Bản án số 54/2023/HS-ST ngày 08-08-2023 của TAND huyện An Minh (TAND tỉnh Kiên Giang) về tội hủy hoại tài sản
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng tội danh
- Tải về
-
Bản án 54/2023/HS-ST Kiên Giang
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án 54/2023/HS-ST Kiên Giang
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Thuộc tính Bản án 54/2023/HS-ST
Tên Bản án: | Bản án số 54/2023/HS-ST ngày 08-08-2023 của TAND huyện An Minh (TAND tỉnh Kiên Giang) về tội hủy hoại tài sản |
---|---|
Tội danh: | 178.Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản (Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015) |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND huyện An Minh (TAND tỉnh Kiên Giang) |
Số hiệu: | 54/2023/HS-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 08/08/2023 |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ án: | Lâm Hải B phạm tội “Hủy hoại tài sản” |
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
|
|
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN AN MINH, TỈNH KIÊN GIANG
BẢN ÁN 54/2023/HS-ST NGÀY 08/08/2023 VỀ TỘI HỦY HOẠI TÀI SẢN
Ngày 08 tháng 8 năm 2023 tại Toà án nhân dân huyện An Minh, tỉnh Kiên Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 45/2023/TLST- HS ngày 05 tháng 7 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 51/2023/QĐXXST-HS ngày 17 tháng 7 năm 2023 đối với bị cáo:
Lâm Hải B, sinh năm 1997 tại huyện A, tỉnh Kiên Giang; Nơi cư trú: khu phố T, thị trấn M, huyện A, tỉnh Kiên Giang; Giới tính: nam; Nghề nghiệp: làm ruộng; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; trình độ văn hóa: 6/12; con ông Lâm Thành C và bà Nguyễn Ngọc B2; vợ là Lê Ngọc T và có 01 người con, sinh năm 2022; tiền án: không, tiền sự: không; Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 19/12/2022 đến nay.
- Bị hại: Trần Văn B1, sinh năm 1967; nơi cư trú: ấp X, xã Đ, huyện A, tỉnh Kiên Giang.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 18 giờ ngày 03/7/2022, sau khi đã uống rượu, bị cáo Lâm Hải B nhớ đến việc Trần Văn N ở ấp X, xã Đ, huyện A, dẫn em gái của B tên Lâm Thị Ngọc O bỏ nhà đi từ đầu năm 2022 đến nay nên bị cáo B lấy cây dao yếm làm cá của gia đình, cán bằng gỗ, lưỡi dao dài 30cm, chạy xe mô tô đến nhà ông Trần Văn B1 (cha của N) để nói chuyện. Khi đến nơi, thấy ông B1 đang xem ti vi cùng những người hàng xóm gồm ông Phạm Văn T, ông Phạm Văn T1. Thấy B cầm dao trên tay nên ông Phạm Văn T và Phạm Văn T1 bỏ đi ra ngoài. Bị cáo B nói chuyện với ông B1 vài câu thì dùng dao chặt vào cái tivi Samsung 32in, làm hư hỏng không còn sử dụng được và chặt vào cửa xếp Đài Loan, tiếp tục đi ra ngoài chặt vào kính cửa hong làm vỡ tấm kính có kích thước 60 x 79cm (loại 0,4cm); vỡ 04 tấm kính gắn cửa sổ, kích thước 88 x 55cm (loại 0,4cm). Sau đó bị cáo Lâm Hải B lên xe chạy về nhà, trên đường về làm rơi mất cây dao.
Tại Cơ quan điều tra, bị cáo Lâm Hải B thừa nhận hành vi phạm tội. Tại Bản kết luận định giá tài sản số 21/KL-HĐĐG ngày 19/8/2022 của Hội đồng Định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện An Minh kết luận:
- 01 (Một) tivi SAMSUNG 32IN giá trị còn lại là 3.233.500 đồng.
- 04 (Bốn) tấm kính gắn cửa sổ, kích thước 88cm x 55cm, loại 0,4cm trị giá 388.000 đồng.
- 01 (Một) tấm kính gắn cửa hong, kích thước 60cm x 79cm, loại 0,4cm trị giá 94.000 đồng.
- 04 (Bốn) vết chém trên cửa xếp Đài Loan, kích thước vết thứ nhất 2cm, kích thước vết thứ hai 2cm, kích thước vết thứ ba 1,5cm, kích thước vết thứ tư 1,5cm trị giá 430.000 đồng.
Tổng giá trị tài sản cần định giá là 4.145.500 đồng (Bốn triệu một trăm bốn mươi lăm nghìn năm trăm đồng).
Việc thu giữ, tạm giữ tài liệu, đồ vật; xử lý vật chứng: Cơ quan điều tra không thu giữ tài liệu, đồ vật gì.
Về trách nhiệm dân sự: Bị hại Trần Văn B1 yêu cầu bồi thường số tiền 20.000.000 đồng, bị cáo đã bồi thường được số tiền 4.500.000 đồng.
Tại Cáo trạng số 17/CT-VKS-AM ngày 03/3/2023 Viện kiểm sát nhân dân huyện An Minh, tỉnh Kiên Giang truy tố Lâm Hải B về tội “Hủy hoại tài sản” theo khoản 1 Điều 178 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa:
- Kiểm sát viên kết luận bị cáo B phạm tội hủy hoại tài sản và đề nghị áp dụng điểm b, i, s khoản 1 Điều 51, Điều 38, Điều 54, khoản 1 Điều 178 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo B từ 3 đến 4 tháng tù; về dân sự ghi nhận sự tự thỏa thuận bị cáo bồi thường thêm cho bị hại số tiền 4.000.000đồng.
- Bị cáo B thừa nhận hành vi như cáo trạng truy tố và kết luận của Kiểm sát viên tại phiên tòa, không tranh luận gì. Bị cáo thỏa thuận bồi thường thêm cho bị hại số tiền 4.000.000đồng. Trong lời nói sau cùng bị cáo B trình bày là đã biết lỗi, hối hận về hành vi của bản thân gây ra, xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo và xin được hưởng án treo.
- Bị hại đồng ý nhận số tiền bồi thường thêm của bị cáo là 4.000.000đồng.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện An Minh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện An Minh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo, bị hại và người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị hại và những tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, từ đó có đủ căn cứ để kết luận: Khoảng 20 giờ ngày 03/7/2022, bị cáo Lâm Hải B sau khi đã uống rượu say cầm dao yếm điều khiển xe mô tô đến nhà ông Trần Văn B1 ở ấp X, xã Đ, huyện A cự cãi và dùng dao chặt phá làm thiệt hại một số tài sản của ông B1, gồm: 01 Tivi Samsung 32in, hư hỏng không còn sử dụng được; 05 tấm kính cửa (loại 0,4cm), bị vỡ hoàn toàn; 01 cửa xếp Đài Loan, bị hư hỏng một phần. Tổng giá trị tài sản theo Kết luận định giá là 4.145.500 đồng (Bốn triệu một trăm bốn mươi lăm nghìn năm trăm đồng).
[3] Hành vi của bị cáo là hành vi nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến tài sản của bị hại. Bị cáo chưa có ý thức tôn trọng tài sản của người khác, vi phạm quy định của pháp luật, khi hủy hoại tài sản bị cáo có đủ năng lực trách nhiệm hình sự; tài sản bị cáo hủy hoại có tổng giá trị là 4.145.500đồng. Do đó, Viện kiểm sát truy tố và kết luận bị cáo B phạm tội hủy hoại tài sản theo khoản 1 Điều 178 Bộ luật Hình sự là có căn cứ và đúng pháp luật.
[4] Hành vi của bị cáo đã gây mất an ninh trật tự tại địa phương, gây tâm lý lo lắng, bất an trong nhân dân. Bị cáo tuy không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nhưng bị cáo chưa biết tôn trọng tài sản hợp pháp của người khác; chưa chấp hành tốt pháp luật nên cần phải xử lý bị cáo nghiêm khắc nhằm răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.
[5] Tuy nhiên, sau khi bị khởi tố, điều tra về hành vi phạm tội và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, tỏ rõ thái độ ăn năn hối cải; bị cáo mới phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; tự nguyện bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự để xem xét giảm nhẹ cho bị cáo. [6] Từ những phân tích nêu trên, Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo có nơi cư trú rõ ràng, mới phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, có nhiều tình tiết giảm nhẹ, tỏ rõ thái độ quyết tâm sửa chữa lỗi lầm nên không cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội. Hội đồng xét xử thống nhất áp dụng Điều 38 và Điều 65 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo bằng hình phạt tù nhưng cho hưởng án treo để thể hiện tính nhân đạo, khoan hồng và tạo điều kiện cho bị cáo sửa chữa lỗi lầm.
[7] Về trách nhiệm dân sự, ghi nhận sự tự thỏa thuận bị cáo B bồi thường thêm cho bị hại số tiền 4.000.000đồng.
[8] Về án phí: bị cáo phải chịu 200.000đồng án phí hình sự sơ thẩm và 300.000đồng án phí dân sự sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
1- Tuyên bố: Bị cáo Lâm Hải B phạm tội “Hủy hoại tài sản”.
Căn cứ khoản 1 Điều 178, điểm b, i, s khoản 1 Điều 51, Điều 38, Điều 65 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Lâm Hải B 06 (sáu) tháng tù, cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 12 (mười hai) tháng, kể từ ngày tuyên án (ngày 08/8/2023).
Giao cho Ủy ban nhân dân thị trấn M, huyện A, tỉnh Kiên Giang giám sát, giáo dục người được hưởng án treo trong thời gian thử thách. Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự.
Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
2- Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo Lâm Hải B có nghĩa vụ bồi thường thêm cho bị hại Trần Văn B1 số tiền là 4.000.000đồng (bốn triệu đồng).
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án, cho đến khi thi hành xong các khoản tiền, hằng tháng người bị thi hành án còn phải trả khoản tiền lãi trên số tiền còn phải thi hành án tương ứng với thời gian chưa thi hành theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.
3- Về án phí, căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án, bị cáo B phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và 300.000đồng án phí dân sự sơ thẩm.
4- Bị cáo, bị hại có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./.
|
|
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!