Bản án số 57/2025/DS-PT ngày 27/03/2025 của TAND tỉnh Thái Nguyên về tranh chấp quyền sử dụng đất
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 57/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 57/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 57/2025/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 57/2025/DS-PT ngày 27/03/2025 của TAND tỉnh Thái Nguyên về tranh chấp quyền sử dụng đất |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp quyền sử dụng đất |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Thái Nguyên |
Số hiệu: | 57/2025/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 27/03/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số 109/2024/DS-ST ngày 27 tháng 9 năm 2024 của Toà án nhân dân thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TỈNH THÁI NGUYÊN Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số 57/2025/DS - PT
Ngày 27/3/2025
V/v tranh chấp quyền sử dụng đất.
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH THÁI NGUYÊN
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: Ông Nguyễn Văn Quế.
Các Thẩm phán: Ông Hoàng Văn Giang và bà Lê Thị Hồng Phương.
- Thư ký phiên toà: Nguyễn Thị Ánh Nguyệt - Thư ký Toà án nhân dân
tỉnh Thái Nguyên.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Nguyên tham gia phiên tòa:
Bà Đỗ Thị Thu Thuỷ - Kiểm sát viên.
Ngày 20 và ngày 27 tháng 3 năm 2025 tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Thái
Nguyên mở phiên tòa xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số:
220/2024/TLPT- DS ngày 12 tháng 11 năm 2024 về tranh chấp quyền sử dụng đất.
Do bản án dân sự sơ thẩm số 109/2024/DS-ST ngày 27 tháng 9 năm 2024
của Toà án nhân dân thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên bị kháng cáo.
Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 18/QĐPT- DS ngày 03
tháng 02 năm 2025 giữa các đương sự:
1. Đồng nguyên đơn: Ông Nguyễn Hữu B, sinh năm 1964; bà Đỗ Thị N, sinh
năm 1966 (vợ ông B);
Địa chỉ: Xóm Đ, xã T, thành phố T, tỉnh Thái Nguyên (có mặt ông B, vắng
mặt bà N).
Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Ông Lê Đăng K, sinh năm 1982;
Địa chỉ: Tổ E, phường D, quần C, thành phố Hà Nội (Văn bản ủy quyền số
4329 ngày 20/12/2023, ông K có mặt khi xét xử, vắng mặt khi tuyên án).
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho ông Nguyễn Hữu B: Ông Lê
Nguyên G, sinh năm 1985, thuộc Văn phòng L3, Đoàn Luật sư thành phố H;
Địa chỉ: Số C, ngõ C, đường C, phường C, quận B, thành phố Hà Nội (có
mặt khi xét xử, vắng mặt khi tuyên án).
2. Đồng bị đơn:
2.1. Ông Nguyễn Hữu T, sinh năm 1949;
Địa chỉ: Xóm Đ, xã T, thành phố T, tỉnh Thái Nguyên (có đơn xin xét xử
vắng mặt).
2.2. Anh Nguyễn Hữu V, sinh năm 1975 (con ông T);
Địa chỉ: Xóm Đ, xã T, thành phố T, tỉnh Thái Nguyên (có mặt khi xét xử,
vắng mặt khi tuyên án).
2.3. Anh Nguyễn Văn H, sinh năm 1977 (con ông T);
Địa chỉ: Số nhà D, tổ D phường T, thành phố T, tỉnh Thái Nguyên (có mặt
khi xét xử, vắng mặt khi tuyên án).
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho anh Nguyễn Văn H, anh Nguyễn
Hữu V: Bà Thiệu Thị Thanh H1, Luật sư thuộc Văn phòng L4, Đoàn Luật sư tỉnh T;
Địa chỉ: Tổ A, phường P, thành phố T, tỉnh Thái Nguyên (có mặt).
3. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
3.1. Chị Nguyễn Thùy T1, sinh năm 1982 (vợ anh H)
Địa chỉ: Số nhà D, tổ D phường T, thành phố T, tỉnh Thái Nguyên (có đơn
xin xét xử vắng mặt).
