Bản án số 575/2024/DS-PT ngày 19/09/2024 của TAND tỉnh Đồng Tháp về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 575/2024/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 575/2024/DS-PT ngày 19/09/2024 của TAND tỉnh Đồng Tháp về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Đồng Tháp
Số hiệu: 575/2024/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 19/09/2024
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Bà Trịnh Thị N khởi kiện yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH ĐỒNG THÁP
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số: 575/2024/DS-PT
Ngày: 19-9-2024
V/v tranh chấp dân sự hợp
đồng chuyển nhượng quyền
sử dụng đất và quyền sử dụng
đất
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG THÁP
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Trần Trung Thành.
Các Thẩm phán:
Ông Nguyễn Tấn Tặng
Ông Sỹ Danh Đạt
- Thư ký phiên tòa: Ông Nguyễn Văn Tuấn, Thư ký Tòa án.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Tháp: Trần Thị Điểu,
Kiểm sát viên tham gia phiên tòa.
Trong các ngày 12/9 19/9/2024, tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đồng
Tháp xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ số: 300/2024/TLPT-DS ngày 19
tháng 6 năm 2024, về việc Tranh chấp dân sự hợp đồng chuyển nhượng quyền
sử dụng đất và quyền sử dụng đất”.
Do Bản án dân sự thẩm s 69/2021/DS-ST ngày 23 tháng 11 năm 2021
của Tòa án nhân dân huyện Lấp Vò bị kháng cáo (xét xử lại theo Quyết định giám
đốc thẩm số 114/2024/DS-PT ngày 08/5/2024 của Tòa án nhân dân cấp cao tại
Thành phố Hồ Chí Minh).
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 515/2024/QĐ-PT ngày
02 tháng 8 năm 2024, giữa các đương sự:
* Nguyên đơn: Bà Trịnh Thị N, sinh năm 1950;
Địa chỉ: Số C, ấp V, xã V, huyện L, tỉnh Đồng Tháp.
Người đại diện theo ủy quyền của bà Trịnh Thị N: Anh Trần Xuân P, sinh
năm 1976; Địa chỉ: Số I, P, Phường A, thành phố C, tỉnh Đng Tháp.
Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của bà Trịnh Thị N: Luật Nguyễn
Hoàng G là Luật sư của Văn phòng L1 thuộc Đoàn luật sư tỉnh Đ.
* Bị đơn: Bà Huỳnh Thị B, sinh năm 1949;
Địa chỉ: Số A, ấp N, xã V, huyện L, tỉnh Đồng Tháp.
Người đại diện theo ủy quyền của bà Huỳnh Thị B: Ông Trần Văn N1, sinh
năm 1948; Địa chỉ: Số A, ấp N, xã V, huyện L, tỉnh Đồng Tháp;
2
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Anh Hà Trung C, sinh năm 1987;
2. Chị Hà Thị Thu N2, sinh năm 1989;
3. Bà Phạm Thị I, sinh năm 1962;
Cùng địa chỉ: Số C, ấp V, xã V, huyện L, tỉnh Đồng Tháp.
4. Ông Phạm Văn N3, sinh năm 1954;
Địa chỉ: Số H, ấp V, xã V, huyện L, tỉnh Đồng Tháp.
5. Bà Phạm Thị N4, sinh năm 1957;
Địa chỉ: Số C, ấp B, xã B, huyện C, tỉnh An Giang.
Người đại diện theo ủy quyền của Phm Thị I, ông Phạm Văn N3, bà
Phạm Thị N4: Trần Thị B1, sinh năm 1964; Địa chỉ: Số A, ấp V, V,
huyện L, tỉnh Đồng Tháp.
6. Bà Phạm Thị T, sinh năm 1966;
Địa chỉ: Số G, ấp N, xã V, huyện L, tỉnh Đồng Tháp.
Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của ông Phạm Văn N3, Phạm
Thị N4, bà Phạm Thị T, bà Phạm Thị I: Luật sư Nguyễn Hoàng G là Luật sư của
Văn phòng L1 thuộc Đoàn luật sư tnh Đ.
7. Bà Phạm Thị O, sinh năm 1977;
8. Ông Bùi Quang T1, sinh năm 1973;
Cùng địa chỉ: Số C, ấp V, xã V, huyện L, tỉnh Đồng Tháp.
9. Bà Trương Thị Hồng N5, sinh năm 1951;
10. Ông Phạm Văn C1, sinh năm 1977;
Cùng địa chỉ: Ấp V, xã V, huyện L, tỉnh Đồng Tháp.
11. Chị Phạm Thị Thu H, sinh năm 1983;
12. Anh Phạm Quốc H1, sinh năm 1996;
13. Bà Lê Thị Thu N6, sinh năm 1975;
14. Chị Phạm Thị Cẩm N7, sinh năm 1999;
Cùng địa chỉ: Số C, ấp V, xã V, huyện L, tỉnh Đồng Tháp.
15. Ông Trần Văn N1, sinh năm 1948;
Địa chỉ: Số A, ấp N, xã V, huyện L, tỉnh Đồng Tháp.
16. Ủy ban nhân dân huyện L;
Người đại diện thep pháp luật: Ông Lê Lam Minh N8, chức vụ: Chủ tịch
UBND huyện L; Địa chỉ: Khóm B, thị trấn L, huyện L, tỉnh Đồng Tháp.
17. Ông Phạm Ngọc G1, sinh năm 1965 (Chết ngày 03/8/2018);
Địa chỉ: Số A, ấp V, xã V, huyện L, tỉnh Đồng Tháp.
Người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông Phạm Ngọc G1:
17.1. Bà Trần Thị Bé B1, sinh năm 1964;
17.2. Chị Phạm Thị Mỹ L, sinh năm 1984;
17.3. Anh Phạm Ngọc H2, sinh năm 1987;
3
17.4. Anh Phạm Ngọc Đ, sinh năm 1990;
17.5. Anh Phạm Ngọc T2, sinh năm 1992.
Người đại diện theo ủy quyền của chị Phạm Thị Mỹ L, anh Phạm Ngọc H2,
anh Phạm Ngọc Đ, anh Phạm Ngọc T2: Trần Thị Bé B1, sinh năm 1964.
Cùng địa chỉ: Số A, ấp V, xã V, huyện L, tỉnh Đng Tháp.
* Người kháng cáo: Bà Trịnh Thị N, là nguyên đơn, ông Phạm Văn N3, bà
Phạm Thị N4, bà Phạm Thị I, bà Phạm Thị T, bà Trần Thị Bé B1, là người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
* Quyết định kháng nghị: Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện Lấp
Vò.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
- Theo đơn khởi kiện có người đại diện theo ủy quyền là anh Trần Hà Xuân
P trình bày: Vào ngày 20/11/2006 N3 Huỳnh Thị B lập hợp đng viết
tay sang nhượng cho B 2.525m
2
đất tại ấp V, V giá 200.000.000 đồng, khi
lập hợp đồng ông Trần Văn N1 chồng B bảo ghi 100.000.000 đồng để tránh
việc nộp thuế cao. N1 đồng ý, sau đó không ngờ vợ chồng B tráo trở, không
thực hiện đúng theo thỏa thuận về thời gian hai bên cam kết trong hợp đồng
trong vòng 06 tháng kể từ ngày lập hợp đồng phải thực hiện xong việc giao mặt
bằng và giao tiền, nhưng phíaB không thực hiện đúng như giao kèo. Bản hợp
đồng viết tay chỉ có 01 bản, N1 giữ bản photo, còn ông Trần Văn N1 chồng bà
B giữ bản chính. Bà N1 đã giao đất vào tháng 5 năm 2007, dỡ đi 02 căn nhà của
N1 và con gái của bà N1 tên H3. Bà B chỉ giao tiền cọc cho bà N1 58.000.000
đồng không đưa tiền thêm, lừa dối bà N1, mượn giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất rồi lấy luôn để sang tên cho B. Ngày 28/12/2007 N1 quay trở lại phần
đất cất nhà.
Nay bà N1 yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất với bà
B, yêu cầu bà B trả đất lại cho N1, bà N1 sẽ trả lại tiền đã nhận cho bà B, đồng
ý trả giá trị cây trồng có trên đất và tiền san lắp 1000m
3
cát theo giá thị trường.
Trường hợp Tòa án công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
giữa bà N1bà B thì yêu cầu bà B chừa lối đi vào mộ chiều ngang là 3m, chiều
dài từ Quốc lộ H vào đến phần mộ diện tích 249,7m
2
chừa phần mộ diện
tích là 96m
2
, theo sơ đồ đo đạc ngày 15/11/2021 của Chi nhánh Văn phòng đăng
ký đất đai huyện L.
Đối với phần cây sao xung quanh phần mộ bà N1 xác định là do ông G1
trồng, tại phiên tòa bà Bé B1 yêu cầu được đốn các cây sao này và bên bà B
cũng đồng ý, nên N1 thống nhất để bà B Ba được sử dụng, không có tranh
chấp phần cây sao.
- Bị đơn bà Huỳnh Thị B có người đại diện theo ủy quyền là ông Trần Văn
N1 trình bày:
Vào ngày 20/11/2006 bà B có làm hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất với bà Trịnh Thị N, phạm vi đất bà N chuyển nhượng cho bà B là toàn bộ đất
N đang sử dụng gồm đất vườn và đất từ llộ 80 đến sông N, giá
4
100.000.000 đồng, nhưng đất ghi trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
2.525m
2
, còn đất cặp ơng lộ chưa giấy N giao luôn cho bên B đăng
ký. Hiện trạng đất lúc chuyển nhượng có 04 căn nhà, N chịu trách nhiệm di dời
căn nhà của bà hai con, còn nhà của bà I không đề cập. N đồng ý cho bên
B gilại 50% tiền chuyển nhượng để làm tin, trong vòng 06 tháng di dời 03
căn nhà xong thì trả đủ. Ngày 29/12/2006 bên bà B và hộ N đến Ủy ban nhân
dân xã V làm giấy chuyển nhượng và hai bên đã cắm trụ đá ranh và giao đất. Đến
ngày 08/01/2007 bà B đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thửa 271b,
tờ bản đồ số 9a, diện tích 1.910m
2
đất trồng cây lâu năm, thửa 271a, tờ bản đồ số
9a, diện tích 615m
2
(trong đó 400m
2
đất ONT 215m
2
đất trồng cây lâu năm).
Tháng 5 năm 2007 N con là chị H3 dỡ nhà, đốn cây giao đất cho B,
B đã bơm 1.000m
3
cát san lấp để chuẩn bxây dựng, còn nhà chị O con N
thì hứa đang tìm đất để dời. Sau đó N nhận thêm tiền của bà B để mua
đất cất nhà cho chị O, tổng số tiền N đã nhận 63.500.000 đồng. Đến ngày
28/12/2007 N trở lại cất nhà chiếm đất của B, Ủy ban nhân dân V
Quyết định xử phạt bà N.
Việc N cho rằng chuyển nhượng đất cho bà B với giá 200.000.000 đồng
không căn cứ chứng minh. B không đồng ý hủy hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất.
Bà B đồng ý trả choN 36.500.000 đồng, số tiền này B đã nộp cho Chi
cục thi hành án dân sự huyện Lấp theo biên lai tạm thu số 000466 ngày
03/8/2010.
Đối với phần đất B tự nguyện giao cho bà I sử dụng diện tích 50m
2
và li
đi chiều ngang 1,3m. Sau khi Bản án phúc thẩm của Tòa án tỉnh Đồng Tháp
hiệu lực pháp luật, do bà I không có nhu cầu sử dụng đất nên ngày 05/3/2012
I thỏa thuận với B giao lại diện tích đất 50m
2
lối đi chiều ngang 1,3m
cho B sử dụng B đã trả cho I số tiền 55.000.000 đồng, I đã nhận
tiền xong. Việc thỏa thuận giữa bà B I làm văn bản xác nhận của chính
quyền địa phương vào ngày 05/3/2012.
Đối với ncủa chị O, khi Bản án phúc thẩm hiệu lực pháp luật thì ông
N có thỏa thuận hỗ trợ tiền di dời cho chị O số tiền 20.000.000 đồng.
Tại phiên tòa người đại diện cho bà B đồng ý giao lại 20 cây sao (11 cây lớn
09 cây nhỏ) xung quanh phần mộ, theo biên bản xem xét thẩm định tại chỗ
ngày 11/3/2021 cho B Ba đốn sử dụng. Đồng ý chừa lối đi vào khu mộ chiều
ngang 1m, chiều dài từ Quốc lộ H đến khu mộ có diện tích là 82,1m
2
và chừa khu
mộ có diện tích 50,9m
2
cho nguyên đơn sử dụng. B tự nguyện di dời các cây
trồng có trên phần đất lối đi để giao lối đi cho bà N sử dụng. B không yêu cầu
bà N trả giá trị lối đi.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chị Phạm Thị Kim O1 trình bày:
Bà N mẹ của chị, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà N
và bà B thì chị không biết và cũng không có ký tên vào hợp đồng. Vào năm 2001
bà N và cô, chú có cho chị một nền nhà ngang 6m x dài 22m và chị đã cất nhà ở,
khi cho đất không làm giấy tờ nhưng N nói cho luôn. Nay chị yêu cầu
được tiếp tục sử dụng phần đất này.
5
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chị Phạm Thị Kim O1 và chồng là
anh Bùi Quang T1 trình bày:
Lúc trước N cho vợ chồng chị trên phần đất tranh chấp. Sau đó, ông
Trần Văn N1 (chồng bà B) thỏa thuận với chị O1 đồng ý hỗ trợ 20.000.000 đồng
thì chị O1 dời nhà ra khỏi phần đất tranh chấp, ông Trần Văn N1 đã giao tiền cho
chị O1 tại Ủy ban nhân dân V. Nay chị O1 anh T1 đã chỗ ổn định
không còn liên quan gì trong vụ kiện giữa bà N1 và bà B, chị O1 yêu cầu Tòa án
không đưa chị vào vụ kiện tranh chấp giữa bà N1bà B với tư cách là người
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Phạm Thị I người đại diện
theo ủy quyền là bà Trần Thị Bé B1 trình bày:
được mẹ ruột là Huỳnh Thị N9 mẹ chồng của bà Trịnh Thị N cho
một phần đất để cất nhà ở từ năm 1996, diện tích 200m
2
, ngang 6,5m x dài 7,5m
và trồng một số cây xung quanh nhà. Từ khi được cho đến nay chưa làm giấy tờ
cả. Huỳnh Thị N9 chết khoảng năm 1997. Nay yêu cầu hủy hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa N9 với B, yêu cầu tiếp tục trên
đất không đồng ý di dời nhà đi nơi khác.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Phạm Thị I trình bày: Vào năm
2010 để thi hành Bản án phúc thẩm số 144/2010/DS-PT ngày 25/5/2010 của Tòa
án nhân dân tỉnh Đồng Tháp, với cách người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
I phải di dời nhà về vị trí 50m
2
B tự nguyện cho, nhưng di dời về vị t
mới không có lối đi ra ngoài nên bà I không thể xây dựng nhà được. Do đó, bà có
nhận của bà B 55.000.000 đồng để giao lại phần đất trên cho bà B.
Nay Bản án phúc thẩm đã bị hủy, yêu cầu hủy thỏa thuận giữa bà
B, đồng ý trả lại cho B 55.000.000 đồng lãi suất theo quy định của pháp
luật, bà I yêu cầu được nhận lại 50m
2
đất do bà B giao trước đây.
- Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Phạm Văn C1 trình bày:
N9 mruột của anh, khi N9 bán đất cho B bàn bạc trong gia đình tất
cả các con đều biết, đất chuyển nhượng giá 100.000.000 đồng, anh có nói với bà
N9 phải mua một nền khác để cất lại ncho bà thờ cúng cha. Bà N9 đồng ý
và bảo anh mua đất ca cậu Út K, N9 bảo bà B bảo lãnh trả tiền cho ông K,
N9 cũng đồng ý cho anh lấy thêm của B 5.500.000 đồng để mua vật liệu xây
nền nhà và khung nhà, khi làm được nữa chừng thì bà N9 đổi ý nên còn bỏ dở
dang tại đất cậu Ú. Đất bán cho bà B từ lề Quốc lộ H thẳng xuống đến bờ sông,
giấy tờ cũng đã ký xong và đã sang tên giao đất cho B. Số tiền 5.500.000 đồng
anh C1 đã nhận choN9 thì bà N9 phải chịu.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan gồm ông Phạm Văn N3, Phạm
Thị N4, Phạm Thị T và ông Phạm Ngọc G1 người đại diện theo y quyền
Trần Thị B1, đồng thời cũng người kế thừa quyền nghĩa vụ tố tụng
của ông Phạm Văn G2 trình bày: Cha của các ông bà là Phạm Văn B2, sinh năm
1918, chết năm 1984, mẹ là Huỳnh Thị N9, chết năm 1997. Lúc còn sống ông B2
Huỳnh Thị N9 tạo lập được phần đất phần đất cây lâu năm tính từ
Quốc lộ H đến sông N, diện tích 3.504m
2
, khi chết ông B2 và bà N9 không để lại
di chúc, trên phần đất con cháu cất nhà ở, trong đó nhà của ông Phạm
Văn D chồng N9. Sau khi ông D chết N9 ngang nhiên lập thủ tục khai
6
quyền sử dụng đất của ông B2 và Huỳnh Thị N9 để lại mà không có sự đồng
ý của các con của ông B2 và bà Huỳnh Thị N9, sau khi bà N9 đứng tên quyền sử
dụng đất thì chuyển nhượng phần đất cho bà B. Nay các ông, bà yêu cầu bà B trả
đất lại cho bà N9 và bà N9 có trách nhiệm trả tiền lại cho bà B.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan gồm ông Phạm Văn N3, Phạm
Thị N4, Phạm Thị T và ông Phạm Ngọc G1 người đại diện theo y quyền
Trần Thị B1, đồng thời cũng người kế thừa quyền nghĩa vụ tố tụng
của ông Phạm Văn G2 trình bày: Tòa án nhân dân huyện Lấp Vò đang thụ lý giải
quyết lại vụ án tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa
N3 B theo Bản án giám đốc thẩm số 286/2013/DS-GĐT ngày 21/6/2013
của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao, trong đó thửa đất 212, diện tích 979m
2
không nằm trong hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa N3
B. Nay các ông, yêu cầu B trả lại phần đất thửa 212, diện tích 979m
2
cho
các ông, yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho B
đối với thửa đất 212.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Trần Thị B1, chị Phạm Thị
Mỹ L, anh Phạm Ngọc H2, anh Phạm Ngọc Đ và anh Phạm Ngọc T2 là người kế
thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông Phạm Văn G2. Chị L, anh H2, anh Đ
anh T2 y quyền cho Trần Thị Bé B1 trình bày: Trên phần đất tranh chấp giữa
N3 và bà B chỗ gần khu mộ ông G2 có trồng 20 cây sao (11 cây lớn và 09 cây
nhỏ) xung quanh phần mộ, theo biên bản xem xét thẩm định tại chỗ ngày
11/3/2021 của Tòa án là đúng. Bản án thẩm Bản án phúc thẩm trước đây
không giải quyết đối với các cây trồng trên đất. Tại phiên tòa bên bà B đồng ý
giao lại tất cả các cây trồng này cho bà B Ba đốn sử dụng, bà Bé B1 đồng ý nhận.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Trương Thị Hồng N5 trình bày:
N5 xác định không sdụng phần đất tranh chấp, không đứng tên giấy chứng
nhận quyền sử dụng phần đất tranh chấp, bà không tranh chấp và cũng không có
liên quan trong vụ kiện này, đề nghị Tòa án xem xét giải quyết theo quy định
của pháp luật và bà xin vắng mặt.
- Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chị Hà Thị Thu N2 anh Trung
C trình bày: Anh, chị là con của bà I do bận đi làm xa không còn ở chung với bà
I, việc tranh chấp của bà I thì anh, chị không ý kiến. Đề nghị Tòa án giải quyết
vụ án theo quy định của pháp luật và xin vắng mặt.
* Ti Quyết định bn án thẩm s 69/2021/DS-ST ngày 23 tháng 11 năm
2021 của Tòa án nhân dân huyện Lấp Vò đã tuyên x:
Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Trịnh Thị N về việc hủy hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất với bà Huỳnh Thị B.
Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Phạm Văn N3, Phạm Thị
N4, Phạm Thị I, Phạm Thị T ông Phạm Ngọc G1 (có người kế thừa quyền
và nghĩa vụ tố tụng là chị Phạm Thị Mỹ L, anh Phạm Ngọc H2, anh Phạm Ngọc
Đ, anh Phạm Ngọc T2 và bà Trần Thị B1) về việc yêu cầu bà Huỳnh Thị B trả
diện tích đất thửa 212 và hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Phạm Thị I về việc yêu cầu hủy
việc thỏa thuận chuyển nhượng với bà Huỳnh Thị B.
7
Đình chỉ xét xử đi với yêu cầu khởi kiện của chị Phạm Thị Kim O1 về việc
yêu cầu được sử dụng diện tích đất ngang 6m x dài 22m.
Huỳnh Thị B được sử dụng diện tích đất theo đo đạc thực tế 3.457,3m
2
cụ thể: Thửa 271a diện tích 615m
2
; thửa 271b diện tích 1.863,3m
2
(thửa 271b tách
thành 02 thửa 911 912) thửa 212 diện tích 979m
2
, cùng tờ bản đồ số 9a.
Hiện do bà Huỳnh Thị B đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Huỳnh Th B được đến Cơ quan có thẩm quyền làm thủ tục đăng ký biến
động đất đai đối với thửa đất s271a, thửa 271b thửa 212 theo quy định của
pháp luật.
N3 được nhận số tiền 36.500.000 đồng (Ba mươi sáu triệu năm trăm nghìn
đồng) do bà B đã nộp theo biên lai tạm thu số 000466 ngày 03/8/2010 tại Chi cục
thi hành án dân sự huyện Lấp Vò.
Công nhận sự thỏa thuận ngày 05/3/2012 giữa Phạm Thị I Huỳnh
Thị B về việc I giao lại diện tích đất 50m
2
lối đi chiều ngang 1,3m thuộc
tách thửa 912 cho B sdụng, B đã trả cho I số tiền 55.000.000 đồng
(Năm mươi lăm triệu đồng) xong.
Công nhận sự thỏa thuận giữa bà Huỳnh Thị B và Trần Th B1 vviệc
B giao 11 cây sao lớn 09 cây sao nhỏ theo biên bản xem xét thẩm định tại
chỗ ngày 11/3/2021 của Tòa án cho bà B Ba đốn sử dụng.
Chấp nhận sự tự nguyện của Huỳnh Thị B dành cho bà Trịnh Thị N một
lối đi vào khu mộ có chiều ngang 1m, chiều dài từ Quốc lộ H đến khu mộ có diện
tích 82,1m
2
chừa khu mộ diện tích 50,9m
2
, thuộc một phần thửa 271b
(tách thành hai thửa 911 và 912).
Chấp nhận sự tự nguyện của Huỳnh Thị B di dời các cây trồng trên
phần đất lối đi để giao lối đi cho bà Trịnh Thị N sử dụng.
(Kèm theo biên bản xem xét thẩm định tại chỗ ngày 11/3/2021 ngày
06/9/2017 của Tòa án đồ đo đạc ngày 15/11/2021 của Chi nhánh Văn phòng
Đ1 Vò).
Tiền án phí dân sự sơ thẩm:
Miễn tiền án phí cho bà Trịnh Thị N, ông Phạm Văn N3, bà Phạm Thị N4.
Trịnh Thị N được nhận lại tiền tạm ứng án phí đã nộp 5.000.000 đồng
(Năm triệu đồng) theo biên lai thu số 004674 ngày 11/4/2008 50.000 đồng
(Năm mươi nghìn đồng) theo biên lai thu số 005574 ngày 10/02/2010 của Chi cục
thi hành án dân sự huyện Lấp Vò.
Phạm Thị I, Phạm Thị T ông Phạm Ngọc G1 (có người kế thừa
quyền và nghĩa vụ tố tụng là chị Phạm Thị Mỹ L, anh Phạm Ngọc H2, anh Phạm
Ngọc Đ, anh Phạm Ngọc T2 Trần Thị B1) phải chịu 4.895.000 đồng
(Bốn triệu tám trăm chín mươi lăm nghìn đồng), được khấu trừ vào tiền tạm ứng
án pđã nộp 2.447.000 đồng (Hai triệu bốn trăm bốn mươi bảy nghìn đồng)
theo biên lai thu số BG/2015/0001613 ngày 07/6/2018. Bà Phạm Thị I, bà Phạm
Thị T ông Phạm Ngọc G1 (có người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng là chị
Phạm Thị Mỹ L, anh Phạm Ngọc H2, anh Phạm Ngọc Đ, anh Phạm Ngọc T2
Trần Thị B1) còn phải nộp thêm 2.448.000 đồng (Hai triệu bốn trăm bốn
mươi tám nghìn đồng).
8
Phạm Thị I phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng), được trừ vào
tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu
số BG/2015/0001614 ngày 07/6/2018. Bà I được nhận lại tiền tạm ứng án phí đã
nộp 487.500 đồng (Bốn trăm m mươi bảy nghìn năm trăm đồng) theo biên lai
số 005144 ngày 03/4/2009 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Lấp Vò.
Chị Phạm Thị Kim O1 được nhận lại tiền tạm ứng án phí đã nộp 429.000
đồng (Bốn trăm hai mươi chín nghìn đồng) theo biên lai 005471 ngày 13/10/2009
tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Lấp Vò.
Tiền chi p xem xét thẩm định tại chỗ định giá: Trịnh Thị N chịu
4.686.000 đồng (Bốn triệu sáu trăm tám mươi sáu nghìn đồng) (Đã thu chi
xong).
Ngoài ra, bản án còn tuyên về quyền kháng cáo.
Sau khi xét x thẩm ngày 01 tháng 12 năm 2021, Trịnh Thị N (
nguyên đơn); ông Phạm Văn N3, Phạm Thị N4, Phạm Thị I, Phạm Thị T
(là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan); bà Trần Thị Bé B1 (là người kế thừa
quyền nghĩa vụ tố tụng của ông G1) kháng cáo toàn bộ bản án thẩm số
69/2021/DS-ST ngày 23 tháng 11 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện Lấp Vò
ngày 07/12/2021, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện Lấp ban hành
Quyết định kháng nghị số 01/QĐKNPT-VKS-DS, sửa một phần bản án thẩm
số 69/2021/DS-ST ngày 23 tháng 11 năm 2021 ca Tòa án nhân dân huyện Lấp
Vò.
Tại Bản án dân sự phúc thẩm số 162/2023/DS-PT ngày 12/4/2023 của Tòa
án nhân dân tỉnh Đồng Tháp, tuyên xử chấp nhận một phần kháng cáo của
Trịnh Thị N10; chấp nhận một phần kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân huyện Lấp Vò; không chấp nhận kháng cáo của ông Phạm Văn N3,
Phạm Thị N4, Phạm Thị I, Phạm Thị T (là người có quyền lợi nghĩa vụ liên
quan); Trần Thị B1 (người kế thừa quyền nghĩa vụ tố tụng của ông
G1) và không chấp nhận kháng cáo của bà Phạm Thị I. Sửa một phần bản án dân
sự sơ thm s: 69/2021/DS-ST ngày 23 tháng 11 năm 2021 của Tòa án nhân dân
huyện Lấp Vò.
Tại Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 83/QĐ-VKS-DS ngày 14/3
2024, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh
kháng nghị đối với Bản án dân sự phúc thẩm số 162/2023/DS-PT ngày 12/4/2023
của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp, đề nghị hủy một phần bản án dân sự phúc
thẩm s 162/2023/DS-PT ngày 12/4/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp
về việc xét xử tranh chấp giữa các đương sự đối với thửa đất số 212 để xét xử lại
theo thủ tục phúc thẩm.
Tại Quyết định giám đốc thẩm số 114/2024/DS-PT ngày 08/5/2024 của Tòa
án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh, quyết định: Chấp nhận Quyết
định kháng nghị số 83/QĐ-VKS-DS ngày 14/3 2024 của Viện trưởng Viện kiểm
sát nhân dân cấp cao tại Thành ph Hồ Chí Minh. Hủy mt phần bản án dân sự
phúc thẩm số 162/2023/DS-PT ngày 12/4/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng
Tháp giữa nguyên đơn bà Trnh Thị N với bị đơn Huỳnh Thị B những người
quyền lợi nghĩa vụ liên quan khác, đối với phần đất tranh chấp thửa 212.
9
Giao h sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh Đng Tháp xét xphúc thẩm lại phần
bị hủy theo quy định của pháp luật.
Ngày 19/6/2024, Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp thụ lý một phần vụ án
theo thủ tục xét xử phúc thẩm đối với phần đất tranh chấp là thửa 212.
Tại phiên tòa phúc thẩm bà Trịnh Thị N (nguyên đơn); ông Phạm Văn N3,
Phạm Thị N4, Phạm Thị I, Phạm Thị T (là người có quyền lợi nghĩa vụ
liên quan); Trần Thị B1 (người kế thừa quyền và nghĩa vtố tụng của
ông G1) vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo đối với phần đất tranh chấp thửa
212.
Tại phiên tòa phúc thẩm đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Tháp
thay đổi nội dung Quyết định kháng nghị số 01/QĐKNPT-VKS-DS, theo hướng
đề nghị hủy một phần bản án thẩm số 69/2021/DS-ST ngày 23 tháng 11 năm
2021 của Tòa án nhân dân huyện Lấp Vò, phần đất tranh chấp là thửa 212.
Đại diện Vin kim sát nhân dân tỉnh Đồng Tháp phát biu ý kiến:
Về tố tụng: Thm phán, Hội đồng xét x và các đương sự trong quá trình
gii quyết v án đảm bảo chấp hành đúng quy định ca pháp lut.
Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoảng 3 Điều 308 của Bộ
luật tố tụng dân sự, hủy bản án thẩm, do tại phiên tòa phúc thẩm có phát sinh
tình tiết mới Huỳnh Thị B, ông Trần Văn N1 đã thực hiện chuyển nhượng
quyền sử dụng đất thửa 212 cho ông Trần Ngọc T3ông T3 cũng đã được cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thửa 211 (thửa cũ là 212) mà cấp phúc thẩm
không giải quyết, bổ sung được tại phiên tòa.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cu các tài liu, chng c có trong h sơ, được kim tra ti
phiên tòa, căn cứ vào kết qu tranh lun ti phiên tòa, li phát biu ca kim sát
viên, Hội đồng xét x nhn định:
[1] Về thủ tục tố tụng:
- Tại bản án phúc thẩm số 162/2023/DS-PT ngày 12/4/2023 của Tòa án nhân
dân tỉnh Đồng Tháp, tuyên xử: chấp nhận một phần kháng o của Trịnh Thị
N10; chấp nhận mt phần kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân
huyện Lấp Vò; không chấp nhận kháng cáo của ông Phạm Văn N3, bà Phạm Thị
N4, bà Phạm Thị I, bà Phạm Thị T (là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan); bà
Trần Thị B1 (người kế thừa quyền nghĩa vụ tố tụng của ông G1) không
chấp nhận kháng cáo của bà Phạm Thị I.
Sửa một phần bản án dân sự thẩm s: 69/2021/DS-ST ngày 23 tháng 11
năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện Lấp Vò, theo ớng chấp nhận một phần
yêu cầu khởi kiện của bà Trịnh Thị N.
“…Bà Huỳnh Thị B được sử dụng diện tích đất:…thửa 212 diện tích 946,5m
2
…”.
Tuy nhiên, tại Quyết định giám đốc thẩm số 114/2024/DS-PT ngày
08/5/2024 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh, quyết định:
Hủy một phần bản án dân sự phúc thẩm số 162/2023/DS-PT ngày 12/4/2023 của
10
Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp, đối với phần đất tranh chấp thửa 212 với nhận
định:
“1.Nguồn gốc phần đất tranh, chấp thửa số 212, kể cả các thưa 27la, 27lb
là của cụ Phạm Văn B2 (chết năm 1984) và cụ Huỳnh Thị N9 (chết năm 1997) để
lại, các con của c B2, cụ N9 sử dụng, cụ thể là hộ ông Phạm Ngọc G1, bà Trn
Thị B1 trồng đậu, lúa. Ngày 28/11/1995, Trịnh Thị N khai đăng
(nhưng chưa được sự đồng ý của cụ Huỳnh Thị N9, ông Phạm Văn N3, bà Phm
Thị N4, Phạm Thị T, ông Phạm Ngọc G1) nhưng đến ngày 14/02/1996, N3
được Ủy ban nhân dân huyện L cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là không
phù hợp. Quá trình giải quyết tranh chấp, sở xác định N3 đã chuyển
nhượng cho bà B các thửa 27la 271b, nên Tòa án cấp phúc thẩm công nhận
cho B quyền sử dụng đất đối với hai thửa 27la 27lb với tổng diện tích
2.525m
2
là có căn cứ.
2. Đối với thửa đất số 212, diện ch 979m
2
, qua kiểm tra đo đạc đối chiếu
trên thực tế nằm ngoài các thửa 271a 271b N3 chuyển nhượng cho B
theo Hợp đồng viết tay ngày 20/11/2006, cũng không phù hợp vớí đồ vẽ tay
ghi phía sau hợp đồng nêu trên.
2.1. Mặt khác, quá trình giải quyết vụ án cả nguyên đơn bị đơn đều không
cung cấp được bản chính của họp đồng viết tay ngày 20/11/2006. Còn bản photo
hợp đồng viết tay ngày 20/11/2006 trong hồ vụ án cũng không được Tòa án
đối chiếu với bản chính. Sau khi thỏa thuận đến ngày 29/12/2006, B
Trịnh Thị N đến Ủy ban nhân dân V làm họp đồng chuyển nhượng theo quy
định thì cũng chỉ chuyển nhượng diện tích 2.525m
2
thửa đất số 271a, 271b (trong
đó 2.125m
2
đất CLN và 200m
2
đất ONT). Ngày 08/01/2007, bà B được cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất cũng chỉ diện tích 2.525m
2
thửa đất số 27la,
27lb.
2.2. Đối với Tờ cam kết ngày 07/4/2007, được lập sau khi B được cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đẩt thửa đất số 27la, 27lb cũng không nội
dung bà N chuyển nhượng thửa số 212 cho B.
2.3. Như vậy, với những tình tiết đã phân tích chưa đủ căn cứ xác định bà N
chuyển nhượng thửa đất s212 cho B. Tòa án cấp phúc thẩm quyết định
cho B được sử dụng thửa đất số 212 không căn cứ pháp luật”. Sau khi
Tòa án cấp phúc thẩm thụ xét xử lại vụ án thì phát sinh tình tiết mới ngày
29/5/2024 bà Huỳnh Thị B, ông Trần Văn N1 đã hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất thửa 212 (thửa mới là 211) cho ông Trần Ngọc T3 và ông Trần
Ngọc T3 cũng đã được đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thửa 211
(thửa 212), diện tích được cấp diện tích 946,5m
2
và hiện nay ông Trần
Ngọc T3 là người đang trực tiếp quản lý sử dụng thửa đất số 211 (thửa cũ là 212)
này.
[2] Theo Công văn số 117/CV-CCTHADS ngày 30/8/2024 của Chi cục Thi
hành án dân sự huyện Lấp Vò, phúc đáp như sau: Theo Quyết định thi hành án
số 373/QĐ-CCTHADS ngày 11/8/2023 Quyết định thi hành án số 1352/QĐ-
CCTHADS ngày 03/8/2023của Chi cục Thi hành ánn sự huyện Lấp” thì đã
thi hành bản án dân sự phúc thẩm số 162/2023/DS-PT ngày 12/4/2023 của Tòa án
nhân dân tỉnh Đồng Tháp trong đó thửa 212 và theo Công văn số
11
4523/CNVPĐKĐ ĐHLV-ĐKCG ngày 27/8/2024 của Chi nhánh Văn phòng Đăng
đất đai huyện L, xác định: “Bản án số 162/2023/DS-PT ngày 12/4/2023 của
Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp hiệu lực pháp luật đã được Chi cục Thi hành
án dân shuyện Lấp tổ chức thi hành theo Quyết định số 1352/QĐ-CCTHADS
ngày 03/8/2023 và được Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai huyện L cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà tài sản khác gắn liền với
đất số vào s GCN: CN15043, s giấy DN 771409, diện tích 946,5m
2
, thửa đất số
211, tờ bản đồ số 95, mục đích sử dụng đất trồng cây lâu năm cho bà Huỳnh Thị
B ngày 25/12/2023.
Hiện nay, Huỳnh Thị B đã biến động chuyển nhượng quyền sử dụng đất
nêu trên cho ông Trần Ngọc T3 được Chi nhánh Văn phòng Đăng đất đai
huyện L, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản
khác gắn liền với đất số giấy DP 048753, số vào sổ GCN: CN15480, diện tích
946,5m
2
, thửa đất số 211, tờ bản đồ số 95, mục đích sử dụng đất trồng cây lâu
năm ...”. Do đó, sau khi bà Huỳnh Thị B được cấp lại Giấy CN.QSDĐ thửa 211
thì vào ngày 29/5/2024 bà Huỳnh Thị B, ông Trần Văn N1 hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất thửa 211 cho ông Trần Ngọc T3 đã làm phát sinh quyền
lợi ích hợp pháp của ông Trần Ngọc T3. Do đó, cần thiết phải đưa ông Trần
Ngọc T3 o tham gia với tư cách là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trong
vụ thì mới giải quyết được toàn diện vụ án, đảm bảm quyền lợi ích hợp pháp
của các bên đương sự, việc hủy án là do khách quan.
[3] Mặt khác, theo quyết định số 83/QĐ-VKS-DS ngày 14/3/2024 của Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ CMinh, quyết định:
“...3. Tạm đình chỉ việc thi hành Quyết định của Bản án s162/2023/DS-PT ngày
12/4/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp đối với thửa đất số 212 cho đến
khi quyết định giám đốc thẩm....”. Tuy nhiên, vào ngày 29/5/2024 Huỳnh
Thị B với ông Trần Ngọc T3 thỏa thuận kết hợp đồng chuyển nhượng quyền
sử dụng đất thửa 211 nên cần thiết làm việc kết hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất thửa 211 giữa B với ông T3 đảm bảo ngay tình, đúng
quy định và thuộc trường hợp người thứ ba ngay tình trong vụ án này hay không.
Do đó cần hủy một phần bản án sơ thẩmối với phần xét xử lại thửa 212) để tr
hồ sơ về Tòa án cấp thẩm để làm rõ các nội dung trên nhằm giải quyết lại toàn
diện vụ án.
Do hủy mt phần bản án sơ thẩm (đối với phần xét xử lại thửa 212) nên Tòa
án cấp phúc thẩm không xem xét giải quyết kháng cáo của các đương sự (đối với
phần xét xử lại thửa 212).
[4] Xét kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện Lấp
là có căn cứ nên chấp nhận.
[5] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Tháp là phù
họp nên chấp nhận.
Do hủy một phần bn án sơ thẩm (đối với phần xét xlại thửa 212) nên
Trịnh Thị N, ông Phạm Văn N3, Phạm Thị N4, bà Phạm Thị I, bà Phạm Thị T
chị Trần Thị B3 Ba không phi chu án phí dân s phúc thẩm (đối với phần xét
xử lại thửa 212) theo quy định ti Khoản 3 Điều 148 B lut T tng dân s.
Vì các lẽ trên;
12
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào khoản 3 Điều 148 và khoản 3 Điều 308 ca B lut t tng dân
s;
Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban
thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản sử
dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Hủy một phần bản án dân sự thẩm số 69/2021/DS-ST ngày 23 tháng 11
năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp (đối với phần xét
xử lại thửa 212).
2. Chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân huyện Lấp Võ giải quyết lại vụ
án theo thủ tc sơ thẩm (đối với phần xét xử lại thửa 212).
3. Về án phí phúc thẩm:
Trịnh Thị N, ông Phạm n N3, Phạm Thị N4 không phải chịu án phí
dân sphúc thẩm. Do thuộc trường hợp người cao tuối nên được miễn án phí dân
sự phúc thẩm.
Phạm Thị T không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm. Hoàn trả lại cho
Phạm Thị T tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng theo biên lai s0002446 ngày
16/12/2021 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp.
Phạm Thị I không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm. Hoàn trả lại cho
Phạm Thị I tiền tạm ứng án phí 600.000 đồng theo biên lai số 0002448 ngày
16/12/2021 và biên lai số 0002447 ngày 16/12/2021 của Chi cục thi hành án dân
sự huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp.
Trần Th B3 Ba không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm. Hoàn trả lại
cho Trần Thị B1 tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng theo biên lai số 0002445,
ngày 16/12/2021 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp.
4. Án phí dân sự sơ thẩm và các chi phí khác tố tụng khác, đối với phần xét
xử lại thửa 212 (nếu có) sẽ được xác định lại khi vụ án được tiếp tục giải quyết.
Bn án phúc thm có hiu lc pháp lut k t ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- Phòng KTNV THA Tòa án Tnh,
- VKSND Tnh;
- Tòa án ND huyện Lấp Vò;
- Chi cục THADS huyện Lấp Vò;
- Đương sự;
- Lưu: VT, HSVA, TDS.
TM.HỘI ĐỒNG XT X PHC THM
THM PHÁN CH TA PHIÊN TÒA
Trần Trung Thành
Tải về
Bản án số 575/2024/DS-PT Bản án số 575/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 575/2024/DS-PT Bản án số 575/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất