Bản án số 402/2023/HS-ST ngày 15/08/2023 của TAND TP. Biên Hòa (TAND tỉnh Đồng Nai) về tội cố ý làm hư hỏng tài sản
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng tội danh
- Tải về
-
Bản án 402/2023/HS-ST Đồng Nai
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án 402/2023/HS-ST Đồng Nai
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Thuộc tính Bản án 402/2023/HS-ST
Tên Bản án: | Bản án số 402/2023/HS-ST ngày 15/08/2023 của TAND TP. Biên Hòa (TAND tỉnh Đồng Nai) về tội cố ý làm hư hỏng tài sản |
---|---|
Tội danh: | 178.Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản (Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015) |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND TP. Biên Hòa (TAND tỉnh Đồng Nai) |
Số hiệu: | 402/2023/HS-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 15/08/2023 |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ án: | Lê Minh K và Nguyễn Trung H1 phạm tội cố ý làm hư hỏng tài sản |
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA TỈNH ĐỒNG NAI ------------- Bản án số: 402/2023/HS-ST Ngày: 15 - 8 - 2023 |
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
-------------
|
TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI
BẢN ÁN 402/2023/HS-ST NGÀY 15/08/2023 VỀ TỘI CỐ Ý LÀM HƯ HỎNG TÀI SẢN
Trong ngày 15 tháng 8 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 361/2023/TLST-HS ngày 26 tháng 6 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 370/2023/QĐXXST- HS ngày 06 tháng 7 năm 2023; quyết định hoãn phiên tòa số 730/2023/HSST- QĐ ngày 28/7/2023, đối với các bị cáo:
1. Lê Minh K, sinh ngày 12-7-2005 tại Bà Rịa – Vũng Tàu; Nơi cư trú: Số A, khu phố D, phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ văn hóa (học vấn): 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Hoàng M, sinh năm 1981 và bà Phạm Thị H, sinh năm 1984 (đã chết); bị cáo chưa có vợ con; Tiền án, tiền sự: không.
Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú. (Vắng mặt).
Người bào chữa cho bị cáo K: Trợ giúp viên pháp lý Nguyễn Thị Hoài T – Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Đ.
Địa chỉ: khu phố A, phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai (Có mặt).
2. Nguyễn Trung H1, sinh ngày 14-10-2006 tại Đồng Nai; Nơi cư trú: Số A, khu phố A, phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ văn hóa (học vấn): 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Thành T1, sinh năm 1983 (đã chết) và bà Trần Thị Thanh L, sinh năm 1987; bị cáo chưa có vợ con; Tiền án, tiền sự: không.
Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú. (Có mặt).
Người đại diện theo pháp luật cho bị cáo H1: Bà Trần Thị Thanh L, sinh năm 1987 (Là mẹ của bị cáo H1). (Có mặt) Địa chỉ: Số A, khu phố A, phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai.
Người bào chữa cho bị cáo H1: Trợ giúp viên pháp lý Nguyễn Thị Hoài T – Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Đ.
Địa chỉ: khu phố A, phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai (Có mặt).
- Bị hại:
1/ Anh Nguyễn Bá H2, sinh năm 1988. (Vắng mặt) Địa chỉ: Số A, khu phố N, phường H, thành phố B, tỉnh Đồng Nai.
2/ Ông Phạm N, sinh năm 1954. (Vắng mặt) Địa chỉ: Số F, khu phố N, phường H, thành phố B, tỉnh Đồng Nai.
3/ Ông Thái Hùng M1, sinh năm 1961. (Vắng mặt) Địa chỉ: Số E, khu phố N, phường H, thành phố B, tỉnh Đồng Nai.
4/ Anh Hà Ngọc T2, sinh năm 1979. (Vắng mặt) Địa chỉ: Số A, khu phố N, phường H, thành phố B, tỉnh Đồng Nai.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1/ Bà Trần Thị Thanh L, sinh năm 1987 (Có mặt) Địa chỉ: Số A, khu phố A, phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai.
2/ Ông Đinh Quốc S, sinh năm 1983 (Vắng mặt) Địa chỉ: Số A, khu phố D, phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai.
3/ Ông Phan Vĩ B, sinh năm 1979 (Vắng mặt) Địa chỉ: Số A, khu phố A, phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai.
Người làm chứng:
1/ Ông Đinh Quốc C. (Vắng mặt)
2/Ông Phan Vĩnh L1. (Vắng mặt)
3/ Ông Hồ Minh H3. (Vắng mặt)
4/ Ông Võ Trần Khang. (Có mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Lê Minh K sinh ngày 12-7-2005, Nguyễn Trung H1 14-10-2006, Hồ Minh H3 sinh ngày 21-02-2008, Võ Trần K1 sinh ngày 03-12-2008, Phan Vĩnh L1 sinh ngày 03-9-2008 và Đinh Quốc C1 sinh ngày 06-10-2008 là bạn bè quen biết với nhau. Khoảng 00 giờ 30 phút ngày 28-10-2022, C1 điều khiển xe mô tô biển số 60V6-X chở Minh K, H3 điều khiển xe mô tô biển số 51P8-X chở H1, L1 điều khiển xe mô tô biển số 60FN-X chở Trần K1 đi dạo chơi thì H3 rủ cả nhóm nhặt gạch, ném vào các xe ô tô đậu bên đường nhằm tạo tiếng động để giải trí thì cả 06 (Sáu) người đồng ý. Thực hiện ý định, cả nhóm dừng xe và nhặt các viên gạch ống ở nhà dân ven đường để thực hiện nhiều lần Cố ý làm hư hỏng tài sản, cụ thể như sau:
Lần thứ nhất: Khoảng 01 giờ 00 phút ngày 28-10-2022, khi cả nhóm đang lưu thông trên đường Đ thuộc phường H, thành phố B, tỉnh Đồng Nai thì phát hiện chiếc xe mô tô nhãn hiệu Chevrolet – Spark, màu trắng, biển số 47A-X của anh Thái Hùng M1 ngụ tại số K, khu phố B, phường B, thành phố B, tỉnh Đồng Nai đang đậu ngoài lề đường, không có người trông coi nên C1 chở Minh K ngồi phía sau, Minh K cầm 01 (Một) viên gạch ném vào xe ô tô trên làm bể rạn nứt toàn bộ tấm kính chắn gió phía sau của xe ô tô trên.
Tại Bản kết luận định giá tài sản số 12/KL-HĐ ĐGTS ngày 12-01-2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố B kết luận: “01 (Một) xe ô tô, biển số 47A-X bị hư hỏng có giá trị thiệt hại tài sản là 600.000đ (Sáu trăm nghìn đồng)”.
Trách nhiệm dân sự: Cha mẹ Nguyễn Trung H1 và Lê Minh K đã bồi thường, khắc phục hậu quả cho anh Thái Hùng M1 số tiền 1.000.000đ (Một triệu đồng) nên anh M1 không không yêu cầu bồi thường.
Lần thứ hai: Sau đó, cả nhóm tiếp tục lưu thông đến đoạn đường Đ thuộc phường H, thành phố B, tỉnh Đồng Nai thì phát hiện chiếc xe ô tô biển số 60A- X, nhãn hiệu Kia Morning của ông Phạm Nhứt n tại số F, khu phố N, phường H, thành phố B, tỉnh Đồng Nai đang đậu bên đường, không có người trông coi. Lúc này xe của H3 chở H1 đi trước, H1 ngồi phía sau ném 02 (Hai) lần vào chiếc xe ô tô trên, mỗi lần 01 (Một) viên gạch làm vỡ kính chắn gió phía trước và móp trầy bong tróc sơn cản trước và ca phô phía trước của xe ô tô trên. Ngay sau đó, C1 chở Minh K đi đến, Minh K ném 01 (Một) viên gạch làm vỡ kính chắn gió phía trước của xe ô tô trên.
Vật chứng thu giữ, gồm:
- 01 (Một) viên gạch 02 lỗ, kích thước 10cm x 15cm đã bể góc là công cụ H1 và Minh K sử dụng phạm tội.
- 01 (Một) bản phô tô giấy đăng ký xe ô tô biển số 60A-X, 01 (Một) bản phô tô giấy chứng nhận đăng kiểm xe ô tô biển số 60A-X và 01 bản báo giá của Cơ sở sửa chữa ô tô Đ đối với xe ô tô biển số 60A-X: lưu hồ sơ vụ án.
Tại Bản kết luận định giá tài sản số 12/KL-HĐ ĐGTS ngày 12-01-2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố B kết luận: “01 (Một) xe ô tô, biển số 60A-X bị hư hỏng một số bộ phận trên xe có giá trị thiệt hại tài sản là 4.550.000đ (Bốn triệu năm trăm năm mươi nghìn đồng)”.
Bồi thường, khắc phục hậu quả cho ông Phạm N số tiền 5.000.000đ (Năm triệu đồng) nên ông N không không yêu cầu bồi thường. Bút lục số (116, 140).
Lần thứ ba: Cả nhóm tiếp tục lưu thông về phía trước, khi đi ngang xe ô tô nhãn hiệu Toyota Vios, màu trắng, biển số 51G-X của anh Hà Ngọc T2 ngụ tại số E T, tổ D, khu phố D, phường T, quận A, thành phố Hồ Chí Minh đang đậu ở lề đường thuộc phường H, thành phố B, tỉnh Đồng Nai không có người trông coi thì xe H3 chở H1 đi đến gần phía sau, cách đuôi xe khoảng 03 mét, H3 vừa điều khiển xe, tay còn lại cầm 01 (Một) viên gạch ném vào chiếc xe ô tô trên làm bể vỡ nứt rạn toàn bộ kính chắn gió phía sau của xe ô tô. Liền sau đó, xe C1 chở Minh K đi đến, Minh K ném 01 (Một) viên gạch vào chiếc xe ô tô trên làm lõm, bong tróc trầy xước khung cửa phía sau bên trái của xe ô tô trên.
Vật chứng thu giữ, gồm: 01 (Một) bản phô tô giấy đăng ký xe ô tô biển số 51G-X, 01 (Một) bản phô tô giấy chứng nhận đăng kiểm xe ô tô biển số 51G- X và 01 (Một) bản báo giá của Công ty TNHH Ô đối với xe ô tô biển số 51G- X: lưu hồ sơ vụ án.
Tại Bản kết luận định giá tài sản số 12/KL-HĐ ĐGTS ngày 12-01-2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố B kết luận: “01 (Một) xe ô tô, biển số 51G-X bị hư hỏng một số bộ phận trên xe có giá trị thiệt hại tài sản là 4.950.000đ (Bốn triệu chín trăm năm mươi nghìn đồng)”.
Trách nhiệm dân sự: Cha mẹ Nguyễn Trung H1 và Lê Minh K đã bồi thường, khắc phục hậu quả cho anh Hà Ngọc T2 số tiền 5.000.000đ (Năm triệu đồng) nên anh T2 không không yêu cầu bồi thường.
Lần thứ tư: Sau đó, cả nhóm tiếp tục lưu thông trên đường Đ thuộc khu phố N, phường H, thành phố B, tỉnh Đồng Nai thì phát hiện chiếc xe ô tô nhãn hiệu Toyota Crown, biển số 29LD-X của ông Nguyễn Bá H2 ngụ số A, khu phố N, phường H, thành phố B, tỉnh Đồng Nai đang đậu trước cổng nhà dân, không có người trông coi. Khi đó xe L1 chở Trần K1 đi trước, Trần Khang n1 sau ném 01 (Một) viên gạch vào xe ô tô trên làm bể vỡ rạn nứt toàn bộ kính chắn gió phía sau của xe. Tiếp đến, C1 chở Minh K khi đến gần cách đuôi xe khoảng 03 mét thì Minh K ném 01 (Một) viên gạch vào xe ô tô trên, làm trầy lõm, bong tróc sơn ở mui trần phía đuôi sau xe ô tô trên.
Vật chứng thu giữ, gồm:
- 01 (Một) viên gạch loại 02 lỗ, kích thước 10cmx10cm và 01 (Một) viên gạch loại 02 lỗ, kích thước 05cmx06cm là công cụ H1 và Minh K sử dụng để thực hiện hành vi phạm tội.
- 01 (một) USB ghi lại hình ảnh phạm tội: lưu hồ sơ vụ án. Bút lục số (43) - 01 (Một) bản phô tô giấy đăng ký xe ô tô biển số 29LD-X, 01 (Một) bản phô tô giấy chứng nhận đăng kiểm xe ô tô biển số 29LD-X và 01 (Một) bản báo giá của Công ty TNHH MTV B1 đối với xe ô tô biển số 29LD-X: lưu hồ sơ vụ án.
Tại Bản kết luận định giá tài sản số 12/KL-HĐ ĐGTS ngày 12-01-2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố B kết luận: “01 (Một) xe ô tô, biển số 29LD-X bị hư hỏng một số bộ phận trên xe có giá trị thiệt hại tài sản là 3.060.000đ (Ba triệu không trăm sáu mươi nghìn đồng)”.
Bồi thường, khắc phục hậu quả cho ông Nguyễn Bá H2 số tiền 8.000.000đ (Tám triệu đồng) nên ông H2 không yêu cầu bồi thường.
Sau khi ném gạch vào 04 (bốn) xe ô tô trên thì cả nhóm bỏ về nhà. Sự việc xảy ra, các ông Thái Hùng M1, Phạm N, Hà Ngọc T2 và Nguyễn Bá H2 đến Công an phường H trình báo. Qua kiểm tra hệ thống camera an ninh, Công an phường H, H1, H3, Trần K1, C1 và L1 về làm việc, tại đây tất cả thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung nêu trên. Công an phường H lập hồ sơ, chuyển Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B để điều tra, xử lý.
Đối với 01 (Một) xe mô tô biển số 51P8-X thuộc sở hữu của chị Trần Thị Thanh L (là mẹ ruột của H1), không biết H1 sử dụng vào việc phạm tội nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B đã trả lại cho chị L.
Đối với (Một) xe mô tô biển số 60V6-X thuộc sở hữu của anh Đinh Quốc S (là cha ruột của C1), không biết C1 sử dụng vào việc phạm tội nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B đã trả lại cho anh S.
Đối với 01 xe mô tô biển số 60FN-X thuộc sở hữu của anh Phan Vĩ B (là cha ruột của Minh K), đưa cho Minh K sử dụng, không biết Minh K sử dụng làm phương tiện phạm tội nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B không thu giữ.
Căn cứ vào các tình tiết và chứng cứ nêu trên, Tại Cáo trạng số: 367/CT-VKSBH ngày 21/6/2023, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai đã truy tố bị cáo Lê Minh K và Nguyễn Trung H1 về tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 178 của Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, Kiểm sát viên giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị tuyên bố các bị cáo phạm tội: “Cố ý làm hư hỏng tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 178 của Bộ luật Hình sự.
Tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ:
- Tình tiết tăng nặng: phạm tội 02 lần trở lên (quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự).
- Tình tiết giảm nhẹ: người phạm tội bồi thường thiệt hại, các bị cáo phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, quá trình điều tra các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải (quy định tại các điểm b, i, s khoản 1, Điều 51 Bộ luật hình sự).
Đại diện Viện kiểm sát đề nghị xử phạt:
- Bị cáo Lê Minh K từ 08 tháng 10 tháng cải tạo không giam giữ về tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản”.
- Bị cáo Nguyễn Trung H1 từ 08 tháng 10 tháng cải tạo không giam giữ về tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản”.
Không khấu trừ thu nhập của các bị cáo Nguyễn Minh H4 và Lê Minh K.
Đối với Hồ Minh H3, Võ Trần K1, Phan Vĩnh L1 và Đinh Quốc C1 thời điểm thực hiện hành vi phạm tội chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi Cố ý làm hư hỏng tài sản.
- Về dân sự: Đã giải quyết xong, đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
- Về án phí: Buộc các bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Trên cơ sở nội dung của vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng: Các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử phù hợp với qui định của pháp luật.
[2] Về tố tụng: Bị cáo Lê Minh K có đơn xin vắng mặt, các bị hại vắng mặt. Tuy nhiên, bị cáo K và các bị hại đã có lời khai, lời trình bày trong hồ sơ vụ án, được công bố công khai tại phiên tòa nên việc vắng mặt của họ không ảnh hưởng đến việc xét xử. Do vậy, Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 292 của Bộ luật tố tụng hình sự vẫn tiến hành xét xử vụ án.
[3] Về hành vi phạm tội của các bị cáo: Tại phiên tòa bị cáo H4 đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai nhận của bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của các bị hại, vật chứng và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án; qua đó đã có căn cứ để kết luận:
Khoảng 01 giờ 00 phút ngày 28-20-2023, Lê Minh K, Nguyễn Trung H1, Hồ Minh H3, Võ Trần K1, Phan Vĩnh L1 và Đinh Quốc C1 đã có hành vi dùng gạch ném vào các xe ô tô gây hư hỏng tài sản, cụ thể như sau: Lần thứ nhất: Tại đường Đ thuộc phường H, thành phố B, tỉnh Đồng Nai, C1 và Minh K đã có hành vi ném gạch làm 01 (Một) xe ô tô, biển số 47A-X bị hư hỏng có giá trị thiệt hại tài sản là 600.000đ (Sáu trăm nghìn đồng) của ông Thái Hùng M1; lần thứ hai: Tại đường Đ thuộc phường H, thành phố B, tỉnh Đồng Nai, H1 và Minh K đã có hành vi ném gạch làm 01 (Một) xe ô tô, biển số 60A-X bị hư hỏng một số bộ phận trên xe có giá trị thiệt hại tài sản là 4.550.000đ (Bốn triệu năm trăm năm mươi nghìn đồng) của ông Phạm N; lần thứ ba: Tại đoạn đường thuộc phường H, thành phố B, tỉnh Đồng Nai, H3 và Minh K đã có hành vi ném gạch làm 01 (Một) xe ô tô, biển số 51G-X bị hư hỏng một số bộ phận trên xe có giá trị thiệt hại tài sản là 4.950.000đ (Bốn triệu chín trăm năm mươi nghìn đồng) của anh Hà Ngọc T2; lần thứ tư: Tại đường Đ thuộc phường H, thành phố B, tỉnh Đồng Nai, Trần K1 và Minh K đã có hành vi ném gạch làm 01 (Một) xe ô tô, biển số 29LD- X bị hư hỏng một số bộ phận trên xe có giá trị thiệt hại tài sản là 3.060.000đ (Ba triệu không trăm sáu mươi nghìn đồng) của ông Nguyễn Bá H2. Tổng trị giá tài sản bị hư hỏng là 13.160.000đ (Mười ba triệu một trăm sáu mươi nghìn đồng).
Như vậy, có đủ cơ sở kết luận hành vi nêu trên của các bị cáo Lê Minh K, Nguyễn Trung H1 đã phạm vào tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản” theo khoản 1 Điều 178 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017).
[4] Hành vi phạm tội của các bị cáo gây ra là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, xâm phạm đến an toàn công cộng, trật tự công cộng và làm ảnh hưởng đến trật tự, trị an xã hội. Nên cần phải xử phạt các bị cáo một mức án nghiêm, tương xứng với hành vi của các bị cáo thì mới có tác dụng giáo dục riêng và răn đe phòng ngừa chung. Các bị cáo phạm tội mang tính chất đồng phạm, song ở mức độ giản đơn. Xét thấy các bị cáo khi phạm tội chưa đủ 18 tuổi, khả năng nhận thức còn hạn chế về tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội do mình gây ra, nên áp dụng Điều 91, Điều 100 của Bộ luật hình sự năm 2015 (Sửa đổi bổ sung năm 2017).
[4] Xét về các tình tiết tăng nặng, trách nhiệm hình sự của bị cáo thì thấy:
- Tình tiết tăng nặng: Các bị cáo phạm tội 02 lần trở lên (quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự).
- Tình tiết giảm nhẹ: Gia đình các bị cáo đã bồi thường thiệt hại, phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, người bị hại có đơn bãi nại, xin giảm nhẹ hình phạt. Ngoài ra, hiện bị cáo K đang bị thương nặng và điều trị tại bệnh viện do vụ tai nạn giao thông nên việc vệ sinh cá nhân của bản thân bị cáo cũng phải có người thân hỗ trợ (quy định tại các điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015).
[5] Xử lý vật chứng:
- Đối với 01 USB ghi lại hình ảnh H1 và K thực hiện hành vi phạm tội lưu hồ sơ vụ án.
- 01 (Một) viên gạch 02 lỗ, kích thước 10cm x 15cm đã bể góc, 01 (Một) viên gạch loại 02 lỗ, kích thước 10cm x 10cm và 01 (Một) viên gạch loại 02 lỗ, kích thước 05cm x 06cm là công cụ H1 và Minh K sử dụng để thực hiện hành vi phạm tội tịch thu tiêu hủy - Đối với 01 (Một) xe mô tô biển số 51P8-X thuộc sở hữu của chị Trần Thị Thanh L (là mẹ ruột của H1), không biết H1 sử dụng vào việc phạm tội nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B đã trả lại cho chị L.
- Đối với (Một) xe mô tô biển số 60V6-X thuộc sở hữu của anh Đinh Quốc S (là cha ruột của C1), không biết C1 sử dụng vào việc phạm tội nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B đã trả lại cho anh S.
- Đối với 01 xe mô tô biển số 60FN-X thuộc sở hữu của anh Phan Vĩ B (là cha ruột của Minh K), đưa cho Minh K sử dụng, không biết Minh K sử dụng làm phương tiện phạm tội nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B không thu giữ.
[6] Đối với hành vi của Hồ Minh H3, Võ Trần K1, Phan Vĩnh L1 và Đinh Quốc C1 thời điểm thực hiện hành vi phạm tội chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi Cố ý làm hư hỏng tài sản.
[7] Về dân sự: Đã giải quyết xong, nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
[8] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
[9] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
1. - Căn cứ khoản 1 Điều 178; điểm g khoản 1 Điều 52; điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 58, Điều 91, Điều 100 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017).
Tuyên bố: Bị cáo Lê Minh K và Nguyễn Trung H1 phạm tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản”. Xử phạt bị cáo Lê Minh K và Nguyễn Trung H1 08 (T3) tháng cải tạo không giam giữ. Thời gian cải tạo không giam giữ được tính từ ngày cơ quan, tổ chức được giao giám sát, giáo dục người bị kết án nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án.
Giao bị cáo Lê Minh K và Nguyễn Trung H1 cho UBND phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai nơi bị cáo cư trú giám sát và giáo dục bị cáo trong thời gian chấp hành án. Gia đình các bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo.
Không khấu trừ thu nhập của các bị cáo Lê Minh K và Nguyễn Trung H1.
2. Xử lý vật chứng:
- Tịch thu tiêu hủy 01 (Một) viên gạch 02 lỗ, kích thước 10cm x 15cm đã bể góc, 01 (Một) viên gạch loại 02 lỗ, kích thước 10cm x 10cm và 01 (Một) viên gạch loại 02 lỗ, kích thước 05cm x 06cm là công cụ H1 và Minh K sử dụng để thực hiện hành vi phạm.
(Vật chứng trên đang tạm giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 27/6/2023).
3. Về án phí: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, quy định về án phí, lệ phí Tòa án. Buộc mỗi bị cáo phải nộp 200.000đồng (Hai trăm nghìn đồng).
4. Bị cáo Nguyễn Trung H1, người đại diện theo pháp luật cho bị cáo H1 đồng thời là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người bào chữa theo luật định cho bị cáo H1, K được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị cáo Lê Minh K, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.
Nơi nhận:
- Bị cáo; - Bị hại; - Người có QLNVLQ; - TAND tỉnh Đồng Nai; - VKSND tỉnh Đồng Nai; - VKSND TP. Biên Hòa; - CA TP. Biên Hòa; - THADS TP. Biên Hòa; - Lưu hồ sơ. |
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa ĐÃ KÝ Trần Thị Hải |
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!