3.2. Chị Nguyễn Thị A, sinh năm 1977 (vợ anh V);
Địa chỉ: Xóm Đ, xã T, thành phố T, tỉnh Thái Nguyên (có đơn xin xét xử
vắng mặt).
3.3. Anh Nguyễn Khắc Đ, sinh năm 189;
Địa chỉ: Xóm Đ, xã T, thành phố T, tỉnh Thái Nguyên (Vắng mặt).
3.4. Ủy ban nhân dân xã T, thành phố T;
Người đại diện theo pháp luật: Ông Lê Thanh L, Chủ tịch UBND xã T, thành
phố T (có đơn xin xét xử vắng mặt).
3.5. Ủy ban nhân dân thành phố T;
Người đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn L1, Chủ tịch UBND thành phố T;
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Đặng Quang N1, Phó Trưởng phòng phụ
trách Phòng Tài nguyên và Môi trường thành phố T;
Địa chỉ: Số A, đường N, phường T, thành phố T (có đơn xin xét xử vắng mặt).
4. Người làm chứng:
4.1. Ông Nguyễn Hữu N2, sinh năm 1957;
Địa chỉ: Tổ H, phường T, thành phố T, tỉnh Thái Nguyên; (có đơn xin xét xử
vắng mặt).
4.2. Bà Nguyễn Thị Q, sinh năm 1961;
Địa chỉ: Xóm H, xã T, huyện P, tỉnh Thái Nguyên (có đơn xin xét xử vắng mặt).
4.3. Bà Nguyễn Thị H2, sinh năm 1967;
Địa chỉ: Xóm T, xã K, huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên (vắng mặt).
4.4. Ông Nguyễn Hữu D, sinh năm 1956;
Địa chỉ: Xóm Đ, xã T, thành phố T, tỉnh Thái Nguyên (vắng mặt).
4.5. Ông Nguyễn Hữu H3, sinh năm 1952;
Địa chỉ: Xóm Đ, xã T, thành phố T, tỉnh Thái Nguyên (vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo bản án sơ thẩm, nguyên đơn ông Nguyễn Hữu B và bà Đỗ Thị N trình
bày: Năm 1992, ông được bố mẹ là cụ Nguyễn Hữu N3 và cụ Dương Thị L2 tặng
cho (không có giấy tờ, chỉ nói bằng miệng) thửa đất số 136 tờ bản đồ số 17 diện
tích 346m
2
, địa chỉ tại xóm Đ, xã T, thành phố T; đã được UBND thành phố T
cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số C1624 ngày 14/12/2000. Tuy nhiên
cấp nhầm từ thửa đất số 136 tờ bản đồ số 17 diện tích 346m
2
sang thửa đất số 136
tờ bản đồ số 12 diện tích 121m
2
. Ông là người quản lý và sử dụng hợp pháp, nộp
thuế đối với phần diện tích nêu trên.
Năm 2002, ông Nguyễn Hữu T là anh trai ông B đặt vấn đề đổi 352m
2
đất
tại thửa số 90 tờ bản đồ số 17 (là phần đất ông được thừa kế từ bố mẹ) để lấy
240m
2
thửa đất số 136 tờ bản đồ số 17 của ông B, đồng thời ông B hứa sẽ chịu
trách nhiệm làm các giấy tờ thủ tục chuyển nhượng. Ngay sau đó ông T đã để cho
các con của ông là Nguyễn Văn H và Nguyễn Hữu V tự ý xây nhà trên đất đó,
không được sự đồng ý của ông và của chính quyền địa phương. Sau đó, nhiều lần
ông đã hỏi ông T về giấy tờ chuyển nhượng, chuyển đổi mục đích sử dụng đất thì
ông T bảo là đang trong giai đoạn làm hồ sơ và chờ.
Đến năm 2020, khi ông T không làm được hồ sơ, ông B có hỏi thì ông T trả
lời không đổi đất nữa. Ông đề nghị ông T trả lại 240m
2
đất thửa số 136 tờ bản đồ
số 17 để gia đình ông tiếp tục canh tác nhưng ông T và các con không trả. Ông
yêu cầu ông Nguyễn Hữu T, Nguyễn Hữu V, Nguyễn Văn H tháo dỡ hết tài sản
trên đất và trả lại cho ông diện tích đất trên.
Các đồng bị đơn trình bày:
- Ông Nguyễn Hữu T trình bày: Nguồn gốc thửa đất số 136 tờ bản đồ số 17
diện tích 346m
2
tại xóm Đ, xã T, thành phố T là của bố mẹ ông là cụ Nguyễn N3
và cụ Dương Thị L2. Khi còn sống, mẹ ông có tặng cho ông một phần thửa đất,
sau đó đến khoảng năm 2000 ông đã tặng cho lại 02 con ông là Nguyễn Văn H
186m
2
và Nguyễn Hữu V là 70m
2
. Năm 2000 anh H đã làm nhà và năm 2003 anh
V đã làm nhà trên thửa đất này. Khi anh H, anh V làm nhà các anh em của ông
không ai có ý kiến gì vì đã thống nhất là của mẹ ông cho ông. Anh H đã được cấp
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, anh V do điều kiện kinh tế chưa làm được
thủ tục nhưng vẫn ở ổn định từ đó đến nay. Ông và ông B không có việc chuyển
nhượng đất cho nhau. Ông không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của ông B.
- Anh Nguyễn Văn H trình bày: Anh được bố mẹ anh là ông T cho (bằng
miệng) diện tích 186m
2
có một phần diện tích thửa 136 tờ bản đồ số 17 và 78m
2
có một phần diện tích thửa số 90 tờ bản đồ số 17 thuộc xóm Đ, xã T, thành phố
T. Năm 2000, anh đã xây nhà và tường rào bao quanh, khi đó ông B và anh em
không có ý kiến gì. Anh đã sống ổn định và nộp thuế hàng năm. Năm 2005, anh
đã làm thủ tục xin được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và năm 2006 đã
được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Anh không nhất trí với yêu cầu
khởi kiện của ông B.
- Anh Nguyễn Hữu V trình bày: Nguồn gốc thửa đất số 136 tờ bản đồ 17
diện tích 346m
2
tại xóm Đ, xã T là của ông bà nội anh khai hoang. Do bố anh là
ông T đông con nên đến năm 1999, 2000 bà nội có chia cho ông T thửa đất trên
để các con làm nhà. Năm 2000, anh H làm nhà và được cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, đến năm 2003 anh làm nhà trên diện tích đất này. Cả hai đều
sử dụng ổn định từ khi làm nhà đến nay không có tranh chấp, việc anh chưa được
cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là do anh chưa đủ điều kiện kinh tế. Anh
không nhất trí với yêu cầu khởi kiện của ông B vì đây là đất của bố đẻ anh cho
anh, anh đã được sử dụng ổn định từ thời điểm tặng cho đến nay.
Người làm chứng ông Nguyễn Hữu H3, ông Nguyễn Hữu D, bà Nguyễn Thị
Q, bà Nguyễn Thị H2 trình bày: Nguồn gốc thửa đất số 136 tờ bản đồ số 17 diện
tích 346m
2
là của bố mẹ các ông bà là cụ Nguyễn Hữu N3 (chết năm 1998) và cụ
Dương Thị L2 (chết năm 2020) khai phá. Quá trình sử dụng ông N3, bà L2 chưa
được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, bố mẹ tặng cho ông D và ông B ½
thửa đất trên nhưng không có giấy tờ, chỉ nói miệng. Sau khi được tặng cho ông
D canh tác được 02 năm để trồng đỗ, trồng sắn. Đến năm 1994 ông D đổi cho ông
B phần được tặng cho lấy đất của ông B và ông D sử dụng đến nay. Khi sử dụng
ông không phải nộp thuế cho nhà nước. Vợ chồng ông B canh tác trên thửa đất để
trồng sắn, đỗ, lạc từ khi được tặng cho và từ khi đổi đất cho ông D đến năm 2000
thì UBND xã cho nhân dân kê khai. Việc ông B kê khai và được cấp Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất, việc ông B đổi đất cho ông T và việc anh H, anh V xây
nhà năm nào thì các ông bà không xác định được.
Những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án trình bày:
- UBND xã T, thành phố T trình bày: Về nguồn gốc sử dụng đất của ông
Nguyễn Hữu B tại một phần thửa đất số 136 tờ bản đồ số 17 là do bố mẹ đẻ (cụ
N3, cụ L2) tặng cho năm 1992. Khi được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
cho ông B chỉ cấp một phần thửa đất, cụ thể là thửa đất số 136 tờ bản đồ số 12
diện tích 121m
2
, đất BHK do tại thời điểm cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất, ông B đã kê khai nhầm tờ bản đồ số 17 thành tờ bản đồ số 12 đối với thửa đất
nêu trên. Khi sử dụng đất, các hộ tự xác định ranh giới, tự xây dựng tường rào và
sử dụng liên tục đến thời điểm trước tháng 4/2021. Trong khoảng thời gian trên,
UBND xã T không nhận được bất kỳ một ý kiến phản ánh gì liên quan đến thửa
đất trên. Đối với ông V, ông H, ông B xây dựng nhà ở, tường rào tại một phần
thửa đất số 136 tờ bản đồ số 17, UBND xã không thấy hồ sơ lưu trữ về việc xây
dựng nêu trên tại kho lưu trữ.
- UBND thành phố T trình bày: Ngày 15/01/2006, ông H và bà T1 có đơn đề
nghị cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tại xã T, thành phố T, nguồn gốc
theo bản tường trình đất của bố mẹ được hợp tác xã giao và cho, đã được UBND
xã T xác nhận tháng 3/2006. Ngày 19/5/2006, hộ gia đình ông H đã được UBND
thành phố T cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất với tổng diện tích 1.312m
2
,
trong đó có thửa đất số 421 tờ bản đồ số 17, diện tích 264m
2
, loại đất HNK (thửa
đất 421 được chỉnh lý 1 phần thửa đất số 90 diện tích 78m
2
; một phần thửa đất số
136 diện tích 186m
2
). Ông B yêu cầu ông V, ông H, ông T trả lại phần diện tích
đang chiếm dụng tại thửa đất số 136 tờ bản đồ số 17, xã T, thành phố T, đề nghị
Toà án căn cứ vào hồ sơ và các quy định của pháp luật giải quyết.
- Sở Tài nguyên và môi trường tỉnh T trình bày: Năm 2006, hộ ông H, bà T1
được UBND thành phố T cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tại 03 thửa đất
trong đó có thửa đất số 421 tờ bản đồ số 17, diện tích 264m
2
đất HNK; năm 2017,
căn cứ hồ sơ đề nghị chuyển mục đích sử dụng đất của ông H, bà T1, UBND thành
phố T đã cho phép ông H, bà T1 được chuyển mục đích 70m
2
sang đất ở nông
thôn tại thửa đất số 421 (diện tích đất ở nông thôn được chỉnh lý thành thửa 520
tờ bản đồ 17) và được Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai thành phố T xác nhận
vào Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (không cấp mới). Năm 2021, hộ ông H,
bà T1 cấp đổi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nêu trên và được Sở Tài nguyên
và Môi trường cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số tại thửa đất số 520 tờ
bản đồ số 17 diện tích 70m
2
đất ở nông thôn và Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất tại thửa đất số 421 tờ bản đồ số 17 diện tích 194m
2
đất trồng cây hàng năm
khác mang tên hộ ông H, bà T1.
Qua khai thác hồ sơ, tài liệu cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của hộ
ông B cho thấy, ngày 14/12/2000, hộ ông B được UBND thành phố T cấp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất 11 thửa đất, trong đó có thửa số 136 tờ bản đồ số
12 với diện tích 121m
2
đất màu không có thửa 136 tờ bản đồ số 17, đồng thời
trong hồ sơ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không thể hiện hình thể, kích
thước, sơ đồ thửa đất. Qua tra cứu trên hệ thống quản lý đất đai (VBDLis), đến
nay, thửa đất số 136 tờ bản đồ số 17 xã T chưa điều chỉnh biến động. Sở T tỉnh
không có cơ sở để khẳng định 02 thửa đất được UBND thành phố T cấp nêu trên
có bị chồng thửa hay không.
Tại Biên bản xem xét thẩm định tại chỗ ngày 27/10/2023 và trích đo hiện
trạng đất thể hiện: Thửa đất số 136 tờ bản đồ 17 có diện tích theo bản đồ địa chính
là 346m
2
; thực tính là 355,6m
2
; Phía Đông giáp đường vào thửa 90; Phía Tây giáp
đường; Phía Bắc giáp nhà máy sát của ông V; Phía Nam giáp nhà ông H. Có 03
hộ gia đình đang sử dụng thửa đất, cụ thể: Trên phần diện tích 176,7m
2
có 01 nhà
cấp 4 xây dựng năm 2000 và công trình trên đất do ông H đang quản lý; trên phần
diện tích 63m
2
có 01 nhà xây 02 tầng xây dựng năm 2003 và công trình trên đất
do ông V đang quản lý; phần diện tích 92,3m
2
ông B đang quản lý sử dụng; còn
lại 23,6m
2
là đường giao thông.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn phát biểu: Ông
Nguyễn Hữu B có quyền sở hữu hợp pháp đối với toàn bộ diện tích đất tại thửa
số 36 tờ bản đồ số 17, căn cứ vào lời khai của người làm chứng là các anh chị của
ông B là ông H3, ông D, ông N2, bà Q, bà H2. Các tài liệu thu thập được thể hiện
thửa đất nêu trên chưa được đăng ký biến động và nguồn gốc thửa đất là do bố
mẹ cho ông B và ông B kê khai nhầm số tờ bản đồ; không có hồ sơ chuyển nhượng,
đổi đất giữa ông B, ông T; không có hồ sơ về việc ông B tách thửa đất trên cho
anh H, anh V. Thửa đất số 90 tờ bản đồ 17 là di sản thừa kế chưa chia nên ông T
không có quyền đổi đất. Có nhiều sai sót trong việc cấp Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất cho ông Nguyễn Hữu H4; việc xây dựng nhà và các công trình trên
thửa đất số 136 tờ bản đồ 17 là trái với quy định của pháp luật, bị đơn phải có
trách nhiệm tháo dỡ. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi
kiện của ông Nguyễn Hữu B, tuyên giao dịch đổi đất giữa ông B và ông T vô hiệu;
buộc bị đơn tháo dỡ di dời toàn bộ tài sản trên thửa đất số 136 và thửa 90 tờ bản
đồ 17 mà bị đơn đã chiếm dụng, trả lại nguyên hiện trạng thửa đất cho ông B;
công nhận quyền sở hữu hợp pháp cho ông B và ghi nhận ông B được quyền làm
hồ sơ xin cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với toàn bộ diện tích đất
tại thửa 136 tờ bản đồ 17 theo xác nhận của Chủ tịch UBND xã T.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn tranh luận: Ông B đã kê
khai và được cấp 121m
2
đất tại thửa 136 tờ bản đồ số 17. Nguyên đơn không cung
cấp được tài liệu chứng cứ, chứng minh có quyền sử dụng toàn bộ 346m
2
tại thửa
đất nêu trên. Ông B vẫn đang sử dụng phần diện tích 121m
2
được cấp và cả ba bị
đơn không sử dụng vào phần diện tích đất 121m
2
của ông B. Do đó, bị đơn không
chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên phát
biểu quan điểm: Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Hữu B.
Với nội dung nêu trên, tại bản án số 109/2024/DS-ST ngày 27 tháng 9 năm
2024 của Toà án nhân dân thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên đã xét xử
và quyết định:
1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Hữu B, bà Đỗ Thị N
về việc yêu cầu ông Nguyễn Hữu T, Nguyễn Văn H, Nguyễn Hữu V trả lại quyền
sử dụng đất 240m
2
tại thửa đất số 136 tờ bản đồ số 17 tại xã T, thành phố T, tỉnh
Thái Nguyên và yêu cầu tháo dỡ toàn bộ tài sản trên đất.
2. Chi phí tố tụng khác: Ông B phải chịu toàn bộ chi phí xem xét thẩm định
tại chỗ, đo đạc và định giá là 8.500.000đ (tám triệu, năm trăm nghìn đồng). Ông
B đã nộp đủ.
Ngoài ra bản án sơ thẩm còn tuyên chi phí tố tụng và quyền kháng cáo cho
các đương sự theo quy định của pháp luật.
Ngày 01/10/2024, ông Nguyễn Hữu B kháng cáo toàn bộ bản án. Yêu cầu
ông T, anh H, anh V phải dỡ bỏ tài sản trên đất để trả lại cho ông diện tích đã
chiếm dụng của ông.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh phát biểu về việc tuân theo pháp luật
của Thẩm phán, chủ toạ phiên toà và Hội đồng xét xử từ khi thu lý vụ án cho đến
trước khi nghị án đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật. Quan điểm giải
quyết vụ án của đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử bác kháng cáo
của ông Nguyễn Hữu B, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và nghe lời trình bày của các
đương sự; Ý kiến của các Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho các đương
sự; Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Nguyên, Hội đồng xét
xử nhận xét:
[1]. Về nguồn gốc thửa đất số 136, diện tích 346m
2
thuộc tờ bản đồ số 17 tại
xã T, thành phố T, tỉnh Thái Nguyên cả nguyên đơn và bị đơn đều thừa nhận của
cụ Nguyễn Hữu N3 và cụ Dương Thị L2 là bố mẹ đẻ của ông Nguyễn Hữu B và
ông Nguyễn Hữu T khai phá chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Ông B và ông T đều khai được hai cụ cho mình thửa đất này, tuy nhiên đều cho
bằng miệng không có giấy tờ.
- Ngày 10/10/2000, ông B có đơn xin đăng ký quyền sử dụng 121m
2
đất màu
tại thửa số 136 tờ bản đồ số 12 và ông B đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất ngày 14/12/2000 mang tên hộ ông (bà) Nguyễn Hữu B. Kể từ khi được
cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, ông B vẫn quản lý, sử dụng diện tích đất
trên đến nay. Qua kiểm tra hiện trạng sử dụng đất và các tài liệu chứng cứ do Toà
án cấp sơ thẩm thu thập được xác định, tại thời điểm cấp Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất, ông B đã kê khai nhầm từ tờ bản đồ số 17 thành tờ bản đồ số 12 đối
với thửa đất nêu trên, do vậy ông B có quyền đề nghị cơ quan nhà nước có thẩm
quyền chỉnh lý lại số tờ bản đồ cho đúng với hiện trạng sử dụng đất.
- Anh Nguyễn Văn H và chị Nguyễn Thùy T1 cho rằng anh chị được bố đẻ
anh H là ông T cho một phần diện tích đất 186m
2
của thửa đất số 136 vào năm
2000 cũng chỉ cho bằng miệng và anh chị làm nhà ngay trên diện tích đất được bố
mẹ cho. Năm 2006 anh được UBND thành phố T cấp Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất.
- Anh Nguyễn Hữu V cho rằng anh được bố đẻ anh là ông T cho anh một
phần diện tích 63m
2
đất còn lại của thửa đất số 136 tờ bản đồ số 17, từ năm 2000,
đến năm 2003 anh có xây nhà cấp 4 và anh vẫn đang quản lý sử dụng từ đó cho
đến nay.
Như vậy, từ sau khi ông B được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đến
nay các hộ gia đình sử dụng thửa đất số 136 tờ bản đồ số 17 đã tự xác định ranh
giới, tự xây dựng tường rào, công trình và sinh sống trên đất; ông B sử dụng diện
tích được cấp là 121m
2
, thực tế sử dụng 92,3m
2
; phần diện tích đất còn lại trừ
đường giao thông 23,6m
2
, anh V, anh H sử dụng liên tục, xây dựng các công trình
là nhà ở và công trình khác, sinh sống từ năm 2000 đến nay.
Như vậy có đủ căn cứ khẳng định cả nguyên đơn và bị đơn đều sử dụng thửa
số 136 có nguồn gốc của cụ N3 và cụ L2, nay phát sinh tranh chấp. Ông B khởi
kiện yêu cầu ông T và các con của ông T là anh H, anh V dỡ các tài sản trên thửa
đất số 136 để trả lại thửa đất đó cho ông B nhưng không có tài liệu nào chứng
minh thửa đất 136 này là cụ N3 và cụ L2 đã cho ông B, mặt khác nếu đã cho ông
B cả thửa 136 thì vì sao ông B chỉ kê khai có 121m
2
của thửa 136 còn diện tích
còn lại vì sao không kê khai.
Về lời khai của người làm chứng đều là anh chị em ruột của ông B và ông T,
quá trình giải quyết vụ án thì khai không nhất quán nên không có căn cứ như cấp
sơ thẩm nhận định là có cơ sở.
Hiện nay ông B vẫn quản lý và sử dụng đủ diện tích mà ông được cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, do vậy Toà án cấp sơ thẩm đã bác yêu cầu khởi kiện
đòi lại đất của ông B đối với ông T và anh H, anh V là đúng, còn ông B và anh chị
em nhà ông B cho rằng đất của bố mẹ các ông chưa chia thừa kế thì các ông bà có
thể khởi kiện chia thừa kế theo quy định của pháp luật. Toà án cấp sơ thẩm bác yêu
cầu đòi lại đất của ông B là có căn cứ, cần giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Tại phiên toà phúc thẩm, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của ông B
đưa ra các ý kiến đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của ông B và chấp
nhận khởi kiện của ông B là không có căn cứ như đã phân tích nêu trên.
Tại phiên toà phúc thẩm người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của anh H
và anh V cũng như ý kiến của đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử bác
yêu cầu kháng cáo của ông B là có căn cứ.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào khoản 1 Điều 308 và Điều 148 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Căn cứ
vào Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ
Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và
lệ phí Toà án; Không chấp nhận kháng cáo của ông Nguyễn Hữu B.
1. Giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số 109/2024/DS-ST ngày 27 tháng 9
năm 2024 của Toà án nhân dân thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên.
2. Về án phí: Miễn án phí phúc thẩm cho ông Nguyễn Hữu B do là người cao
tuổi. Trả lại cho ông B 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí đã nộp
theo biên lai thu số 0003257 ngày 10/10/2024 tại Chi cục Thi hành án dân sự
thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có
hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiêu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- TAND TP Thái Nguyên;
- VKSND tỉnh Thái Nguyên;
- Chi cục THADS TP Thái Nguyên;
- UBND TP Thái Nguyên;
- UBND xã Thịnh Đức;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ; Tòa dân sự.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(Đã ký)
Nguyễn Văn Quế
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 14/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 13/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 09/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 08/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Bản án số 422/2025/DS-PT ngày 08/05/2025 của TAND cấp cao tại TP.HCM về tranh chấp quyền sử dụng đất
Ban hành: 08/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 29/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 29/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 29/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 29/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Bản án số 398/2025/QĐ-PT ngày 28/04/2025 của TAND cấp cao tại TP.HCM về tranh chấp quyền sử dụng đất
Ban hành: 28/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 28/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 25/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 25/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 24/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 23/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Bản án số 360/2025/DS-PT ngày 23/04/2025 của TAND cấp cao tại TP.HCM về tranh chấp quyền sử dụng đất
Ban hành: 23/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 22/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 22/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 22/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
20
Ban hành: 18/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm