Bản án số 11/2025/DS-PT ngày 06/01/2025 của TAND tỉnh Bình Dương về tranh chấp hợp đồng dịch vụ
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 11/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 11/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 11/2025/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 11/2025/DS-PT ngày 06/01/2025 của TAND tỉnh Bình Dương về tranh chấp hợp đồng dịch vụ |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng dịch vụ |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Bình Dương |
Số hiệu: | 11/2025/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 06/01/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Tranh chấp hợp đồng dịch vụ pháp lý giữa NĐ ông Trần Kim P, BĐ Văn phòng Luật sư T & Cộng sự |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH BÌNH DƯƠNG
Bản án số: 11/2025/DS-PT
Ngày 06 - 01 - 2025
V/v tranh chấp hợp đồng
dịch vụ pháp lý
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH DƯƠNG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Nguyễn Văn Thanh
Các Thẩm phán: Ông Nguyễn Văn Tài
Ông Nguyễn Thanh Tùng
- Thư ký phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Thùy Trang - Thư ký Tòa án nhân dân
tỉnh Bình Dương.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương tham gia phiên tòa:
Ông Lê Trung Kiên - Kiểm sát viên.
Ngày 06 tháng 01 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương
xét xử phúc thẩm công khai
vụ án dân sự thụ lý số 666/TLPT-DS ngày
26/11/2024 về việc “Tranh chấp hợp đồng dịch vụ pháp lý”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 88/2024/DS-ST ngày 16/7/2024 của Tòa án
nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 531/2024/QĐ-PT ngày
09/12/2024, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Trần Kim P, sinh năm 1960; địa chỉ: số A, khu phố B,
phường B, thành phố T, tỉnh Bình Dương, có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt.
- Bị đơn: Văn phòng L2; địa chỉ: số B, đường Đ, phường P, thành phố T,
tỉnh Bình Dương.
Người đại diện hợp pháp: Ông Vũ Ngọc T - Trưởng Văn phòng; địa chỉ: số
nhà G, đường N, khu dân cư P, tổ C, khu phố G, phường P, thành phố T, tỉnh
Bình Dương, có mặt.
Người kháng cáo: Bị đơn Văn phòng Luật sư T & Cộng sự.
2
NỘI DUNG VỤ ÁN:
- Theo án sơ thẩm, nguyên đơn là ông Trần Kim P trình bày:
Ngày 07/9/2017, tại Văn phòng L2 (phường P, thành phố T, tỉnh Bình
Dương), ông Trần Kim P, đại diện cho ông Quách Ngọc L là người đang khiếu
kiện “Yêu cầu công nhận quyền sử dụng đất có diện tích là 44.000m
2
(đo đạc
thực tế là 33.854m
2
) tại phường A, thành phố D, tỉnh Bình Dương” đối với Ủy
ban nhân dân tỉnh B đã ký kết hợp đồng dịch vụ pháp lý số 22/2017.HĐ/DS với
Văn phòng Luật sư T & Cộng sự, do ông Vũ Ngọc T là Trưởng Văn phòng làm
đại diện, Hợp đồng dịch vụ pháp lý số 22/2017.HĐ/DS ngày 07/9/2027 có các
nội dung chính như sau:
- Tổng giá trị dịch vụ bao gồm tiền công tác phí, thù lao, chi phí dịch vụ
cho Luật sư của Văn phòng L2 là 10.000.000.000 đồng (mười tỷ đồng). Ngay
sau ký hợp đồng ngày 07/9/2017, ông P đã nộp tạm ứng cho Văn phòng Luật sư
T & Cộng sự số tiền 1.000.000.000 đồng (một tỷ đồng). Số tiền còn lại là
9.000.000.000 đồng (chín tỷ đồng) sẽ được ông P thanh toán cho Văn phòng L2
& Cộng sự khi sự việc khiếu kiện của ông Quách Ngọc L được cơ quan có thẩm
quyền hòa giải thành, có quyết định giải quyết giao quyền sử dụng 33.854m
2
đất
cho bên ông L hoặc có Bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án
nhân dân cấp có thẩm quyền giao quyền sử dụng 33.854m
2
đất trên cho bên ông
Quách Ngọc L.
- Thời hạn thực hiện dịch vụ pháp lý từ 05 (năm) đến 08 (tám) tháng tính
từ ngày 07/9/2017 tức thời hạn ông P chấp nhận cho Văn phòng Luật sư T &
Cộng sự thực hiện trọn gói các công việc dịch vụ pháp lý đến khi hoàn thành
công việc thỏa thuận chậm nhất là ngày 07/5/2018. Văn phòng L2 phải thực hiện
hoàn tất công việc khi các bên hòa giải thành, có quyết định của Ủy ban nhân
dân tỉnh B giao quyền sử dụng đất cho bên ông Quách Ngọc L hoặc bản án có
hiệu lực của Tòa án có thẩm quyền về việc giải quyết vụ án.
Từ ngày 07/5/2018 (ngày hết thời hạn thỏa thuận theo hợp đồng) đã nhiều
lần phía ông P đốc thúc, nhắc nhỡ nhưng phía Văn phòng Luật sư T & Cộng sự
vẫn chưa hoàn thành công việc theo thỏa thuận trong hợp đồng dịch vụ pháp lý
số 22/2017.HĐ/DS ngày 07/9/2017. Tính đến thời điểm khởi kiện (ngày
16/10/2020), hợp đồng dịch vụ pháp lý nói trên đã quá thời hạn hơn 02 năm
nhưng Văn phòng Luật sư T & Cộng sự không hoàn thành công việc theo hợp
đồng, các cơ quan nhà nước không giải quyết khiếu kiện của ông Quách Ngọc L
đối với khu đất diện tích 33.854m
2
tại phường A, thành phố D, tỉnh Bình
Dương. Ông Trần Kim P xác định bị đơn là Văn phòng Luật sư T & Cộng sự đã
vi phạm Điều 2 của hợp đồng, vi phạm thời hạn của hợp đồng. Do ông P đã
nhiều lần đến trụ sở Văn phòng Luật sư T & Cộng sự gặp trực tiếp Luật sư Vũ
Ngọc T – Trưởng Văn phòng đề nghị chấm dứt hợp đồng dịch vụ pháp lý, đề
nghị Văn phòng trả lại số tiền đã nhận tạm ứng 1.000.000.000 đồng vào ngày
07/9/2017 nhưng ông Vũ Ngọc Thanh T không đồng ý hủy hợp đồng, trả lại tiền
tạm ứng và thách thức ông P thưa kiện.
3
Nguyên đơn ông Trần Kim P khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết đối với
bị đơn Văn phòng Luật sư T & Cộng sự như sau: hủy Hợp đồng dịch vụ pháp lý
số 22/2017.HĐ/DS ngày 07/9/2017 giữa ông Trần Kim P và Văn phòng Luật sư
T & Cộng sự và tuyên buộc Văn phòng L2 phải trả lại cho ông Trần Kim P số
tiền 1.000.000.000 đồng (một tỷ đồng) là số tiền ông P đã nộp tạm ứng cho Văn
phòng Luật sư T & Cộng sự theo phiếu thu ngày 07/9/2017.
- Quá trình tố tụng, ý kiến của bị đơn là Văn phòng Luật sư T & Cộng sự
và người đại diện hợp pháp của bị đơn (ông Vũ Ngọc T) như sau:
Bị đơn xác định giữa nguyên đơn là ông Trần Kim P và bị đơn là Văn
phòng Luật sư T & Cộng sự có đàm phán và đi đến ký kết “Hợp đồng đồng dịch
vụ pháp lý” số 22/2017.HĐ-DS, 07/9/2017, tổng giá trị thực hiện dịch vụ pháp
lý thỏa thuận trong hợp đồng là 10.000.000.000 đồng (mười tỷ đồng), ông P đã
nộp tạm ứng cho Văn phòng Luật sư T & Cộng sự 1.000.000.000 đồng vào ngày
07/9/2017 là đúng như nguyên đơn trình bày.
Theo nội dung thỏa thuận trong hợp đồng dịch vụ pháp lý nói trên thì Văn
phòng Luật sư T & Cộng sự sẽ cử người (Luật sư) tiến hành nghiên cứu hồ sơ,
tổng hợp chứng cứ, tư vấn, soạn thảo đơn thư khiếu nại, thực hiện các dịch vụ
khác liên quan đến việc khiếu nại đòi lại diện tích đất 44.000m
2
(đo đạc thực tế
là 33.854m
2
) tại phường A, thành phố D, tỉnh Bình Dương của ông Quách Ngọc
L (do ông P làm đại diện) và Ủy ban nhân dân tỉnh B. Thời gian thực hiện công
việc theo hợp đồng dự kiến từ 05 đến 08 tháng bắt đầu từ ngày ký hợp đồng.
Trong thời gian này, nếu cơ quan có thẩm quyền hòa giải thành vụ việc khiếu
kiện của ông Quách Ngọc L, có quyết định giải quyết khiếu nại chấp nhận cho
ông L được quyền sử dụng khu đất 33.854m
2
nói trên hoặc có bản án, quyết định
có hiệu lực của Tòa án có thẩm quyền công nhận cho ông Quách Ngọc L sử
dụng khu đất trên thì ông P sẽ thanh toán toàn bộ số tiền còn lại 9.000.000.000
đồng cho Văn phòng L2.
Bị đơn xác định không vi phạm hợp đồng, cụ thể không vi phạm Điều 2,
khoản B của Hợp đồng đồng dịch vụ pháp lý số 22/2017.HĐ-DS ngày
07/9/2017 như đơn khởi kiện của nguyên đơn ông Trần Kim P và lời trình bày
của nguyên đơn trong quá trình tố tụng, cụ thể như sau:
- Thứ nhất, từ ngày ký kết Hợp đồng dịch vụ pháp lý (ngày 07/9/2017)
cho đến thời điểm khởi kiện (ngày 16/10/2020) và thậm chí đến nay, Văn phòng
luật sư T & Cộng sự đã liên tục làm đơn khiếu nại, đơn yêu cầu giải quyết khẩn
cấp gửi các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền từ Trung ương đến địa phương
như Văn phòng C, Thanh tra Chính phủ, Bí thư Tỉnh ủy, Đoàn Đại biểu Quốc
hội tỉnh, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh B, v.v... Trong đó điển hình nhất là đơn
khiếu nại gửi đến Văn phòng Chính phủ đã được cơ quan này chấp thuận và Văn
phòng C đã ban hành Thông báo số 207/TB-VPCP ngày 12/6/2019 về việc
thông báo ý kiến kết luận của Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ Trương
Hòa B về việc giải quyết khiếu nại của ông Quách Ngọc L: giao cho Bộ T2 chủ
trì phối hợp với Thanh tra Chính phủ, Bộ Tư pháp và Ủy ban nhân dân tỉnh B
kiểm tra rà soát đề xuất biện pháp giải quyết khiếu nại của ông Quách Ngọc L
4
theo đúng quy định của pháp luật. Bộ T2 báo cáo Thủ tướng Chính phủ kết quả
thực hiện trước ngày 01/8/2019. Tuy nhiên, sau khi có văn bản thông báo số
207/TB-VPCP của Văn phòng C - 19 bùng phát trên toàn quốc trong đó có tỉnh
Bình Dương nên văn bản chỉ đạo giải quyết khiếu nại của ông Quách Ngọc L từ
Văn phòng C chưa được các cơ quan có thẩm quyền xem xét, giải quyết là yếu
tố khách quan, không do lỗi của Văn phòng Luật sư T & Cộng sự không thực
hiện công việc dịch vụ pháp lý với ông Trần Kim P. Để Văn phòng Chính phủ
chấp nhận đơn khiếu nại và các tài liệu, chứng cứ gửi kèm theo đơn khiếu nại
của ông Quách Ngọc L và cơ sở để Văn phòng Chính phủ ban hành Thông báo
số 207/TB-VPCP thì Văn phòng L2 đã đặt vé máy bay cho ông Trần Kim P bay
ra Hà Nội, nghỉ tại nhà khách Chính phủ trong thời gian 03 ngày để trực tiếp
tham gia gặp gỡ cán bộ tiếp dân của Văn phòng C, trực tiếp trao đổi và sửa
chữa, bổ sung đơn khiếu nại, đơn yêu cầu giải quyết theo hướng dẫn của Phòng
Tiếp dân Văn phòng Chính phủ. Cũng trong thời gian này (tháng 6/2019), ông
Vũ Ngọc T đã chủ động gặp ông T1 là người nhà của Thủ tướng Chính phủ đặt
yến tiệc trong khách sạn 5 sao tại Hà nội để chiêu đãi cán bộ lãnh đạo Chính
phủ, trong đó ông P có tên trong danh sách khách mời đặc biệt tại yến tiệc trên.
Tổng các chi phí do Văn phòng Luật sư T & Cộng sự đã chi trong thời gian này
lớn hơn số tiền đã nhận tạm ứng của ông Trần Kim P (hơn 1.000.000.000 đồng)
nhưng đây là dịch vụ nhạy cảm, không thể có hóa đơn, chứng từ, bị đơn chỉ
cung cấp được 05 đến 06 ảnh chụp ông P cùng cán bộ Văn phòng Luật sư T &
Cộng sự tại Nhà khách Chính phủ.
- Thứ hai, trong quá trình đi xác minh, thu thập tài liệu chứng cứ liên quan
đến việc khiếu nại đòi lại đất của gia đình ông Quách Ngọc L đầu năm 2020,
Văn phòng L2 biết được trước khi ký hợp đồng ủy quyền cho ông Trần Kim P,
ông Quách Ngọc L đã ủy quyền và nhận một số tiền rất lớn của ông Nguyễn
Văn L1 và bà Nguyễn Thị Mỹ H, ở phường L, thành phố B, tỉnh Đồng Nai để
thực hiện các công việc dịch vụ tương tự nội dung ông P đã ký với Văn phòng
Luật sư T & Cộng sự nhưng không thực hiện được nhiệm vụ. Văn phòng Luật
sư T & Cộng sự đã thông báo sự việc này cho ông P biết và dự báo có khả năng
sẽ có sự tranh chấp giữa các bên khi thực hiện các công việc theo ủy quyền, ông
P đã hứa sẽ kiểm tra lại thông tin và trao đổi ý kiến sau với Văn phòng Luật sư T
& Cộng sự. Sau khi đi xác minh nội dung thông tin về vụ việc, ông P biết chắc
chắn rằng sau khi có kết quả giải quyết của các cơ quan chức năng, việc phát
sinh tranh chấp giữa ông Trần Kim P, ông Quách Ngọc L, ông Nguyễn Văn L1
và bà Nguyễn Thị Mỹ H là không thể tránh khỏi nên ông P đến Văn phòng Luật
sư T & Cộng sự yêu cầu hủy hợp đồng dịch vụ pháp lý với Văn phòng Luật sư T
& Cộng sự và đòi lại số tiền 1.000.000.000 đồng tiền tạm ứng với lý do là lâu
quá mà chưa có kết quả. Việc này cũng ảnh hưởng đến tiến độ thực hiện công
việc của Văn phòng Luật sư T & Cộng sự theo hợp đồng dịch vụ pháp lý số
22/2017.HĐ/DS.
Mặt khác, trong 03 năm qua Văn phòng Luật sư T & Cộng sự đã bỏ rất
nhiều tiền công tác phí và mất rất nhiều thời gian đi lại, số tiền chi phí đã vượt
qua cả số tiền đã nhận tạm ứng nói trên của ông P cũng chỉ nhằm mục đích duy
5
nhất là thực hiện thành công nhiệm vụ của mình đối với ông Trần Kim P để
được nhận số tiền còn lại theo hợp đồng dịch vụ pháp lý đã ký kết giữa hai bên.
Trước yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Trần Kim P, bị đơn là Văn phòng
Luật sư T & Cộng sự đồng ý chấm dứt Hợp đồng đồng dịch vụ pháp lý số
22/2017.HĐ/DS ngày 07/9/2017 giữa Văn phòng Luật sư T & Cộng sự với ông
Trần Kim P nhưng không đồng ý trả lại cho ông P số tiền 1.000.000.000 đồng
tạm ứng theo yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 12/2021/DS-ST ngày 11/3/2021 của Tòa án
nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương đã tuyên:
“Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Trần Kim P.
Hợp đồng dịch vụ pháp lý số 22/2017.HĐ/DS ngày 07/9/2017 đã ký giữa
ông P và Văn phòng Luật sư T & Cộng sự đã chấm dứt hiệu lực kể từ ngày
07/5/2018.
Buộc Văn phòng Luật sư T & Cộng sự phải trả cho ông Trần Kim P số
tiền đã nhận là 1.000.000.000 đồng”.
Bị đơn Văn phòng Luật sư T & Cộng sự đã kháng cáo bản án sơ thẩm nói
trên, đồng thời Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Dầu Một,
tỉnh Bình Dương cũng đã có quyết định số 20/QĐKNPT-VKS-DS, ngày
23/3/2021 kháng nghị Bản án dân sự sơ thẩm số 12/2021/DS-ST ngày 11/3/2021
của Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một.
Tại Bản án dân sự phúc thẩm số 169/2021/DS-PT ngày 18/11/2021 của
Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương đã quyết định sửa một phần Bản án dân sự sơ
thẩm số 12/2021/DS-ST ngày 11/3/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Thủ
Dầu Một, tỉnh Bình Dương như sau:
“- Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Trần Kim P đối với
bị đơn Văn phòng Luật sư T & Cộng sự về việc “Tranh chấp hợp đồng dịch vụ
pháp lý”.
- Hủy Hợp đồng dịch vụ pháp lý số 22/2017.HĐ/DS ngày 07/9/2017 được
ký kết giữa ông Trần Kim P và Văn phòng Luật sư T & Cộng sự.
- Buộc Văn phòng L2 phải trả lại cho ông Trần Kim P số tiền đã nhận
theo Phiếu thu ngày 07/9/2017 là 1.000.000.000 đồng (một tỷ đồng)”.
Sau khi Bản án dân sự phúc thẩm số 169/2021/DS-PT ngày 18/11/2021
của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương có hiệu lực thi hành. Ngày 28/11/2022,
Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh có Quyết định
số 94/KN-DS kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm đối với Bản án dân sự
phúc thẩm số 169/2021/DS-PT ngày 18/11/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình
Dương, đề nghị Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử
giám đốc thẩm hủy Bản án dân sự phúc thẩm số 169/2021/DS-PT ngày
18/11/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương và hủy Bản án dân sự sơ
thẩm số 12/2021/DS-ST ngày 11/3/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Thủ
6
Dầu Một, tỉnh Bình Dương giao hồ sơ về cho Tòa án nhân dân thành phố Thủ
Dầu Một, tỉnh Bình Dương giải quyết lại sơ thẩm theo quy định pháp luật.
Tại Quyết định giám đốc thẩm số 33/2023/DS-GĐT ngày 03/7/2023 của
Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:
“Hủy Bản án dân sự phúc thẩm số 169/2021/DS-PT ngày 18/11/2021 của
Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương và Bản án dân sự sơ thẩm số 12/2021/DS-ST
ngày 11/3/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương
về vụ án “Tranh chấp hợp đồng dịch vụ pháp lý” giữa nguyên đơn là ông Trần
Kim P với bị đơn là Văn phòng Luật sư T & Cộng sự. Giao hồ sơ vụ án cho Tòa
án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm lại theo
quy định của pháp luật…”
Sau khi thụ lý, giải quyết lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm: Nguyên đơn là
ông Trần Kim P vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện ban đầu: “Yêu cầu hủy Hợp
đồng dịch vụ pháp lý số 22/2017.HĐ/DS đã ký kết ngày 07/9/2017 giữa ông
Trần Kim P và Văn phòng L2; buộc Văn phòng L2 trả lại cho ông Trần Kim P
số tiền 1.000.000.000 đồng”. Nguyên đơn không cung cấp thêm tài liệu, chứng
cứ nào mới đồng thời có đơn xin từ chối đối chất, hòa giải, xin vắng mặt trong
các buổi hòa giải, xét xử của Tòa án. Bị đơn là Văn phòng Luật sư T & Cộng sự
thay đổi ý kiến về vụ án như sau: “Không đồng ý hủy Hợp đồng dịch vụ pháp lý
số 22/2017.HĐ/DS đã ký kết ngày 07/9/2017 giữa ông Trần Kim P và Văn
phòng Luật sư T & Cộng sự” do bị đơn đang thực hiện và bị đơn không vi phạm
hợp đồng nên yêu cầu được tiếp tục thực hiện hợp đồng dịch vụ pháp lý nêu
trên. Khi hoàn thành công việc, ông P phải thanh toán số tiền 9.000.000.000
đồng còn lại cho Văn phòng Luật sư T & Cộng sự.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 88/2024/DS-ST ngày 16/7/2024 của Tòa án
nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương, đã quyết định:
“Không chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Trần
Kim P đối với bị đơn Văn phòng Luật sư T & Cộng sự về việc: Tranh chấp hợp
đồng dịch vụ pháp lý.
Tuyên bố Hợp đồng dịch vụ pháp lý số 22/2017.HĐ/DS ngày 07/9/2017
đã ký giữa ông Trần Kim P và Văn phòng Luật sư T & Cộng sự là vô hiệu.
- Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Trần Kim P
đối với bị đơn Văn phòng Luật sư T & Cộng sự về việc yêu cầu hoàn trả số tiền
đã tạm ứng là 1.000.000.000 đồng (một tỷ đồng):
Buộc Văn phòng Luật sư T & Cộng sự phải hoàn trả cho ông Trần Kim P
số tiền đã nhận là 1.000.000.000 đồng (một tỷ đồng) theo Phiếu thu ngày 07
tháng 9 năm 2017”.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về án phí, nghĩa vụ chậm thi hành án,
quyền kháng cáo của các đương sự.
Sau khi tuyên án sơ thẩm, ngày 24/7/2024, bị đơn là Văn phòng Luật sư T
& Cộng sự kháng cáo toàn bộ án sơ thẩm, đề nghị sửa bản án sơ thẩm, không
7
chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc yêu cầu Văn phòng Luật
sư T & Cộng sự trả lại số tiền 1.000.000.000 đồng (một tỷ đồng).
Tại phiên tòa phúc thẩm, người đại diện hợp pháp của bị đơn Văn phòng
Luật sư T & Cộng sự là ông Vũ Ngọc T vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo, các
đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.
Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương phát biểu quan điểm:
- Về tố tụng: Những người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng đã
thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
- Về nội dung: Tòa án cấp sơ thẩm xét xử tuyên bố Hợp đồng dịch vụ
pháp lý ký kết ngày 07/9/2017 giữa ông Trần Kim P và Văn phòng Luật sư T &
Cộng sự vô hiệu và tuyên buộc Văn phòng Luật sư T & Cộng sự hoàn trả cho
ông Trần Kim P số tiền 1.000.000.000 đồng (một tỷ đồng) đã nhận theo phiếu
thu đề ngày 07/9/2017 là có căn cứ, đúng quy định pháp luật. Bị đơn kháng cáo
nhưng không cung cấp được tài liệu, chứng cứ nào khác chứng minh đã sử dụng
số tiền tạm ứng chi phí cho công việc dịch vụ pháp lý đã thỏa thuận. Đề nghị
Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự, tuyên
không chấp nhận kháng cáo của bị đơn Văn phòng Luật sư T & Cộng sự; giữ
nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 88/2024/DS-ST ngày 16/7/2024 của Tòa án
nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương.
Sau khi nghiên cứu các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được
thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, lời trình bày
của các đương sự, ý kiến của Kiểm sát viên.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Về tố tụng:
[1.1] Kháng cáo của bị đơn Văn phòng Luật sư T & Cộng sự trong hạn
luật định. Căn cứ Điều 293 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án cấp phúc thẩm
thụ lý và xét xử vụ án theo quy định.
[1.2] Nguyên đơn là ông Trần Kim P có đơn yêu cầu giải quyết xét xử
vắng mặt nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn ông Trần
Kim P theo quy định tại Điều 296 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2] Về nội dung: căn cứ Hợp đồng dịch vụ pháp lý số 22/2017.HĐ/DS,
ngày 07/9/2017, giữa ông Trần Kim P và Văn phòng Luật sư T & Cộng sự, tại
Điều 1, Điều 2 của hợp đồng thể hiện công việc các bên thỏa thuận như sau:
Ông P (bên B) là người đại diện thay mặt ông Quách Ngọc L khiếu nại yêu cầu
công nhận quyền sử dụng diện tích 44.800m
2
(đo đạc thực tế là 33.854m
2
) tại
phường A, thành phố D, tỉnh Bình Dương. Ông P yêu cầu Văn phòng L2 (bên
A) cử Luật sư trực tiếp tham gia tư vấn pháp luật, hoàn tất các thủ tục pháp lý
cho quá trình tham gia khiếu nại giải quyết vụ việc tại tỉnh Bình Dương; soạn
đơn khiếu nại và những kiến nghị cần thiết gửi các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền; lập hồ sơ khởi kiện, tham gia tố tụng tại Tòa án; nghiên cứu hồ sơ, xác
8
minh, thu thập chứng cứ, tham gia phiên tòa, yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm
quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bên B, công nhận cho bên B được
sử dụng 44.800m
2
đất nêu trên. Tổng chi phí thù lao dịch vụ, công tác phí bên B
phải trả cho bên A trọn gói là 10.000.000.000 đồng (mười tỷ đồng), bên B đã chi
tạm ứng trước số tiền 1.000.000.000 đồng (một tỷ đồng) theo phiếu thu ngày
07/9/2017 của Văn phòng Luật sư T & Cộng sự, số tiền 9.000.000.000 đồng
(chín tỷ đồng) còn lại sẽ được hai bên quyết toán khi hoàn thành công việc. Tại
khoản 4.2 Điều 4 của hợp đồng các bên đã thỏa thuận “Trường hợp UBND tỉnh
B không ban hành quyết định giải quyết khiếu nại của bên B, Tòa án nhân dân
cấp có thẩm quyền ra bản án có hiệu lực pháp luật không chấp nhận yêu cầu
khởi kiện công nhận quyền sử dụng đất cho bên B như Điều 1 trên đây thì bên A
phải thanh toán lại cho bên B toàn bộ số tiền bên A đã nhận theo hóa đơn,
chứng từ bên B cung cấp”. Quá trình thực hiện hợp đồng, ông P (bên B) cho
rằng từ khi ký hợp đồng đến thời điểm khởi kiện, Văn phòng L2 không thực
hiện công việc theo thỏa thuận, vi phạm thời hạn của hợp đồng (Hợp đồng kết
thúc ngày 07/5/2018) nên khởi kiện yêu cầu hủy Hợp đồng dịch vụ pháp lý số
22/2017.HĐ/DS ngày 07/9/2017 giữa ông P và Văn phòng Luật sư T & Cộng
sự, buộc Văn phòng L2 trả lại số tiền đã nhận 1.000.000.000 đồng. Văn phòng
Luật sư T & Cộng sự cho rằng đã thực hiện đúng công việc theo hợp đồng, hiện
đang chờ kết quả cuối cùng, không vi phạm thời hạn thực hiện hợp đồng, các chi
phí do Văn phòng Luật sư T & Cộng sự đã bỏ ra để thực hiện công việc nhiều
hơn so với số tiền tạm ứng. Văn phòng Luật sư T & Cộng sự dẫn chiếu lý do
không vi phạm thời hạn hợp đồng theo khoản 4.5 Điều 4 của hợp đồng: “Nếu do
vụ việc phức tạp, có trở ngại khách quan thì hai bên có thể thỏa thuận kéo thêm
thời gian thực hiện hợp đồng, các thỏa thuận này phải thể hiện bằng phụ lục
hợp đồng hoặc bằng biên bản ghi nhớ kèm theo mới có giá trị pháp lý”. Năm
2019, Văn phòng Luật sư T & Cộng sự vẫn liên tục gửi đơn khiếu nại đi nhiều
cơ quan từ tỉnh Bình Dương đến Trung ương từ đó mới có Thông báo số
207/TB-VPCP ngày 12/6/2019 của Văn phòng C nhưng ông P không ý kiến nên
mặc nhiên được xem là hợp đồng dịch vụ pháp lý giữa hai bên đã được gia hạn
chứ không kết thúc vào ngày 07/5/2018 nên Văn phòng Luật sư T & Cộng sự
không đồng ý hủy hợp đồng, không đồng ý trả lại số tiền 1.000.000.000 đồng
cho ông Trần Kim P.
[3] Xét các điều kiện do các bên đã thỏa thuận tại Hợp đồng dịch vụ pháp
lý số 22/2017.HĐ/DS, thấy rằng:
[3.1] Tại khoản 5 Điều 3 của Hợp đồng đã thể hiện ý chí của các bên về
tiền thù lao dịch vụ và công tác phí trong suốt quá trình thực hiện đến khi kết
thúc công việc theo hợp đồng là 10.000.000.000 đồng (mười tỷ đồng), bên B
(ông P) chi tạm ứng trước 1.000.000.000 đồng (một tỷ đồng), số tiền còn lại
9,000.000.000 đồng (chín tỷ đồng) hai bên sẽ thanh toán khi phía ông P (bên B)
nhận được quyết định hành chính của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền hoặc
Tòa án nhân dân cấp có có thẩm giải quyết công nhận cho ông Quách Ngọc L
được quyền quản lý sử dụng diện tích đất tranh chấp. Như vậy, thỏa thuận trên
đã được xác định việc thực hiện trọn gói dịch vụ trong thời gian tối đa 08 tháng
9
tính từ ngày 07/9/2017 đến ngày 07/5/2018 tổng chi phí trọn gói là
10.000.000.000 đồng (mười tỷ đồng), không có căn cứ số tiền chi phí được chi
cho công đoạn nào của hợp đồng giữa hai bên. Do đó, nếu trường hợp công việc
hoàn thành có kết quả đúng thỏa thuận giữa hai bên thì ông Trần Kim P phải
thanh toán cho Văn phòng Luật sư T & Cộng sự tổng số tiền là 10.000.000.000
đồng, trường hợp thỏa thuận không đạt được thì phía Văn phòng Luật sư T &
Cộng sự phải hoàn trả cho ông Trần Kim P số tiền đã nhận là 1.000.000.000
đồng. Quá trình thực hiện hợp đồng phía bị đơn là Văn phòng Luật sư T & Cộng
sự cho rằng đã nhiều lần soạn thảo gửi đến các cơ quan có thẩm quyền như: Đơn
khiếu nại lần thứ hai ngày 16/10/2017 và đơn yêu cầu giải quyết ngày
27/11/2017 gửi Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh B; đơn yêu cầu
giải quyết ngày 08/11/2017 gửi Văn phòng Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh B; đơn
khiếu nại khẩn cấp ngày 25/10/2018 gửi Tổng Thanh tra Chính phủ (kèm theo
08 giấy báo phát của Bưu điện và có đề nghị ông P hợp tác cùng ra thành phố
Hà Nội, lưu trú tại Nhà khách Chính phủ để ký tên, bổ sung tài liệu, chứng cứ
theo yêu cầu của cơ quan Văn phòng C, tại Hà Nội, ông Trần Kim P đã được
mời dự yến tiệc ngoại giao tại khách sạn 5 sao để phục vụ công việc khiếu nại
vào tháng 6/2019. Đến nay, Văn phòng Luật sư T & Cộng sự vẫn đang chờ kết
quả giải quyết khiếu nại của ông Quách Ngọc L theo Thông báo báo số 207/TB-
VPCP, ngày 12/6/2019 của Văn phòng C nhưng vẫn chưa nhận được kết quả.
[3.2] Tại khoản 5 Điều 3 của Hợp đồng, các bên thống nhất thỏa thuận
“Thời hạn bắt đầu thực hiện dịch vụ pháp lý được tính từ ngày hai bên ký kết
hợp đồng dịch vụ pháp lý cho đến khi giải quyết xong vụ việc, hòa giải thành
hoặc có quyết định giải quyết giao quyền sử dụng đất hoặc bản án có hiệu lực
pháp luật của Tòa án nhân dân cấp có thẩm quyền giao quyền sử dụng đất trên
cho bên ông P; thời hạn của hợp đồng dự kiến từ 05 - 08 tháng”. Ngoài ra, tại
mục 4.2 Điều 4 của hợp đồng dịch vụ đã ký thì “Trong trường hợp UBND tỉnh B
không ban hành quyết định giải quyết khiếu nại của bên B, Tòa án nhân dân cấp
có thẩm quyền ra bản án có hiệu lực pháp luật không chấp yêu cầu khởi kiện
công nhận quyền sử dụng đất cho bên B như Điều 1 trên đây thì bên A phải
thanh toán lại cho bên B toàn bộ số tiền bên A đã nhận theo hóa đơn chứng từ
bên B cung cấp”.
Như vậy, tại thời điểm giao kết hợp đồng dịch vụ pháp lý các chủ thể
tham gia ký kết hợp đồng có năng lực hành vi dân sự. Tuy nhiên, theo nội dung
thỏa thuận là vi phạm khoản 2 Điều 5 của Luật Luật sư năm 2006, sửa đổi, bổ
sung năm 2012 về nguyên tắc cơ bản trong hành nghề Luật sư là “tuân theo Quy
tắc Đạo đức và ứng xử nghề nghiệp Luật sư Việt Nam”. Tại Quy tắc 9 của Bộ Q
(ban hành kèm theo Quyết định số 201/QĐ-HĐLSTQ ngày 13/12/2019 của Hội
đồng Luật sư toàn quốc) quy định về những việc Luật sư không được làm trong
quan hệ với khách hàng. Trong đó, Quy tắc 9.8 quy định “Luật sư không được
hứa hẹn, cam kết bảo đảm kết quả vụ việc về những nội dung nằm ngoài khả
năng, điều kiện thực hiện của Luật sư”. Vì vậy, hợp đồng dịch vụ pháp lý đã ký
giữa ông P và Văn phòng Luật sư T & Cộng sự vô hiệu ngay từ thời điểm giao
kết do vi phạm điều cấm của pháp luật theo quy định theo quy định tại Điều 122
10
và Điều 123 của Bộ luật Dân sự năm 2015. Do vậy, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử
tuyên bố Hợp đồng dịch vụ pháp lý số 22/2017.HĐ/DS ngày 07/9/2017 đã ký
giữa ông Trần Kim P với Văn phòng Luật sư T & Cộng sự vô hiệu và xử lý hậu
quả của hợp đồng vô hiệu theo quy định tại các điều 122, 123 của Bộ luật Dân
sự buộc các bên hoàn trả cho nhau những gì đã nhận là đúng quy định tại Điều
131 của Bộ luật Dân sự.
[3.3] Văn phòng L2 có yêu cầu về các chi phí dịch vụ đã bỏ ra thực tế
nhiều hơn số tiền tạm ứng như mua vé máy bay cho ông P ra Hà Nội, về Thành
phố Hồ Chí Minh, ăn nghỉ tại Nhà khách Văn phòng Chính phủ để điều chỉnh,
sửa đổi bổ sung đơn khiếu nại theo yêu cầu của bộ phận tiếp dân Văn phòng
Chính phủ, ông P được mời dự tiệc tại khách sạn 5 sao tại Hà Nội, …v.v. nhưng
Văn phòng Luật sư T & Cộng sự không cung cấp được hóa đơn, chứng từ, tài
liệu, chứng cứ để chứng minh và hiện nay cũng không có quy định về mức giá
chung về chi phí pháp lý trên thị trường để làm căn cứ xem xét giải quyết theo
cầu của bị đơn. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm không xem xét giải quyết phần chi
phí theo yêu cầu của Văn phòng L2 & Cộng sự là đúng quy định pháp luật.
[4] Bị đơn là Văn phòng Luật sư T & Cộng sự kháng cáo bản án sơ thẩm
nhưng không cung cấp được tài liệu, chứng cứ chứng minh cho yêu cầu kháng
cáo là có căn cứ nên Hội đồng xét xử không có cơ sở chấp nhận yêu cầu kháng
cáo của bị đơn Văn phòng Luật sư T & Cộng sự.
[5] Quan điểm của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương tại
phiên tòa phúc thẩm là phù hợp.
[6] Về án phí dân sự phúc thẩm: Văn phòng Luật sư T & Cộng sự phải
chịu án phí phúc thẩm theo quy định tại Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14
ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn,
giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
- Căn cứ khoản 1 Điều 148, khoản 1 Điều 308 và Điều 313 của Bộ luật Tố
tụng dân sự;
- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy
ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và
sử dụng án phí và lệ phí Tòa án,
1. Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn Văn phòng Luật sư T & Cộng
sự.
2. Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 88/2024/DS-ST ngày 16/7/2024
của Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương.
3. Về án phí dân sự phúc thẩm: Văn phòng Luật sư T & Cộng sự phải nộp
300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) được khấu trừ hết vào số tiền tạm ứng đã
11
nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0002483 ngày 28/8/2024
của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương.
4. Trường hợp bản án được thi hành án theo quy định tại Điều 2 Luật Thi
hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự
có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành
án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và Điều 9 Luật
Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều
30 Luật Thi hành án dân sự.
5. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Bình Dương;
- Chi cục THADS thành phố Thủ Dầu Một;
- TAND thành phố Thủ Dầu Một;
- Các đương sự;
- Lưu: HCTP, HSVA, Tòa Dân sự.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(đã ký)
Nguyễn Văn Thanh
Tải về
Bản án số 11/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 11/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 27/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 27/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 26/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 13/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 11/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 06/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 17/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 30/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 30/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 30/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 27/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 27/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 26/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 26/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 25/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 25/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 24/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 24/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 19/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm