đó có 100m2
đất và 250m
2
đất trồng cây lâu năm.
Sau đó H2 tiếp tục chuyển mục đích 60m
2
sang đất ở. Trong số diện tích còn lại
350m
2
H2 tiếp tục chuyển nhượng 157m
2
cho ông Nguyễn Văn Chi Thị
Hoàng. H2 còn lại 193m
2
. Ngày 24/4/2019 H2 thực hiện thủ tục xác định phần
đất 193m
2
thuộc thửa 1804, tờ bản đồ số 26 tài sản chung của H2 ông Nguyễn
Văn H. Hiện nayH2 và ông Hùng đang quản lý sử dụng đối với thửa đất này.
Do đó, hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất lập ngày 20/3/2018 tại Văn phòng
công chứng P giữa hộ ông Ngô Quang M, bà Trần Thị M, Ngô Thị Thu, ông Ngô
Quốc H với Ngô Thị Thu H2 văn bản thỏa thuận tài sản chung của vợ chồng lập
ngày 03/4/2019 giữa bà Ngô Thị Thu H2 với ông Nguyễn Văn H là đúng theo quy định
của pháp luật nên bị đơn Ngô Thị Thu H2 không đồng ý với toàn bộ yêu cầu khởi
kiện của nguyên đơn, đề nghị Tòa án bác yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
5
Đối với biên bản định giá ngày 07/11/2023 thì bị đơn người quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan không ý kiến gì, đồng ý với giá theo biên bản định giá ngày
07/11/2023, không yêu cầu định giá lại.
Tại phiên tòa ông Văn đại diện bị đơn trình bày: Mận cho rằng Mận
không được đọc hợp đồng ngày 20/3/2018 không đúng tại Điều 6 của Hợp đồng
và tại Biên bản ngày 08/4/2021 của Tòa án thì Mận xác nhận có được đọc hợp đồng
này. Đối với văn bản thỏa thuận thì sau khi bà H2 đứng tên thì H2 đã tự nguyện cho
ông Hùng cùng đứng tên. Đây là sự tự nguyện của H2, không trái pháp luật nên văn
bản này hiệu lực pháp luật. Do đó, ông đại diện nguyên đơn đề nghị Tòa án không
chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn
Trong quá trình giải quyết vụ án người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Ngân
hàng TMCP C trình bày:
Năm 2020 Ngân hàng TMCP C cho Ngô Thị Thu H2 vay số tiền
200.000.000 đồng, để đảm bảo cho khoản này thì ông Hùng H2 đã thế chấp cho
Ngân hàng quyền sử dụng đất diện tích 193m
2
thuộc thửa 1804, tờ bản đồ số 26
Phước Hòa huyện Tân Thành (nay phường Phước Hòa, thị Phú Mỹ) theo hợp
đồng thế chấp tài sản số 231/2020/HĐBĐ/NHCT88004 ngày 22/9/2020. Ngày
24/9/2020, Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thị xã Phú Mỹ đã xác nhận việc đăng
thế chấp cho Ngân hàng. Việc đăng giao dịch bảo đảm đối với tài sản thế chấp
thực hiện đúng quy định pháp luật.
Hợp đồng vay 200.000.000 đồng các bên đã thanh toán xong. Tuy nhiên tài sản
bảo đảm chưa được xóa thế chấp được dùng để bảo đảm tiếp cho khoản vay
400.000.000 đồng theo hợp đồng cho vay số 103/2021/HĐCV/NHCT880040 ngày
30/6/2021. Tài sản bảo đảm theo hợp đồng thế chấp tài sản số
231/2020/HĐBĐ/NHCT88004 ngày 22/9/2020. Ngân hàng không đăng giao dịch
bảo đảm lại, nhưng hai bên biên bản định giá lại tài sản bảo đảm số 231-
01/2021/BBĐG/NHCT88040 ngày 29/6/2021. Theo quy định của pháp luật thì không
cần phải đăng ký giao dịch bảo đảm lại đối với khoản vay mới.
Ông Hùng, H2 hiện nay vẫn thực hiện đúng nghĩa vụ trả nợ theo hợp đồng
cho vay số 103/2021/HĐCV/NHCT880040 ngày 30/6/2021. Ngân hàng không có tranh
chấp gì liên quan đến hợp đồng tín dụng đã ký giữa Ngân hàng và ông Hùng, bà H2.
Đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn thì Ngân hàng chưa ý kiến
hiện nay chưa tài liệu chứng cứ chứng minh việc tặng cho H2, việc sang tên
cho vợ chồng ông Hùng, bà H2 là sai quy định pháp luật.
Trong vụ án này, Ngân hàng không yêu cầu độc lập gì. Đối với quyền sử
dụng đất diện tích 193m2 thuộc thửa 1804, tờ bản đồ số 26 Phước Hòa huyện Tân
Thành (nay phường Phước Hòa, thị Phú Mỹ) theo hợp đồng thế chấp tài sản số
231/2020/HĐBĐ/NHCT88004 ngày 22/9/2020 tài sản bảo đảm cho khoản vay theo
hợp đồng cho vay số 103/2021/HĐCV/NHCT880040 ngày 30/6/2021. Đề nghị Tòa án
căn cứ quy định của pháp luật để giải quyết vụ án.
Do Ngân hàng đã trình bày toàn bộ nội dung liên quan đến vụ án cung cấp
đầy đủ tài liệu chứng cứ theo quy định của pháp luật do đó Ngân hàng đề nghị được
vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án và các phiên xét xử của Tòa án các cấp.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là Văn phòng công chứng P trình bày:
Ngày 20/3/2018 theo yêu cầu của hộ gia đình ông Ngô Quang M gồm các ông
Ngô Quang M, Trần Thị M, Ngô Thị Thu H1, Ngô Quốc H, Ngô Thị Thu H2 về
6
việc công chứng hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất, Văn phòng công chứng P đã
tiếp nhận hồ sơ gồm các giấy tờ:
- Phiếu yêu cầu công chứng hợp đồng, giao dịch;
- Giấy tờ tùy thân chứng minh nhân dân/căn cước công dân của các bên
tham gia giao dịch , cùng giấy xác nhận số chứng minh nhân dân do Công an huyện
Tân Thành cấp cho ông Ngô Quang M và bà Trần Thị M
- Giấy tờ về quan hệ hôn nhân Giấy chứng nhận kết hôn của ông Ngô
Quang M và bà Trần Thị M;
- Giấy tờ về nơi cư trú là sổ hộ khẩu của các bên tham gia giao dịch;
- Giấy tờ về quyền sử dụng đất tặng cho Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất
Công chứng viên đã kiểm tra đối chiếu các loại giấy tờ người yêu cầu công
chứng nói trên thấy trùng khớp, phù hợp với quy định của pháp luật; nội dung yêu cầu
công chứng không vi phạm pháp luật, không trái đạo đức hội; các bên tham gia hợp
đồng, giao dịch năng lực hành vi dân sự phù hợp theo quy định của pháp luật, hoàn
toàn tự nguyện, không dấu hiệu bị lừa dối, đe doạ hoặc cưỡng ép, tài sản giao dịch
không bị quan thẩm quyền ngăn chặn giao dịch. Văn phòng công chứng P đã
soạn thảo hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất theo đúng nội dung yêu cầu của các
bên
Sau khi các bên đọc hợp đồng, công chứng viên đã giải thích cho các bên hiểu
quyền, nghĩa vụ lợi ích hợp pháp của họ, ý nghĩa và hậu quả pháp của việc
tham gia hợp đồng, giao dịch. Các bên thừa nhận đã hiểu quyền, nghĩa vụ, lợi ích
hợp pháp của mình hậu quả pháp của việc giao kết hợp đồng, xác định toàn bộ
nội dung hợp đồng đúng các bên đã tên vào từng trang của hợp đồng trước mặt
công chứng viên; công chứng viên đã yêu cầu các bên xuất trình đầy đủ bản chính các
giấy tờ tài liệu có liên quan như đã trình bày ở trên để đối chiếu trước khi ghi lời chứng
và ký từng trang của hợp đồng.
Văn phòng công chứng P đã thực hiện đầy đủ các yêu cầu của pháp luật về thủ
tục công chứng, từ đó khẳng định việc công chứng hợp đồng tặng cho quyền sử dụng
đất của Văn phòng công chứng P đúng pháp luật. Việc bà Mận trình bày không được
đọc hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất là hoàn toàn không có căn cứ cơ sở.
Thửa đất tặng cho nguồn gốc tách từ thửa đất số 1672, tờ bản đồ số 26 được
Nhà nước giao không thu tiền sử dụng đất cho hộ ông Ngô Quang M ngày 26/5/2015
theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà tài sản khác gắn liền
với đất số BX 453838 Đơn đề nghị tách thửa dất, hợp thửa đất đã được Chi nhánh
Văn phòng đăng ký đất đai huyện Tân Thành xác nhận năm 2017. Thời điểm nhà nước
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất năm 2015 cho hộ ông Ngô Quang M thì hộ
ông Minh theo sổ hộ khẩu gồm các thành viên: Ngô Quang M, Trần Thị M, Ngô Thị
Thu H1, Ngô Quốc H, Ngô Thị Thu H2. Ngô Thị H đã tách hộ từ ngày 24/3/2004;
tại thời điểm năm 2015 Ngô Thị H không còn thành viên trong hộ ông Ngô
Quang M nên không có quyền sử dụng đất chung với hộ gia đình đối với thửa đất tặng
cho. Việc Hằng không tham gia hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất là đúng
quy định pháp luật và trình bày của bà Hằng là không có cơ sở.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Văn phòng công chứng T trình bày:
Về trình tự thủ tục công chứng:
- Công chứng viên khi tiếp nhận đã kiểm tra giấy tờ trong hồ sơ yêu cầu công
chứng đã hướng dẫn người yêu cầu công chứng ghi phiếu yêu cầu công chứng
7
- Công chứng viên đã yêu cầu người công chứng xuất trình bản chính của
giấy tờ theo quy định để kiểm tra đối chiếu
- Công chứng viên hướng dẫn người yêu cầu công chứng tuân thủ đúng các
quy định về thủ tục công chứng các quy định pháp luật liên quan đến việc thực
hiện hợp đồng, giao dịch; giải thích cho người yêu cầu công chứng hiểu quyền,
nghĩa vụ lợi ích hợp pháp của họ, ý nghĩa và hậu quả pháp lý của việc tham gia hợp
đồng, giao dịch
- Xét thấy, nội dung, ý định giao kết hợp đồng, giao dịch xác thực, mục
đích, nội dung của hợp đồng, giao dịch không vi phạm pháp luật, không trái đạo đức xã
hội, các chủ thể tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện, năng lực hành vi dân sự
theo quy định. Công chứng viên đã tiến hành lập dự thảo hợp đồng theo nội dung yêu
cầu thể hiện trên phiếu yêu cầu công chứng;
- Người yêu cầu công chứng đã tự đọc lại dự thảo hợp đồng, đồng ý toàn bộ
nội dung trong dự thảo hợp đồng, đã vào từng trang ký, ghi họ tên trước
mặt công chứng viên
- Công chứng viên đã ghi thời điểm, địa điểm công chứng, họ, tên công
chứng viên, tên tổ chức hành nghề công chứng chứng nhận người tham gia hợp đồng,
giao dịch hoàn toàn tự nguyện, có năng lực hành vi dân sự, mục đích, nội dung của hợp
đồng, giao dịch không vi phạm phạm pháp luật, không trái đạo đức hội, chữ
trong hợp đồng, giao dịch đúng chữ của người tham gia hợp đồng, giao dịch
có chữ ký của công chứng viên và đóng dấu của tổ chứng hành nghề công chứng
- Công chứng viên đã thực hiện trình tự, thủ tục công chứng theo đúng quy
định, đã thực hiện đầy đủ trách nhiệm nghĩa vụ của công chứng viên theo quy định
của Luật công chứng và các văn bản hướng dẫn
- Về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, Văn phòng không có ý kiến và không
có yêu cầu độc lập nào
Do bận công việc nên Văn phòng công chứng T đề nghị Tòa án nhân dân thành
phố Phú My, tỉnh Rịa Vũng Tàu xem xét giải quyết vắng mặt người đại diện văn
phòng công chứng trong các phiên họp, hòa giải t xử, thẩm định tài sản kể cả
trường hợp thay đổi thành phần Hội đồng xét xử, thời gian t xử thay đổi hoặc bổ
sung nội dung khởi kiện
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Ngô Quang M trình bày:
Ông ba của Ngô Thị Thu H2 một thành viên trong hộ ông Ngô Quang
M tại thời điểm cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản
khác gắn liền với đất số CL990861, số vào sổ cấp giấy chứng nhận CS 04701 do Sở
Tài nguyên Môi trường tỉnh Rịa Vũng Tàu cấp ngày 22/12/2017 đối với phần
đất diện tích 501m2 thuộc thửa 1804, tờ bản đồ 26, phường Phước Hoà, thị Phú
Mỹ, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
Ngày 20/3/2018 ông cùng các thành viên trong gia đình của ông Trần Thị
M,bà Ngô Thị Thu H1 ông Ngô Quốc H đã hợp đồng tặng cho quyền sử dụng
đất nêu trên cho bà Ngô Thị Thu H2, việc tặng cho này là tự nguyện và tất cả các thành
viên trong gia đình ông đều biết về nội dung của việc tặng cho này. Việc tặng cho
này đúng theo quy định của pháp luật H2 đã được nhà ớc công nhận quyền
sử dụng đất nêu trên cho H2. Đất này thuộc nhân của H2 nên việc H2
tặng cho ai hay chuyển nhượng cho ai quyền của H2, các thành viên trong gia
đình tôi không có quyền ngăn cản.
8
Ông không tranh chấp đối với hợp đồng tặng cho ngày 20/3/2018 giữa các
thành viên Ngô Quang M, Trần Thị M, Ngô Thị Thu H1 ông Ngô Quốc H
với bà Ngô Thị Thu H2.
Đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn với bị đơn thì ông thống nhất với ý
kiến của bị đơn, đề nghị tòa án bác yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Đối với biên bản định giá ngày 07/11/2023 thì ông không ý kiến gì, đồng ý
với giá theo biên bản định giá ngày 07/11/2023, không yêu cầu định giá lại.
Người đại diện theo ủy quyền của người quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông
Ngô Quốc H là ông Trương Quốc Q trình bày:
Ông đại diện ông H thống nhất với ý kiến yêu cầu của nguyên đơn, ông H không
có ý kiến yêu cầu gì khác
Người đại diện theo ủy quyền của người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông
Nguyễn Văn H là ông Trần Quốc V trình bày:
Ông Hùng thống nhất với ý kiến của Ngô Thị Thu H2, đề nghị Hội đồng xét
xử bác yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Ngoài ra, ông Hùng không ý kiến yêu
cầu gì khác.
Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phú Mỹ phát biểu ý
kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư
phiên tòa của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ
cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án phát biểu ý kiến về việc giải
quyết vụ án như sau:
Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất lập ngày 20/3/2018 được lập thành văn
bản, chữ ký, lăn tay của các bên tham gia hợp đồng được công chứng đúng quy
định của pháp luật đất đai. Hợp đồng được lập trên cơ sở tự nguyện thỏa thuận giữa hai
bên, nguyên đơn bị đơn không bị hạn chế hành vi dân sự, nội dung của hợp đồng
không vi phạm điều cấm, không trái đạo đức hội đảm bảo các điều kiện hiệu
lực của Hợp đồng đúng theo quy định tại các Điều 117, 118, 119 Bộ luật Dân sự nên
có hiệu lực thi hành. Nguyên đơn không đưa ra được tài liệu chứng cứ chứng minh cho
việc giữa nguyên đơn bị đơn thỏa thuận để ông H và H2 cùng đứng tên trong
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất sau khi được tặng cho. Theo sổ hộ khẩu chủ hộ
Trần Thị M cung cấp cho Văn phòng công chứng P thì Hằng đã tách ra khỏi hộ
từ ngày 24/3/2024, trước ngày hộ ông Minh được công nhận quyền sử dụng đất vào
năm 2015 nên không căn cứ để xác định Hằng quyền sử dụng đối với thửa
1804 (diện tích 501m²) này. Do đó không căn cứ để hủy một phần hợp đồng tặng
cho theo yêu cầu của các đồng nguyên đơn.
Do H2 quyền sử dụng hợp pháp đối với thửa 1804 (diện tích 193m²).
H2 ông Nguyễn Văn H quan hệ vợ chồng hợp pháp nên việc H2 tự nguyện
nhập tài sản riêng của mình vào tài sản chung của vợ chồng phù hợp với quy định
của pháp luật luật hôn nhân gia đình. Do đó không căn cứ để chấp nhận yêu cầu
tuyên văn bản này là vô hiệu của các đồng nguyên đơn.
Căn cứ các Điều 26, 35, 39, 227 BLTTDS; Điều 116, 117, 118, 119, 120, 132,
500, 501, 502, 503 Bộ luật Dân sự 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí lệ phí Tòa án: Đề nghị Hội
đồng xét xử xét xử theo hướng không chấp toàn bộ yêu cầu khởi kiện của Nguyên đơn.
- Về án phí: Bị đơn chịu án phí theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
9
[1] Nguyên đơn Trần Thị M, Ngô Thị Thu H1, Ngô Thị H khởi
kiện yêu cầu tuyên bố vô hiệu một phần hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất ký ngày
20/3/2018 giữa hộ ông Ngô Quang M, Trần Thị M, Ngô Thị Thu H1, ông Ngô
Quốc H với bà Ngô Thi Thu H2 và tuyên vô hiệu văn bản thỏa thuận tài sản chung của
vợ chồng ngày 03/4/2019 giữa Ngô Thị Thu H2 với ông Nguyễn Văn H, yêu cầu
Tòa án giải quyết hậu quả của hai hợp đồng này. Đây tranh chấp hợp đồng tặng cho
quyền sử dụng đất tranh chấp liên quan đến yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng
hiệu nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân theo quy định tại
khoản 3, khoản 11 Điều 26 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015
[2] Đối tượng của hợp đồng quyền sử dụng đất tọa lạc tại phường Phước
Hòa, thành phố Phú Mỹ đồng thời bị đơn bà Ngô Thị Thu H2 hiện đang cư trú tại tổ 5,
khu phố Tân Lộc, phường Phước Hòa, thành phố Phú Mỹ, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu nên
vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Phú Mỹ, tỉnh Bà Rịa
Vũng Tàu theo điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a, c khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng
dân sự năm 2015.
[3] Về sự vắng mặt của các đương sự:
Người quyền lợi, nghĩa vụ liên Ngân hàng TMCP C, Văn phòng công
chứng P, Văn phòng công chứng T đơn đề nghị xét xử vắng mặt nên Hội đồng xét
xử xét xử vắng mặt Ngân hàng TMCP C, Văn phòng công chứng P, Văn phòng công
chứng T phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố
tụng dân sự năm 2015
[4] Căn cứ vào biên bản lấy lời khai của ông Thanh Khoa ngày
26/02/2025 nên Hội đồng xét xử không đưa ông Thanh Khoa vào tham gia tố tụng
với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
[5] Về áp dụng pháp luật: Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất ngày
20/3/2018 văn bản thỏa thuận tài sản chung của vợ chồng ngày 03/4/2019 được
kết vào thời điểm bộ luật dân sự năm 2015 luật đất đai năm 2013 hiệu lực nên
Hội đồng xét xử áp dụng Bộ luật dân sự năm 2015 luật đất đai năm 2013 để giải
quyết vụ án.
[6] Xét yêu cầu của đương sự:
6.1. Xét yêu cầu của nguyên đơn yêu cầu Tòa án tuyên bố vô hiệu một phần hợp
đồng tặng cho quyền sử dụng đất ngày 20/3/2018 giữa hộ ông Ngô Quang M,
Trần Thị M, Ngô Thị Thu H1, ông Ngô Quốc H với Ngô Thị Thu H2 được Văn
phòng công chứng P công chứng số 1322, quyển số 01/2018/TP/CC-SCC/HĐGD đối
với phần đất có diện tích 193m
2
thuộc thửa 1804, tờ bản đồ số 26, phường Phước Hòa,
thị xã Phú Mỹ (nay là thành phố Phú Mỹ), tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
Về hình thức của hợp đồng:
Điều 457 của Bộ luật dân sự quy định: Hợp đồng tặng cho tài sản sự thỏa
thuận giữa các bên, theo đó bên tặng cho giao tài sản của mình chuyển quyền sở
hữu cho bên được tặng cho mà không yêu cầu đền bù, bên được tặng cho đồng ý nhận
Khoản 1 Điều 459 Bộ luật dân sự quy định Tặng cho bất động sản phải được
lập thành văn bản công chứng, chứng thực hoặc phải đăng nếu bất động sản
phải đăng ký quyền sở hữu theo quy định của luật
Như vậy hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất ngày 20/3/2018 giữa hộ ông
Ngô Quang M, Trần Thị M, Ngô Thị Thu H1, ông Ngô Quốc H với Ngô Thị
Thu H2 được Văn phòng công chứng P công chứng số 1322, quyển số
10
01/2018/TP/CC-SCC/HĐGD đảm bảo về mặt hình thức theo khoản 2 Điều 117
khoản 2 Điều 119 Bộ luật dân sự năm 2015.
Về nội dung của hợp đồng:
Nguyên đơn cho rằng trước khi hợp đồng tặng cho ngày 20/3/2018 thì giữa
bà Mận, ông Minh, bà Hà, ông H và H2 thỏa thuận sẽ tặng cho thửa đất 1804 tờ bản
đồ số 26 diện tích 501m
2
tại ấp Tân Lộc, Phước Hòa, huyện Tân Thành (nay
thành phố Phú Mỹ), tỉnh Rịa Vũng Tàu theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,
quyền sở hữu nhà tài sản khác gắn liền với đất số CL990861, số vào sổ cấp giấy
chứng nhận CS 04701 do Sở Tài nguyên Môi trường tỉnh Rịa Vũng Tàu cấp
ngày 22/12/2017 cho Ngô Thị Thu H2 ông Ngô Quốc H cùng đứng tên. Tuy
nhiên, nguyên đơn không đưa ra được bất cứ tài liệu chứng cứ nào chứng minh cho
việc thỏa thuận này của bà Mận, bà Hà, ông H và bà H2.
Khoản 4 Điều 91 Bộ luật tố tụng dân sự sự quy định “đương sự có nghĩa vụ đưa
ra chứng cứ để chứng minh mà không đưa ra được chứng cứ hoặc không đầy đủ chứng
cứ thì Tòa án giải quyết vụ việc dân sự theo những chứng cứ đã thu thập được có trong
hồ sơ vụ việc
Do nguyên đơn không đưa ra được chứng cứ để chứng minh nên Hội đồng xét
xử căn cứ vào Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất lập ngày 20/3/2018 để giải quyết
vụ án.
Tại thời điểm ký hợp đồng, Mận, bà Hà ông H đã đủ 18 tuổi, đầy đủ năng
lực pháp luật dân sự năng lực hành vi dân sự nên phải chịu trách nhiệm về hành vi
của mình. Đồng thời tại Điều 6 của hợp đồng thể hiện hai bên đã đọc hợp đồng, công
chứng viên đã giải thích hợp đồng. Hai bên thừa nhận đã hiểu quyền, nghĩa vụ, lợi
ích hợp pháp của mình và hậu quả pháp của giao kết hợp đồng này. Như vậy, khi
Mận, ông H, vào hợp đồng này đã biết phải biết về quyền, nghĩa vụ, lợi
ích và hậu quả pháp lý của giao dịch. Do đó, Hội đồng xét xử xét thấy lời trình bày này
của nguyên đơn không phù hợp với tài liệu chứng cứ mà Tòa án thu thập được trong hồ
sơ vụ án
Ngoài ra, bà Hằng cho rằng hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất ngày
20/3/2018 bà Hằng không ký tặng cho bà H2 vì bà Hằng cũng là thành viên của hộ ông
Minh.
Căn cứ công văn số 2078/CNVPĐK-ĐKCG ngày 04/7/2023 của Chi nhánh văn
phòng đăng ký đất đai thị xã Phú Mỹ thì thửa đất 1804 có nguồn gốc như sau:
“Ngày 23/4/2015, Ủy ban nhân dân huyện Tân Thành (nay Ủy ban nhân dân
thị Phú Mỹ) cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà tài sản
khác gắn liền với đất số BX 453417 cho “hộ ông Ngô Quang Mđối với thửa 553, tờ
bản đồ số 26 với diện tích 2733m
2
đất trồng cây lâu năm.
Ngày 04/5/2015, ông Ngô Quang M lập thủ tục tách thửa số 553, tờ bản đồ số
26 thành 01 thửa mới 1672, tờ bản đồ số 26 được Ủy ban nhân dân huyện cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất số BX 453838 ngày 26/5/2015 ghi “hộ ông Ngô Quang
M
Ngày 30/10/2017 ông Ngô Quang M lập thủ tục tách thửa đất số 1672 tờ bản đồ
số 26 thành 02 thửa mới 1804, 1805 tờ bản đồ số 26 được Sở tài nguyên Môi
trường tỉnh Rịa Vũng Tàu cấp giấy chứng nhận số CL 990862, CL 990861 ngày
22/12/2017 ghi “hộ ông Ngô Quang M
Căn cứ vào sổ hộ khẩu mà bà Trần Thị M cung cấp cho Văn phòng công chứng
P tại thời điểm hợp đồng tặng cho thì hộ gia đình của ông Ngô Quang M tại thời
11
điểm nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vào năm 2015 thì thành viên
trong hộ gia đình của ông Minh gồm Trần Thị M, ông Ngô Quang M, Ngô
Thị Thu H1, ông Ngô Quốc H. Hằng đã tách hộ từ ngày 24/3/2004 nên tại thời
điểm cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ ông Minh năm 2015 thì bà Hằng
không còn thành viên trong hộ gia đình của ông Minh. Do đó, việc Văn phòng công
chứng P không đưa bà Hằng tham gia ký hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất là đúng
quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử xét thấy không sở để chấp nhận lời
trình bày của bà Hằng.
Như vậy hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất ngày 20/3/2018 giữa hộ ông
Ngô Quang M, Trần Thị M, Ngô Thị Thu H1, ông Ngô Quốc H với Ngô Thị
Thu H2 được Văn phòng công chứng P công chứng số 1322, quyển số
01/2018/TP/CC-SCC/HĐGD đảm bảo về mặt nội dung theo quy định tại khoản 1
Điều 117, Điều 118 Bô luật dân sự năm 2015.
Do đó, Hợp đồng tặng cho Quyền sử dụng đất ngày 20/3/2018 giữa hộ ông Ngô
Quang M, Trần Thị M, Ngô Thị Thu H1, ông Ngô Quốc H với Ngô Thị Thu
H2 được Văn phòng công chứng P công chứng số 1322, quyển số 01/2018/TP/CC-
SCC/HĐGD đối với phần đất thuộc thửa 1804, tờ bản đồ số 26, phường Phước Hòa,
thị Phú Mỹ (nay thành phố Phú Mỹ), tỉnh Rịa Vũng Tàu hiệu lực pháp
luật nên Hội đồng xét xử không sở để chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên
đơn về việc yêu cầu Tòa án bố vô hiệu một phần hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất
này.
6.2. Xét yêu cầu của nguyên đơn yêu cầu Tòa án tuyên hiệu văn bản thỏa
thuận tài sản chung của vợ chồng ngày 03/4/2019 giữa Ngô Thị Thu H2 với ông
Nguyễn Văn H được Văn phòng công chứng T, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu công chứng số
492 quyển số 02/TP/CC-SCC/HĐGD
H2 quyền sử dụng hợp pháp đối với phần đất thửa 1084 tờ bản đồ số 26,
phường Phước Hòa, thị Phú Mỹ (này thành phố Phú Mỹ), tỉnh Rịa Vũng
Tàu. H2 ông Hùng vợ chồng nên việc H2 tự nguyện nhập tài sản riêng của
H2 thành tài sản chung của vợ chồng phù hợp với Điều 44 luật Hôn nhân gia
đình. Việc tự nguyện này của H2 không vi phạm điều cấm, không trái đạo đức do
đó văn bản thỏa thuận tài sản chung của vợ chồng ngày 03/4/2019 giữa Ngô Thị
Thu H2 với ông Nguyễn Văn H hiệu lực pháp luật. Nên Hội đồng xét xử không
chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc yêu cầu Tòa án tuyên vô hiệu văn
bản thỏa thuận tài sản chung của vợ chồng ngày 03/4/2019 giữa Ngô Thị Thu H2
với ông Nguyễn Văn H được Văn phòng công chứng T, tỉnh Rịa Vũng Tàu công
chứng số 492 quyển số 02/TP/CC-SCC/HĐGD.
Đối với giấy trả đất ngày 10/6/2019 nội dung H2 đồng ý trả lại thửa đất
1804 với diện tích 193m
2
cho Mận yêu cầu Mận ông Minh trả cho H2 số
tiền 130.000.000 đồng. H2 cho rằng tại thời điểm này H2 ông Hùng xảy ra mâu
thuẫn vợ chồng nên bà H2 viết giấy này để khi ly hôn phần đất được cho không bị chia
đôi. Mận cũng thừa nhận khi viết giấy trả đất thì giữa H2 ông Hùng mâu
thuẫn. Tại thời điểm ngày 10/6/2019 thì phần đất này đang tài sản chung của vợ
chồng H2 và ông Hùng vì vậy việc cá nhân bà H2 thỏa thuận với bà Mận mà không
sự đồng ý của ông Hùng không phù hợp với quy định của luật đất đai. Đồng thời
nguyên đơn bị đơn không yêu cầu Tòa án giải quyết đối với giấy trả đất ngày
10/6/2019 nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết trong vụ án này. Nếu sau này
có tranh chấp sẽ được giải quyết bằng một vụ án khác.
12
6.3. Do Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất ký ngày 20/3/2018 và văn bản
thỏa thuận tài sản chung của vợ chồng ngày 03/4/2019 hiệu lực pháp luật nên yêu
cầu của nguyên đơn về việc giải quyết hậu quả của hợp đồng hiệu buộc Ngô
Thị Thu H2 ông Nguyễn Văn H trả lại cho Mận, Hà, Hằng phần đất
diện tích 193m
2
thuộc thửa 1804, tờ bản đồ số 26, phường Phước Hòa, thị xã Phú Mỹ,
tỉnh Rịa Vũng Tàu yêu cầu Tòa án công nhận thửa đất diện tích 193m
2
thuộc thửa 1804, tờ bản đồ số 26, phường Phước Hòa, thị Phú Mỹ, tỉnh Rịa
Vũng Tàu cho ông Ngô Quang M với bà Trần Thị M là không có cơ sở chấp nhận
Từ nhận định tại mục 6.1, 6.2, 6.3 Hội đồng xét xử bác toàn bộ yêu cầu khởi
kiện của nguyên đơn đối với bị đơn
[7] Tại đồ vị trí ngày 21/02/2024 của Trung tâm kỹ thuật Tài nguyên
Môi trường tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu thể hiện vị trí đất do bà H2, ông Hùng đang thực tế
sử dụng không trùng với ranh giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở
tài sản khác gắn liền với đất CL 990861. Việc H2, ông Hùng không sử dụng
đúng phần đất theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mà bà H2, ông Hùng được cấp
không nằm trong phạm vi khởi kiện của nguyên đơn nên nếu sau này các đương sự có
tranh chấp về quyền sử dụng đất thì được giải quyết trong vụ án dân sự khác
[8] Về chi phí tố tụng: Do yêu cầu của nguyên đơn không được chấp nhận
nên nguyên đơn chịu chi phí đo đạc, thẩm định tại chỗ, sao lục tài liệu chứng cứchi
phí định giá 12.000.000 đồng (mười hai triệu đồng). Nguyên đơn đã nộp đủ số tiền
này.
[9] Về án phí: Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn không được chấp nhận
nên nguyên đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm. .
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào Điều 5, khoản 3, khoản 11 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a,
c khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 91, Điều 147, khoản 1, điểm b khoản 2 Điều 227,
Điều 228, Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;
Căn cứ vào Điều 117, Điều 118, Điều 119, Điều 457, Điều 459 Bộ luật dân sự
năm 2015;
Căn cứ Điều 44 Luật hôn nhân gia đình năm 2014;
Căn cứ vào Điều 167, Điều 168 Luật đất đai năm 2013;
Căn cứ vào Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của
Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản sử
dụng án phí và lệ phí Tòa án
Tuyên xử:
1. Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Trần Thị M,
Ngô Thị Thu H1, Ngô Thị H đối với bị đơn Ngô Thị Thu H2 về việc tranh
chấp hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất tranh chấp liên quan đến yêu cầu tuyên
bố một văn bản công chứng vô hiệu.
2. Về chi phí tố tụng: Trần Thị M, Ngô Thị Thu H1, Ngô Thị H chịu
12.000.000 đồng (mười hai triệu đồng) chi phí xem xét thẩm định tại chỗ, đo vẽ, sao
lục tài liệu và định giá tài sản. Bà Mận, bà Hà, bà Hằng đã nộp đủ.
3. Về án phí: Trần Thị M, bà Ngô Thị Thu H1, bà Ngô Thị H phải chịu tiền
án phí dân sự sơ thẩm 600.000 đồng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng
(ba trăm nghìn đồng) Mận, Hà, Hằng đã đóng theo biên lai thu tiền tạm
13
ứng án phí lệ phí Tòa án số 0006366 ngày 16/3/2021 của Chi cục thi hành án dân sự thị
Phú Mỹ (nay thành phố Phú Mỹ). Mận, Hà, Hằng phải nộp bổ sung số
tiền án phí 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng).
4. Về quyền kháng cáo: Đương sự mặt tại phiên tòa quyền kháng cáo
trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, các đương sự vắng mặt tại phiên tòa
quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày
bản án được niêm yết theo quy định pháp luật.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân
sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự quyền thoả
thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế
thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7A, 7B 9 Luật Thi hành án dân sự; thời
hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Nơi nhận:
- Các đương sự;
- TAND tỉnh BRVT;
- VKSND tỉnh BRVT;
- VKSND thành phố Phú Mỹ;
- Chi cục THADS thành phố Phú Mỹ;
- Lưu VP, hồ sơ.
T.M HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Nguyễn Thị Thùy
Tải về
Bản án số 81/2025/DS-ST Bản án số 81/2025/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 81/2025/DS-ST Bản án số 81/2025/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất