Bản án số 600/2024/DS-ST ngày 03/07/2024 của TAND Q. Phú Nhuận, TP. Hồ Chí Minh về tranh chấp hợp đồng tặng cho tài sản

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 600/2024/DS-ST

Tên Bản án: Bản án số 600/2024/DS-ST ngày 03/07/2024 của TAND Q. Phú Nhuận, TP. Hồ Chí Minh về tranh chấp hợp đồng tặng cho tài sản
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng tặng cho tài sản
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND Q. Phú Nhuận (TAND TP. Hồ Chí Minh)
Số hiệu: 600/2024/DS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 03/07/2024
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Tranh chấp hợp đồng tặng cho nhà ở, quyền sử dụng đất ở
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
QUẬN PHÚ NHUẬN
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Số: 600/2024/DS-ST
Ngày: 03-7-2024
V/v Tranh chấp hợp đồng tặng cho
nhà ở, quyền sử dụng đất ở.
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN PHÚ NHUẬN, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Út
Các Hội thẩm nhân dân: 1. Ông Nghiêm Xuân Hoàng
2. Ông Đỗ Xuân Nam.
- Thư ký phiên tòa: Võ Mai Như Trang - Thư ký Tòa án nhân dân quận Phú
Nhuận, Thành phố Hồ Chí Minh.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Phú Nhuận, Thành phố Hồ Chí Minh
tham gia phiên tòa: Võ Nam Bình - Kiểm sát viên.
Trong các ngày 27 tháng 6 ngày 03 tháng 7 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân
dân quận Phú Nhuận, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử công khai vụ án thụ số:
1116/2023/TLST-DS ngày 30 tháng 11
năm 2023 về “Tranh chấp hợp đồng tặng cho nhà ở, quyền sử dụng đất ở theo Quyết
định đưa vụ án ra xét xử số: 106/2024/QĐXXST-DS ngày 21 tháng 5 năm 2024,
Quyết định hoãn phiên tòa số 65/2024/QĐST-DS ngày 07 tháng 6 năm 2024 giữa c
đương sự:
1. Nguyên đơn: Thị H ông Trương Cao M
Địa ch: 511/57 Đường Q, Phường W, quân O, Thành ph H Chí Minh.
Người đại din hợp pháp của nguyên đơn: Bà Tng N Minh P, đại din theo
y quyền (Văn bản y quyền ngày 06/11/2023) (Có mặt)
2. B đơn: Trương Thị Ánh H (Vng mt).
Địa ch: 62/35 Đưng A, Phường S, qun D, Tp. H Chí Minh.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Tại đơn khởi kiện đề ngày 07/11/2023 quá trình giải quyết vụ án, đại diện
theo ủy quyền của nguyên đơn bà Tống Nữ Minh P trình bày:
Thị H ông Trương Cao M cùng tạo lập n nhà s 511/57 Đưng Q,
Phung E (nay Phưng W), qun O -TP. HCM (gi tắt căn nhà 511/57"), đây
i sn duy nht ca c cuc đi v chng ông M bà H, ông bà được công nhận theo
Giy chng nhn s 1761/2008/UB-GCN ngày 09/5/2008 ca UBND quận Phú Nhuận.
2
Đến năm 2016 vợ chng ông M H đưc cấp đổi giy mi s CC864744, s vào sổ
GCN: CS0084 do S Tài Nguvên Môi Trưng TP. H Chí Minh cấp ngày 25/5/2016.
Trong thi gian chung sng, v chng ông M bà H 08 người con, nhưng đến
nay đã mất 02 người con. V chng ông M H không lương hưu, không thu
nhập nào khác ngoài s đóng góp của các con để sng hằng ngày. Hiện nay, căn nhà
cũng chỉ còn hai vợ chng sinh sống, các con cháu đều ra riêng. Tuy nhiên sau khi
dch covid -19 xy ra, kinh tế công việc làm ăn của các con ông M bà H quá khó khăn,
không thuận lợi. Tình thế như vy, v chng ông M H không muốn gây khó khăn
cho các con, nên quyết định bán căn nhà 511/57, d định s mua một căn hộ chung
vừa đủ để sinh sng, tin việc quét dọn v sinh va vi sc khe ca v chng ông M
bà H và nếu có dư sẽ chia cho các con và dành dụm dưỡng già.
Khi vợ chồng ông M bà H quvết định bán căn nhà 511/57 thì Trương Thị Ánh
H người đang đứng tên dùm trên giấy tờ nhà đất nói trên, bà H không đồng ý ký tên
giải quyết việc bán nhà cho vợ chồng ông M H. Thực tế, năm 2019, do tuổi cao sức
yếu, tình hình dịch bệnh bùng phát, vợ chồng ông M bà H lo sợ nên làm hợp đồng tặng
cho, để Trương Thị Ánh H (là nguời con thứ hai trong gia đình) đứng tên dùm trên giấy
tờ hồ nhà đất để tiện cho việc giao dịch, nhưng vợ chồng ông M H nói rõ vì cha
mẹ già, các anh chị em con không còn đây nên nhờ con đứng tên dùm, để tiện việc
quản lý và giải quyết thủ tục pháp lý khi liên quan đến căn nhà. Vì lẽ đó sau khi chuyển
tên cho Trương Thị Ánh H, vợ chồng ông M H vẫn giữ toàn bộ giấy tờ nhà đất
không giao căn nhà 511/57 cho bà Trương Thị Ánh H.
Đến nay, vợ chồng ông M H yêu cầu Trương Thị Ánh H bán căn nhà
511/57, nhưng Trương Thị Ánh Hổng không chịu tên, không chịu giao trả nhà.
Rất búc xúc, các con của vợ chồng ông M bà H đã họp gia đình vào ngày 18/6/2023 tại
căn nhà 511/57, yêu cầu Trương Thị Ánh H ký tên trao trả lại nhà để cho vợ chồng ông
M H tự giải quyết, nhưng H miệng cứ i Nhưng mục đích của con hôm nay con
nói rõ với lại mợ là con không chiếm cái nhà này và con nói cho mợ là mợ sẽ nói lại mợ
làm một cái giấy, đó, xác nhận, công chứng nó ký là cái nhà này tôi nhờ nó đứng tên hộ
cho tôi thôi và khi, sau khi tôi chết, tôi sẽ bán cái nhà này tôi chia làm bao nhiêu phần
đó. Tức là mợ nhấn mạnh cái câu là không phải của nó. Rồi con không đếm xỉa đến nhà
này của mợ làm cái gì hết con nói thật với mợ như vậy...”
Giọng nữ 1...còn con đâu có lấy nhà của mợ. Bây giờ mợ cứ xác định cái câu
là con đứng tên hộ cho mợ."
Giọng nữ 2 “Con có ký trả cho mợ hay không?”
Giọng nữ 1Con không ký, con sẽ nói cái nhà này của mợ...là con đứng
tên dùm".
Sau khi họp gia đình xong, vợ chồng ông M bà H yêu cầu bà H đến phòng công
chứng để xác nhận “chđứng tên dùm cho vợ chồng ông M H” thì H nhất quyết
không đồng ý đi xác nhận việc này. Vợ chồng ông M bà H rất buồn, tuy nhiên trong sự
việc này đa số các con cháu của vợ chồng ông M H, kể cả con rể, cháu ngoại đều
đồng tình việc yêu cầu H ký tên trả lại căn nhà cho vợ chồng ông M bà H.
Buổi họp được ghi âm và lập Vi bằng tại Văn phòng Thừa phát lại Quận 10.
3
Thực sự căn nhà đã quá kỹ, vợ chồng ông M H thì già yếu không có kinh
phí sửa chữa, khi bị hư hỏng nặng vợ chồng ông M H phài xin tiền các con khác để
đưa cho H nhờ sửa chữa. Đến thời điểm hiện tai các con của vợ chồng ông M H
không còn đủ sức gánh vác nữa. Đồng thời vợ chồng ông M bà H cũng đang mắc nhiều
căn bệnh hiểm nghèo nên cần tiền để sống, để chữa bệnh, vì vậy việc phải bán căn n
này là rất cần thiết.
Do đó, vợ chồng ông M bà H yêu cầu Tòa án giải quyết:
- Tuyên bvô hiệu Hợp đồng tặng cho số 002873 ngày 28/02/2019 của Phòng
công chứng Lê Thị Phương L, số 212 Đường R, Phuờng T, quận O, TP. Hồ Chí Minh.
- Đối với nội dung cập sang tên cho bà Trương Thị Ánh H trên giấy chứng nhận
số CS0084 của STài Nguvên Môi Trường TP. Hồ Chí Minh cấp ngày 25/5/2016
thì nguyên đơn yêu cầu được quyền tự mình liên hệ với cơ quan có thẩm quyển để cập
nhật lại nội dung biến động hoặc cấp lại giấy chứng nhận cấp lại quyền sử dụng đất trên
sở kết quả giao dịch theo quyết định, bản án của Tòa án đây thẩm quyền của
Văn phòng đăng ký đất đai của Sở Tài nguyên và Môi trường Thành phố Hồ Chí Minh.
Ti phiên tòa hôm nay, đi diện nguyên đơn vẫn gi nguyên yêu cầu khi kin.
Quá trình gii quyết v án Tòa án đã triệu tp b đơn Trương Thị Ánh H
nhiu lần nhưng b đơn đều vng mt. Do đó Tòa án đã tiến hành th tc tng đạt giy
triu tập đối vi b đơn theo quy định.
Phòng Công chứng Thị Phương L nay Phòng Công chứng Thị Vân A
xác nhận thực hin việc công chứng Hợp đồng tng cho nên trên. Vic thc hiện đúng
công chứng đúng trình tự th tục mà pháp luật quy định.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Phú Nhuận, Thành phố Hồ Chí Minh phát
biểu quan điểm:
+ Về việc tuân theo pháp luật của theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội
đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết
vụ án kể từ khi thụ cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đã được thực
hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
+ Về nội dung: Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, mục đích
xác lập hợp đồng tặng cho để cho bị đơn đứng tên dùm cho nguyên đơn, thuận tiện cho
việc giao dịch. Nay mục đích không đạt được nên nguyên đơn yêu cầu tuyên bố vô hiệu
hợp đồng tặng cho căn cứ, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu
khởi kiện của nguyên đơn.
NHẬN ĐNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ trong hồ vụ án đã được xem xét
tại phiên tòa căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa. Tòa án nhân dân quận Phú
Nhuận, Thành phố Hồ Chí Minh nhận định:
[1] V t tng:
4
Thị H ông Trương Cao M khởi kiện yêu cầu giải quyết tuyên bố hợp
đồng tặng cho nhà ở, quyền sử dụng đất tại 511/57 Đưng Q, Phưng E (nay Phưng
W), quân O, Thành phố H Chí Minh. Căn cquy định tại khoản 3 Điều 26; điểm a
khoản 1 Điều 35; điểm c khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 thì vụ
án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận Phú Nhuận, Thành phố Hồ
Chí Minh.
B đơn Trương Thị Ánh H đã được Tòa án triệu tp hp l ln th hai nhưng
vng mặt không do. Theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 B lut T tng
Dân sự, Tòa án vẫn tiến hành xét xử v án vng mt b đơn.
[2] Về nội dung tranh chấp: Hợp đồng tặng cho nhà ở, quyền sử dụng đất ở được
Công chứng số 002873, quyển số 02/TP/CC-SCC/HĐGD của Văn phòng Công chứng
Thị Phương L đối với nhà, đất tại 511/57 Đưng Q, Phưng E, qun O, Thành phố
H Chí Minh.
[2.1] Theo quy định tại Điều 2 của Hợp đồng quy định về chuyển giao nhà, quyền
sử dụng đất các giấy tờ về nhà, quyền sử dụng đất: “Bên A giao và bên B nhận nhà,
đất các giấy tờ về quyền sở hữu, quyền sdụng liên quan đúng như hiện trạng đã
miêu tả trong hợp đồng nêu trên sau khi hai bên ký hợp đồng này. Trong thời gian chưa
giao nhà, bên A có trách nhiệm bảo quản nhà, quyền sử dụng đất. Quá trình giải quyết
vụ án, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn trình bày, ông H M chỉ
hợp đồng tặng cho về mặt giấy tờ nhưng thực tế ông bà không giao nhà cũng như Giấy
chứng nhận. Sau khi bà Trương Thị Ánh H thực hiện việc đăng ký quyền sở hữu, quyền
sử dụng theo quy định Điều 4 của Hợp đồng thì H đã được cập nhật sang tên vào
ngày 11/3/2019, nhưng ông H M vẫn giữ bản chính Giấy chứng nhận Quyền sử
dụng đất, Quyền sở hữu nhà tài sản khác gắn liền với đất sCS00844 do Sở Tài
Nguyên và Môi trường Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 25/5/2016, điều này phù hợp
với tình tiết khách quan của vụ án.
[2.2] Quá trình giải quyết vụ án, ông H, M cung cấp Vi bằng nội dung cuộc
họp gia đình vào ngày 18/6/2023 tại căn nhà 511/57, thể hiện ông H M yêu cầu
Trương Thị Ánh H bán căn nhà 511/57 Đường Q nếu không thì trả lại căn nhà
cho ông , nhưng H không đồng ý. Việc ông H, M Hợp đồng tặng cho nhà
đất 511/57 Đường Q cho Trương Thị Ánh H với mục đích đH đứng têm m
khi ông bà cần giao dịch.
[2.3] Vphía Trương Thị Ánh H tuy đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng
vẫn không có bất kỳ ý kiến phản đối về Hợp đồng tặng cho cũng như nội dung cuộc họp
gia đình vào ngày 18/6/2023. Nên căn cứ Điều 92 Bộ luật Tố tụng dân sự thì đây
những tình tiết, sự kiện không phải chứng minh.
[2.4] Từ những nhận định nêu trên có thể thấy việc tặng cho chỉ hoàn tất về thủ
tục công chứng, sang tên chuyển quyền sở hữu nhưng thực tế các bên chưa thực hiện
việc giao nhận tài sản; nhà đất 511/57 Đường Q vẫn do ông H M quản lý, sử dụng
mà không giao cho bà H và và Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và sở hữu nhà ở vẫn
do ông H bà M giữ bản chính.
5
[2.5] Điều 126 của Bộ luật dân sự 2015 quy định: “Trường hợp giao dịch n sự
được xác lập sự nhầm lẫn làm cho một bên hoặc các bên không đạt được mục đích
của việc xác lập giao dịch thì bên bị nhầm lẫnquyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao
dịch dân sự vô hiệu”. Tại cuộc họp gia đình ngày 18/6/2023 tại căn nhà 511/57 Đường
Q, thể hiện ông M H tặng cho H căn nhà 511/57 để H đứng tên dùm, khi
ông bà cần chuyển nhượng thì bà H sẽ ký nhưng các bên không đạt được mục đích. Do
đó việc nguyên đơn yêu cầu tuyên bố hiệu Hợp đồng tặng cho do bị nhầm lẫn là có
căn cứ để chấp nhận.
[2.6] Điều 131 của Bộ luật dân sự 2015 quy định về hậu quả pháp của giao
dịch dân sự vô hiệu thì “Giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm
dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm giao dịch được xác lập. Khi
giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau
những gì đã nhận. Quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn cũng như đại diện yêu cầu
hủy bỏ nội dung cập nhật sang tên Trương Thị Ánh H ngày 11/3/2019 tại phần IV
của Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà tài sản khác gắn liền
với đất số CC864744 được Sở Tài nguyên Môi trường Tp. Hồ Chí Minh cấp ngày
25/5/2016 (Phần tặng cho bà Trương Thị Ánh H).
Hội đồng xét xử xét thấy căn cứ khoản 3 Điều 105 Luật Đất đai, Nghị định
43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 thì việc cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
hoặc xác nhận nội dung biến động trong trường hợp thực hiện hợp đồng là thủ tục hành
chính trong giao dịch dân sự, không mang tính chất quyết định hành chính biệt; cơ
quan, tổ chức thẩm quyền sẽ thực hiện việc đăng biến động, cấp lại giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất trên cơ sở kết quả giao dịch có hiệu lực.
Do đó, căn cứ o bản án, quyết định của a án, nguyên đơn được quyền tự
mình liên hệ với Văn phòng Đăng đất đai của Sở Tài nguyênMôi trường Thành
phố Hồ Chí Minh để giải quyết điều chỉnh biến động hoặc cấp lại Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất phù hợp với kết quả giải quyết của Tòa án.
[3] V án phí:
Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Thị H ông Trương Cao M được
chấp nhận toàn bộ, nên căn cứ Điều 147 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 và Luật
Phí Lệ pnăm 2015, thì Trương Thị Ánh H phi chu toàn bộ án phí dân sự
thm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm c khoản 1 Điều 39, điểm
b khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228 và khoản 1 Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;
Căn cứ Điều Luật Nhà ; Điều 118, 126, 131 Bộ luật dân sự năm 2015;
Căn cứ Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 Luật Phí Lệ phí
năm 2015;
Khon 2 Điu 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc
hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa
án ngày 30 tháng 12 năm 2016;
6
Căn cứ Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2014);
Tuyên xử:
1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn - Thị H ông
Trương Cao M:
- Tuyên bố Hợp đồng chuyển nhượng quyn s dụng đất, quyn s hu nhà
các tài sản khác gắn lin với đất ti s 511/57 Đưng Q, Phường E (nay là Phường W),
qun O, Thành phố H Chí Minh, số công chứng 002873 ngày 28/02/20219 của Văn
phòng Công chứng Lê Thị Phương L vô hiệu
- Thị H và ông Trương Cao M được quyn t mình liên hệ với các quan
thẩm quyền để gii quyết điều chnh biến động, cp li Giy chng nhn quyn s
dụng đất, quyn s hữu nhà tài sản khác gắn lin với đất ti s 511/57 Đưng Q,
Phường E, qun O, Thành phố H Chí Minh phù hợp với quy định ca pháp lut.
2. Về án phí dân sự sơ thẩm:
- Trương Thị Ánh H phải chịu án phí n sự thẩm 300.000 (Ba trăm
ngàn) đồng.
3. Về quyền kháng cáo:
Các đương sự quyền làm đơn kháng cáo trong thi hạn 15 ngày k t ngày
tuyên án, đương sự vng mt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do
chính đáng thì thi hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoc tống đạt hp l.
Trưng hp bn án quyết định được thi hành theo quy đnh tại Điều 2 Lut Thi
hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, ngưi phải thi nh án n s có
quyn tho thuận thi hành án, quyn yêu cầu thi hành án, t nguyện thi hành án hoc
b ng chế thi hành án theo quy đnh tại các điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Lut Thi hành án
dân s, thi hiu thi hành án đưc thc hin theo quy đnh ti Điu 30 Luật Thi nh
án dân s.
Nơi nhận:
- TAND TPHCM;
- VKSND quận Phú Nhuận;
- CC THADS quận Phú Nhuận;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Nguyễn Thị Út
Tải về
Bản án số 600/2024/DS-ST Bản án số 600/2024/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 600/2024/DS-ST Bản án số 600/2024/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất