Bản án số 486/2025/HC-PT ngày 24/04/2025 của TAND cấp cao tại TP.HCM
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 486/2025/HC-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 486/2025/HC-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 486/2025/HC-PT
Tên Bản án: | Bản án số 486/2025/HC-PT ngày 24/04/2025 của TAND cấp cao tại TP.HCM |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND cấp cao tại TP.HCM |
Số hiệu: | 486/2025/HC-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 24/04/2025 |
Lĩnh vực: | Hành chính |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ án: | Bác kháng cáo của người khởi kiện ông Bùi Lâm Q, giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm. |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Bản án số: 486/2025/HC-PT
Ngày 24 tháng 4 năm 2025
V/v: “Khiếu kiện quyết định xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Trần Thị Hòa Hiệp
Các Thẩm phán: Ông Nguyễn Văn Minh
Bà Đinh Ngọc Thu Hương
- Thư ký phiên toà: Bà Nguyễn Thị Châu Loan - Thư ký Toà án nhân dân
cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh
tham gia phiên toà: Ông Phạm Văn Nhàn - Kiểm sát viên.
Ngày 24 tháng 4 năm 2025 tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành
phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hành chính phúc thẩm thụ
lý số: 1096/2024/TLPT-HC ngày 20 tháng 11 năm 2024 về “Khiếu kiện quyết
định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai”.
Do Bản án hành chính sơ thẩm số: 466/2024/HC-ST ngày 23 tháng 9 năm
2024 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 751/2025/QĐ-PT ngày
31 tháng 3 năm 2025 giữa các đương sự:
- Người khởi kiện: Ông Bùi Lâm Q, sinh năm 1986 (vắng mặt);
Địa chỉ: Số B Hòa Bình, Phường E, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Huỳnh Minh V, sinh năm 1972 (có
mặt);
Địa chỉ: Số B (Lầu B) L, phường V, Quận C, Thành phố Hồ Chí Minh.
- Người bị kiện: Chủ tịch Ủy ban nhân dân Quận D2 (vắng mặt);
Địa chỉ: Số A Đ, Phường A, Quận D, Thành phố Hồ Chí Minh.
Người đại diện theo ủy quyền của người bị kiện: Ông Võ Thanh D, sinh
năm 1970 - Chức vụ: Phó Chủ tịch (vắng mặt);
2
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị kiện:
1. Bà Nguyễn Phượng L, sinh năm: 1983 - Chức vụ: Phó Trưởng phòng
Phòng T3 (vắng mặt);
2. Ông Lê Ngọc T, sinh năm 1978 - Chức vụ: Phó Trưởng phòng Phòng Tư
pháp Quận 4 (có mặt).
- Người kháng cáo: Người khởi kiện là ông Bùi Lâm Q.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo Bản án sơ thẩm, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Theo đơn khởi kiện và quá trình tố tụng, người khởi kiện ông Bùi Lâm Q có
người đại diện theo ủy quyền ông Huỳnh Minh V trình bày:
Vào ngày 18/9/2014, ông Bùi Lâm Q được người cô ruột là bà Bùi Thị E
tặng cho căn nhà (không số) diện tích xây dựng khoảng 35m
2
, có gác gỗ, mái
tôn, vị trí kế bên nhà 4 N, Phường B, Quận D, Thành phố Hồ Chí Minh. Thời
điểm ông Q nhận căn nhà nói trên thì hiện trạng nhà đất tại khu vực này là khu
dân cư, có đường đi, có điện, nước; không có ai tranh chấp về quyền sở hữu, sử
dụng hoặc thông báo giải tỏa của chính quyền địa phương hoặc cơ quan có thẩm
quyền.
Khi ông Q nhận nhà thì hiện trạng chỉ có căn nhà chính dùng để ở và phần
nhà phụ là nhà kho liền kề với nhau. Về sau khi đo đạc lập bản vẽ xử lý hành
chính thì các cơ quan có thẩm quyền của Quận D tự chia căn nhà nói trên thành
02 căn gồm: Nhà số 02 (nhà chính) và nhà số A (nhà kho) - theo Bản đồ hiện
trạng vị trí ngày 28/11/2022.
- Căn nhà số B: Chủ tịch Ủy ban nhân dâD2 (sau đây viết tắt là UBND)
Quận D ban hành Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 48/QĐ-UBND-
XPVPHC ngày 27/01/2023. Nội dung: Xử phạt ông Bùi Lâm Q về hành vi
chiếm đất phi nông nghiệp, diện tích 28,5m
2
, mức phạt 30.000.000 đồng; buộc
khôi phục lại tình trạng ban đầu; buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp với số tiền
253.901 đồng.
- Căn nhà số A: Chủ tịch D2 ban hành Quyết định xử phạt vi phạm hành
chính số 51/QĐ-UBND-XPVPHC ngày 30/01/2023. Nội dung: Xử phạt ông Bùi
Lâm Q về hành vi chiếm đất phi nông nghiệp, diện tích 18,9m
2
, mức phạt
30.000.000 đồng; buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu; buộc nộp lại số lợi bất
hợp pháp với số tiền 267.080 đồng.
Nhận thấy việc Chủ tịch D2 ban hành quyết định xử phạt vi phạm hành
chính trái với quy định của pháp luật, gây thiệt hại về tài sản cho ông Q nên ông
đã làm đơn khiếu nại đối với cả hai Quyết định nói trên. Kết quả giải quyết
khiếu nại như sau:
- Căn nhà số B: Ngày 28/4/2023, Chủ tịch D2 đã ban hành Quyết định giải
quyết khiếu nại (lần đầu) số 771/QĐ-UBND-NC không chấp nhận khiếu nại của
3
ông Q, giữ nguyên Quyết định số 48/QĐ-UBND-XPVPHC ngày 27/01/2023 của
Chủ tịch D2;
- Căn nhà số A: Ngày 12/5/2023, Chủ tịch D2 đã ban hành Quyết định giải
quyết khiếu nại (lần đầu) số 779/QĐ-UBND-NC không chấp nhận khiếu nại của
ông Q, giữ nguyên Quyết định số 51/QĐ-UBND-XPVPHC ngày 30/01/2023 của
Chủ tịch D2.
Thời gian sau đó, trong khi chờ việc khiếu nại/ khiếu kiện tiếp theo, ông Q
đã có ý kiến xin được tiếp tục sinh sống ở đây, cho đến khi Nhà nước có quy
hoạch, kế hoạch sử dụng đất để thực hiện dự án vì lợi ích chung, khi đó ông Q tự
nguyện tháo dỡ nhà, bàn giao đất. Trường hợp khu đất này được quy hoạch là
đất ở, là khu dân cư, thì cho ông được quyền đăng ký cấp giấy chứng nhận
quyền sở hữu nhà, quyền sử dụng đất ở theo quy định của pháp luật.
Tuy nhiên, vào ngày 06/9/2023 Chủ tịch D2 ban hành Quyết định cưỡng
chế buộc thực hiện biện pháp khắc phục hậu quả số 2084/QĐ-UBND-CCXP đối
với căn nhà số A và Quyết định cưỡng chế buộc thực hiện biện pháp khắc phục
hậu quả số 2085/QĐ-UBND-CCXP đối với căn nhà số B.
Đến ngày 09/01/2024, thì Chủ tịch D2 đã tổ chức cưỡng chế tháo dỡ toàn
bộ 02 căn nhà nói trên, gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản của ông Bùi Lâm
Q. Nội dung trong các Quyết định hành chính nói trên đều dành cho ông Q
quyền khiếu nại hoặc khởi kiện hành chính theo quy định của pháp luật.
Nhận thấy, các Quyết định hành chính nói trên nói trên của Chủ tịch D2 là
trái quy định của pháp luật, bởi các lý do sau:
- 02 căn nhà nói trên là do ông Q được cho đã có sẵn, có nguồn gốc do bà
Bùi Thị E (cô của ông Q) mua của người khác và cho lại ông Q từ năm 2014 chứ
ông Q không lấn chiếm, xây dựng; hiện trạng phần đất nhà số A và nhà số B từ
năm 2007 đã là đất chứ không phải là rạch;
- Thời điểm ông Q tiếp nhận quản lý, sử dụng nhà đất thì cả 02 phần đất
trên không có Cơ quan Nhà nước nào quản lý và thực hiện biện pháp quản lý
đất, nên không thể quy kết ông Q là người chiếm đất (tự ý sử dụng đất mà không
được cơ quan quản lý Nhà nước về đất đai cho phép);
- 02 căn nhà nói trên đã qua nhiều đời chủ xây cất, quản lý, sử dụng khác
nhau, việc Chủ tịch D2 chỉ xử phạt một mình ông Q là không đúng đối tượng và
không đúng thời điểm xảy ra hành vi phạm hành chính (nếu có);
- Hành vi vi phạm hành chính (nếu có) đã xảy ra từ trước năm 2020, Chủ
tịch D2, áp dụng Nghị định số 91/2019/NĐ-CP của Chính phủ (có hiệu lực thi
hành từ ngày 05/01/2020) để xử phạt là không đúng quy định của pháp luật;
- Các biên bản vi phạm hành chính về đất đai làm căn cứ để xử phạt vi
phạm hành chính có nhiều sai sót; Bản đồ hiện trạng vị trí ngày 28/11/2022 lập
không đúng quy định của pháp luật;
- 02 căn nhà nói trên, thực chất là 01 căn chính và nhà kho liền kề nhau,
Chủ tịch D2 tự chia thành 02 căn để xử phạt hành chính, với mức phạt
4
30.000.000 đồng/ mỗi căn là không phù hợp với quy định của pháp luật, gây
thiệt nghiêm trọng về tài sản cho ông Bùi Lâm Q.
Ngoài ra, hiện trạng khu đất trên Quận D cũng chưa có kế hoạch, quy
hoạch sử dụng đất cụ thể và trước mắt, nhưng Chủ tịch D2 quyết liệt ban hành
các quyết định xử phạt, khắc phục hậu quả, cưỡng chế tháo dỡ toàn bộ các căn
nhà của ông Q, mà không có bất cứ biện pháp đền bù, hỗ trợ nào là hết sức vội
vàng và gây thiệt hại nghiêm trọng về tài sản cho ông Bùi Lâm Q. Do vậy, ông
Q khiếu kiện yêu cầu Tòa án giải quyết:
1. Hủy toàn bộ Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 48/QĐ-UBND-
XPVPHC ngày 27/01/2023; Hủy toàn bộ Quyết định giải quyết khiếu nại (lần
đầu) số 771/QĐ-UBND-NC, ngày 28/4/2023; Hủy toàn bộ Quyết định cưỡng
chế buộc thực hiện biện pháp khắc phục hậu quả số 2085/QĐ-UBND-CCXP
ngày 06/9/2023 của Chủ tịch D2 (đối với căn nhà số B).
2. Hủy toàn bộ Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 51/QĐ-UBND-
XPVPHC ngày 30/01/2023; Hủy toàn bộ Quyết định giải quyết khiếu nại (lần
đầu) số 779/QĐ-UBND-NC, ngày 12/5/2023; Hủy toàn bộ Quyết định cưỡng
chế buộc thực hiện biện pháp khắc phục hậu quả số 2084/QĐ-UBND-CCXP
ngày 06/9/2023 của Chủ tịch D2 (đối với căn nhà số A).
Người bị kiện Chủ tịch Ủy ban nhân dân Quận D2 có văn bản trình bày ý
kiến:
Nguồn gốc và pháp lý 02 căn nhà có vị trí số 1 và số 2 (được xác định theo
Bản đồ hiện trạng vị trí do Phòng T3 duyệt ngày 28/11/2022) do ông Bùi Lâm Q
sử dụng.
Theo Báo cáo số 950/BC-TNMT ngày 30/9/2022 của Phòng T3 gửi Ủy ban
nhân dân Quận D2 liên quan đến các trường hợp vi phạm về đất đai và xây dựng
trên địa bàn Phường B, cụ thể:
“Ngày 29/9/2022, Phòng T3 phối hợp với Ủy ban nhân dân Phường D2
khảo sát các địa chỉ nhà - đất lấn chiếm đất công tại khu vực cuối đường V nối
dài thuộc Phường B (khu vực giáp ranh giữa Phường B và Phường C) theo đề
nghị của Ủy ban nhân dân Phường D2 tại Công văn số 132/UBND-ĐT ngày
27/9/2022.
Qua khảo sát, Tổ công tác ghi nhận tại khu vực này có 10 trường hợp xây
dựng không phép trên phần diện tích được xác định là lấn, chiếm rạch Cầu Dừa
(tiếp giáp với thửa 414, tờ bản đồ số 17, Phường B), trong đó có 3 trường hợp
phát hiện vào tháng 4/2020 (khi đo thửa 414, tờ bản đồ số 17, Phường B) và 7
căn mới phát hiện tại thời điểm khảo sát”
Để có cơ sở xác định vị trí các trường hợp vi phạm, ngày 27/10/2022, Ủy
ban nhân dân Quận D2 ban hành Kế hoạch số 361/KH-UBND khảo sát, đo đạc
và triển khai cắm mốc ngoài thực địa các trường hợp lấn chiếm rạch Cầu Dừa
tiếp giáp với thửa đất số 414, tờ bản đồ số 17, Phường B.
5
Thực hiện Kế hoạch số 361/KH-UBND ngày 27/10/2022, Tổ công tác của
quận đã thực hiện khảo sát, đo vẽ khu vực tiếp giáp thửa 414. Sau khi đo vẽ,
Đơn vị tư vấn đã áp sơ bộ ranh thực tế lên bản đồ địa chính, xác định tại vị trí
tiếp giáp thửa 414 tờ bản đồ số 17, Phường B có 14 trường hợp; trong đó có 12
trường hợp lấn chiếm rạch Cầu Dừa và 02 trường hợp chiếm đất thuộc đất đã
giải tỏa để thực hiện Dự án Bồi thường, giải phóng mặt bằng để xây dựng Công
viên H (giai đoạn 3).
Bên cạnh đó, ngày 16/3/2023, Ủy ban nhân dân Phường D2 có Báo cáo số
42/BC-UBND-ĐT về kết quả xác minh nguồn gốc, quá trình sử dụng nhà, đất tại
khu vực thửa đất số 414, Tờ bản đồ số 17-BĐĐC Phường B và khu vực tiếp giáp
thửa đất số 414 (giữa Phường B và Phường C) có nội dung:
“- Từ khoảng năm 2007, khi Nhà nước bắt đầu làm con đường đi thẳng vào
khu vực thửa đất số 414, tờ số 17 (đường V nối dài), ông Lương Hoàng V1 (địa
chỉ số D N) đã cho người san lấp hết con rạch tại khu vực thửa đất số 414 và
khu vực tiếp giáp thửa đất số 414 và được sử dụng cho tới nay.
Sau khi san lấp rạch (khoảng năm 2007) thì bãi xe ô tô cũng được hình
thành tại 02 vị trí khu đất (theo nội dung xác minh, thì bãi xe ô tô do ông V1
quản lý):
+ Một, tại khuôn viên phần sân trống do hộ nhà bà Nguyễn Thiên N, ông
Lương Nguyễn Trọng T1 sử dụng: Nay ở vị trí căn số 13 (thuộc nhóm 2), hiện
nay không còn bãi xe.
+ Hai, nằm trong khu vực tiếp giáp thửa đất số 414: Nay ở vị trí từ căn số
01 đến căn số 10 (thuộc nhóm 3: đa phần các căn này được xây mới, sửa chữa
từ năm 2021 đến nay), hiện nay không còn bãi xe.
- Về nguồn gốc hình thành 10 căn nhà (từ căn số 01 đến căn số 10 – thuộc
nhóm 3): Vào thời điểm ngày 28/4/2020, Tổ công tác của Phường 2 có thực hiện
khảo sát và chỉ phát hiện 03 trường hợp (hộ ông Nguyễn Thanh H – nay là căn
số 3; hộ bà Võ Thị Thùy T2 – nay là căn số 5; hộ ông Nguyễn Văn C – nay là
căn số 7) nên đã thực hiện lập biên bản làm việc và ghi nhận lại hình ảnh tại
khu vực tiếp giáp thửa 414. Như vậy, đối với 07 căn nhà còn lại (gồm: căn nhà
số A, 2, 4, 6, 8, 9, 10) được xây dựng mới, sửa chữa lại từ sau thời điểm khảo
sát này (sau thời điểm ngày 28/4/2020), trong đó ông Bùi Lâm Q sử dụng nhà,
đất tại vị trí căn số 1, 2)”.
Căn cứ theo hồ sơ, tài liệu, kết quả đo đạc và căn cứ Bản đồ địa chính
VN2000 lập năm 2001, xác định ông Bùi Lâm Q sử dụng 02 căn nhà có vị trí số
1 và số 2 (được xác định theo Bản đồ hiện trạng vị trí do Phòng T3 duyệt ngày
31/5/2021) được xây dựng trên phần đất có nguồn gốc là rạch Cầu D1 thuộc dự
án Công viên H:
1. Pháp lý liên quan đến rạch Cầu D.
Căn cứ điểm b, khoản 1 Điều 3 Chương II và Phụ lục ban hành kèm theo
Quyết định số 40/2019/QĐ-UBND ngày 20/12/2019 của Ủy ban nhân dân thành
6
phố quy định về phân cấp cho các Sở và Ủy ban nhân dân quận - huyện quản lý,
khai thác các tuyến sông, kênh, rạch trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh thì
rạch cầu D đã có trong danh mục được Ủy ban nhân dân Thành phD2 phân cấp
quản lý và do Ủy ban nhân dân Quận D2 quản lý.
2. Pháp lý liên quan đến dự án Công viên H.
- Quyết định số 10399/KTS-KT ngày 16/10/2000 về việc phê duyệt quy
hoạch chi tiết TL 1/1000 dự án đầu tư công trình "Công viên Khánh Hội Q" của
Kiến trúc sư trưởng thành phố;
- Quyết định số 692/QĐ-UBND-TH ngày 13/10/2008 của Ủy ban nhân dân
Quận D2 về phê duyệt đồ án quy hoạch chi tiết xây dựng đô thị tỷ lệ 1/500 khu
công viên H Phường B, Quận D. (Phần Quy hoạch – Kiến trúc – Giao thông);
với tổng diện tích theo quy hoạch là 17,6 ha; trong đó đất hiện trạng không phải
thu hồi khoảng 2,6 ha
(thuộc đất rạch, đường giao thông, …) và đất dân cư hiện
hữu 15 ha, có vị trí:
+ Phía Nam: giáp đường 14 nối dài (nay là đường V).
+ Phía Bắc: giáp đường H nối dài.
+ Phía Đông: giáp đường A (nay là đường D).
+ Phía Tây: giáp đường dự kiến mở (đường B).
- Quyết định số 5191/QĐ-UBND ngày 29/11/2008 của Ủy ban nhân dân
Thành phD2 về duyệt đồ án điều chỉnh quy hoạch chung Quận D đến năm 2020.
- Quyết định số 80/QĐ-UBND ngày 09/01/2009 của Ủy ban nhân dân
Thành phD2 về duyệt quy hoạch sử dụng đất đến năm 2010 và kế hoạch sử dụng
đất 5 năm (2006 - 2010) của Quận D; trong đó có dự án Công viên H;
- Quyết định số 883/QĐ-UBND ngày 21/02/2013 của Ủy ban nhân dân
Thành phD2 về duyệt đồ án điều chỉnh quy hoạch chi tiết xây dựng đô thị tỷ lệ
1/2000 (quy hoạch phân khu) khu dân cư liên phường 2, 3, 4, 5, 6, 8, 9, 10,
Quận D.
- Quyết định số 2206/QĐ-UBND ngày 08/5/2014 của Ủy ban nhân dân
Thành phD2 về xét duyệt quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020 và kế hoạch sử
dụng đất 5 năm (2011 - 2015) Quận D; trong đó có dự án Công viên H (giai
đoạn 3).
Thực hiện Chương trình chống ngập, một trong sáu chương trình đột phá
của Thành phố được thông qua tại Nghị quyết Đại hội IX của Đảng bộ Thành
phố và là một trong ba chương trình trọng tâm của quận được thông qua tại Nghị
quyết Đại hội X của Đảng bộ Quận D, Ủy ban nhân dân Quận D2 đã triển khai
thực hiện dự án xây dựng công viên H, trong đó có hạng mục xây dựng hồ điều
tiết tại công viên (diện tích 4,8ha) nhằm giảm ngập trên địa bàn quận và các khu
vực lân cận.
Dự án Công viên H đã được Ủy ban nhân dân Thành phD2 giao đất cho
Quận D để thực hiện Dự án, cụ thể:
7
+ Quyết định số 3073/QĐ-UB ngày 29/6/2004 của Ủy ban nhân dân Thành
phD2 về việc thu hồi và giao đất cho Ban Q1 để bồi thường thiệt hại, giải phóng
mặt bằng, chuẩn bị đầu tư xây dựng Công viên H tại Phường C và Phường E,
Quận D.
+ Quyết định số 4253/QĐ-UBND ngày 20/9/2006 của Ủy ban nhân dân
Thành phD2 về duyệt dự án di dời, tháo dỡ và thu hồi đất để xây dựng công viên
H (giai đoạn 2).
+ Quyết định số 4919/QĐ-UBND ngày 11/9/2013 của Ủy ban nhân dân
Thành phD2 về thu hồi và giao đất cho Ban Q1 để thực hiện Dự án bồi thường,
giải phóng mặt bằng để xây dựng Công viên H (giai đoạn 3).
+ Giai đoạn 4 dự kiến thực hiện trong giai đoạn từ năm 2020 -2025 nhưng
do chưa được Ủy ban nhân dân Thành phD2 bố trí vốn nên chưa thực hiện.
Như vậy, dự án đầu tư xây dựng Công viên H được Quận D thực hiện theo
đúng quy hoạch đã được phê duyệt, pháp lý dự án được thực hiện đầy đủ, đúng
quy định, công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng triển khai từ năm 2004 đến
nay, đã hoàn thành 3 giai đoạn, chuẩn bị giai đoạn 4.
Quy định pháp luật liên quan có liên quan:
1. Các hành vi bị nghiêm cấm theo quy định của pháp luật đất đai
Theo quy định của pháp luật đất đai qua các thời kỳ, hành vi lấn chiếm đất
đai bị nghiêm cấm; cụ thể:
Tại Điều 6 và Điều 85 Luật Đất đai năm 1993 (có hiệu lực từ ngày
15/10/1993 đến ngày 01/7/2004)
Điều 6:
“Nghiêm cấm việc lấn chiếm đất đai, chuyển quyền sử dụng đất trái phép,
sử dụng đất không đúng mục đích được giao, huỷ hoại đất”
Điều 85:
“Người nào lấn chiếm đất, huỷ hoại đất, chuyển quyền sử dụng đất trái
phép hoặc có hành vi khác vi phạm pháp luật đất đai, thì tuỳ theo mức độ nhẹ
hoặc nặng mà bị xử lý bằng biện pháp hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm
hình sự."
Tại Điều 140 Luật Đất đai năm 2003 (có hiệu lực từ ngày 01/7/2004 đến
ngày 01/7/2014):
“Điều 140. Xử lý đối với người vi phạm pháp luật về đất đai
Người nào lấn, chiếm đất đai, không sử dụng đất hoặc sử dụng không đúng
mục đích, chuyển mục đích sử dụng đất trái phép, huỷ hoại đất, không thực hiện
hoặc thực hiện không đầy đủ các nghĩa vụ tài chính, các thủ tục hành chính, các
quyết định của Nhà nước trong quản lý đất đai, chuyển quyền sử dụng đất trái
phép hoặc các hành vi khác vi phạm pháp luật về đất đai thì tuỳ theo tính chất,
8
mức độ vi phạm mà bị xử lý hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự
theo quy định của pháp luật."
Tại khoản 1 Điều 12 Luật Đất đai năm 2013:
“Điều 12. Những hành vi bị nghiêm cấm
1. Lấn, chiếm, hủy hoại đất đai…….”
2. Quy định liên quan đến xử lý vi phạm hành chính
Căn cứ theo quy định tại tại điểm a, khoản 2, Điều 3, Nghị định
91/2019/NĐ-CP ngày 19/11/2019 của Chính phủ:
“2. Chiếm đất là việc sử dụng đất thuộc một trong các trường hợp sau
đây:
a) Tự ý sử dụng đất mà không được cơ quan quản lý Nhà nước về đất đai
cho phép;”
3. Quy định về cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu
nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất
Theo Điều 101 Luật Đất đai năm 2013
“2.Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất không có các giấy tờ quy định
tại Điều 100 của Luật này nhưng đất đã được sử dụng ổn định từ trước ngày 01
tháng 7 năm 2004 và không vi phạm pháp luật về đất đai, nay được Ủy ban
nhân dân cấp xã xác nhận là đất không có tranh chấp, phù hợp với quy hoạch
sử dụng đất, quy hoạch chi tiết xây dựng đô thị, quy hoạch xây dựng điểm dân
cư nông thôn đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt đối với nơi đã
có quy hoạch thì được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu
nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất”
4. Liên quan đến xây dựng
Căn cứ theo khoản 4, Điều 12 Luật Xây dựng năm 2014 quy định:
“Điều 12. Các hành vi bị nghiêm cấm
4. Xây dựng công trình không đúng quy hoạch xây dựng, trừ trường hợp có
giấy phép xây dựng có thời hạn; vi phạm chỉ giới xây dựng, cốt xây dựng; xây
dựng công trình không đúng với giấy phép xây dựng được cấp”
Về thông tin quy hoạch:
Căn cứ Quyết định số 692/QĐ-UBND-TH ngày 13/10/2008 của Ủy ban
nhân dân Quận D2 về phê duyệt đồ án quy hoạch chi tiết xây dựng đô thị tỷ lệ
1/500 khu công viên H Phường B, Quận D. (Phần Quy hoạch – Kiến trúc – Giao
thông); với tổng diện tích theo quy hoạch là 17,6 ha; trong đó đất hiện trạng
không phải thu hồi khoảng 2,6 ha
(thuộc đất rạch, đường giao thông, …) và đất
dân cư hiện hữu 15 ha;
9
Căn cứ Quyết định số 5191/QĐ-UBND ngày 29/11/2008 của Ủy ban nhân
dân Thành phD2 về duyệt đồ án điều chỉnh quy hoạch chung Quận D đến năm
2020;
Căn cứ Quyết định số 883/QĐ-UBND ngày 21/02/2013 của Ủy ban nhân
dân Thành phD2 về duyệt đồ án điều chỉnh quy hoạch chi tiết xây dựng đô thị tỷ
lệ 1/2000 (quy hoạch phân khu) khu dân cư liên phường 2, 3, 4, 5, 6, 8, 9, 10,
Quận D.
Như vậy, phần nhà đất tại vị trí căn số 1 và số 2 do ông Bùi Lâm Q sử dụng
thuộc phạm vi thực hiện dự án Công viên H, vị trí khu đất thuộc đất rạch Cầu D.
Quá trình xử lý vi phạm hành chính đối với ông Bùi Lâm Q:
Căn cứ theo quy định tại tại điểm a, khoản 2, Điều 3 Nghị định
91/2019/NĐ-CP ngày 19/11/2019 của Chính phủ thì hành vi chiếm đất là việc tự
ý sử dụng đất mà không được cơ quan quản lý Nhà nước về đất đai cho phép.
Qua rà soát hồ sơ pháp lý liên quan, ông Bùi Lâm Q tự ý sử dụng 02 căn
nhà tại khu vực Phường B, 3, Quận D được xác định là căn nhà tại vị trí số 1 và
2 (theo Bản đồ hiện trạng vị trí của Phòng T3 duyệt ngày 28/11/2022) mà không
được cơ quan quản lý Nhà nước về đất đai cho phép, theo đó xác định căn nhà
tại vị trí số 1 và số 2 được xây dựng trên phần đất có nguồn gốc là rạch Cầu Dừa
thuộc dự án Công viên H.
Ngoài ra, các cơ quan chức năng của Quận D không có đề xuất việc cấp số
nhà tại nhà, đất nêu trên. Đồng thời, qua rà soát việc đăng ký, kê khai các thủ tục
về việc sử dụng nhà, đất qua các đợt kê khai (như: kê khai nhà, đất năm 2006;
Kê khai thuế sử dụng đất phi nông nghiệp hàng năm), ông Bùi Lâm Q không có
đăng ký, kê khai việc sử dụng nhà, đất này.
Như nội dung trình bày tại Mục 1 và 2 tại văn bản này, ông Bùi Lâm Q tự ý
sử dụng đất mà không được cơ quan quản lý Nhà nước về đất đai cho phép
(không đăng ký kê khai qua các kỳ kê khai, không được cấp số nhà,…) là hành
vi chiếm đất được quy định tại điểm a, khoản 2, Điều 3 Nghị định 91/2019/NĐ-
CP ngày 19/11/2019 của Chính phủ.
Căn cứ theo quy định của pháp luật đất đai và các quy định pháp luật khác
có liên quan, Tổ công tác của Quận D đã tiến hành lập Biên bản vi phạm hành
chính về lĩnh vực đất đai số 01/BB-TKTQ4-VPHC ngày 13/01/2023 đối với ông
Bùi Lâm Q tại căn nhà vị trí số 1. Ủy ban nhân dân Phường D2 tiến hành lập
Biên bản vi phạm hành chính về lĩnh vực đất đai số 48/BB-VPHC ngày
27/12/2022 đối với ông Bùi Lâm Q tại căn nhà vị trí số 2 và Biên bản xác minh
tình tiết vi phạm hành chính số 01/BB-XM ngày 04/01/2023.
Trên cơ sở đề xuất của Tổ công tác, Ủy ban nhân dân Phường D2 và ý kiến
thẩm định của cơ quan chuyên môn, ngày 07/3/2023, Chủ tịch Ủy ban nhân dân
Quận D2 ban hành 02 quyết định xử lý vi phạm hành chính đối với ông Bùi Lâm
Q tại 02 vị trí nhà đất nêu trên (Quyết định 51/QĐ-UBND-XPVPHC ngày
30/01/2023 và Quyết định 48/QĐ-UBND-XPVPHC ngày 27/01/2023).
10
Không đồng ý với các quyết định xử lý vi phạm hành chính đã ban hành,
ông Bùi Lâm Q đã có đơn khiếu nại đến Chủ tịch Ủy ban nhân dân Quận D2 để
xem xét giải quyết.
Ngày 20/4/2023 và ngày 09/5/2024, Chủ tịch Ủy ban nhân dân Quận D2 đã
tổ chức đối thoại công khai kết quả xác minh nội dung khiếu nại của ông Bùi
Lâm Q (thành phần gồm người khiếu nại, người bị khiếu nại và các cơ quan,
đơn vị liên quan).
Ngày 28/4/2023 và ngày 12/5/2023, Chủ tịch Ủy ban nhân dân Quận D2 đã
ban hành 02 quyết định giải quyết khiếu nại của ông Bùi Lâm Q theo đó giữ
nguyên toàn bộ nội dung 02 quyết định xử lý vi phạm hành chính của Chủ tịch
Ủy ban nhân dân Quận D2 về xử lý vi phạm hành chính đối với ông Bùi Lâm Q.
Ý kiến của Chủ tịch Ủy ban nhân dân Quận D2:
1. Về thẩm quyền:
Căn cứ Điều 54 và khoản 2 Điều 87 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm
2012 (được sửa đổi, bổ sung năm 2020); Điều 10 Nghị định số 118/2021/NĐ-
CP ngày 23/12/2021 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp
thi hành Luật Xử lý vi phạm hành chính; Quyết định số 1153/QĐ-UBND ngày
02/10/2021 của D2 về ban hành quy chế làm việc của D2; Quyết định số
4262/QĐ-UBND ngày 31/10/2021 của D2 về việc phân công công tác của Chủ
tịch, Phó Chủ tịch D2 và Thủ trưởng các cơ quan, đơn vị thuộc Ủy ban nhân dân
Quận D2; Quyết định số 01/QĐ-UBND-GQXP ngày 03/01/2023 của Chủ tịch
D2 về việc giao quyền xử phạt vi phạm hành chính và Quyết định số 04/QĐ-
UBND-GQXP ngày 06/01/2023 của Chủ tịch D2 về việc giao quyền cưỡng chế
thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính, việc ông Võ Thanh D, Phó Chủ
tịch D2 ký ban hành các quyết định buộc thực hiện biện pháp khắc phục hậu
quả, các quyết định cưỡng chế buộc thực hiện biện pháp khắc phục hậu quả đối
với ông Bùi Lâm Q là đúng thẩm quyền.
Căn cứ Luật Tổ chức chính quyền địa phương số 77/2015/QH13 ngày
19/6/2015; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Chính phủ và
Luật Tổ chức chính quyền địa phương ngày 22/11/2019; Luật Khiếu nại số
02/2011/QH13 ngày 11/11/2011; Nghị định số 124/2020/NĐ-CP ngày
19/10/2020 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành
Luật Khiếu nại, việc ông Lê Văn C1, Chủ tịch D2 ký ban hành các quyết định
giải quyết khiếu nại lần đầu đối với ông Bùi Lâm Q là đúng thẩm quyền.
2. Về nội dung khởi kiện:
Qua rà soát, 02 nhà đất (vị trí căn số A, và số 2) do ông Bùi Lâm Q sử dụng
không có giấy tờ pháp lý liên quan đến việc sử dụng đất, không được cơ quan
Nhà nước cấp số nhà và tất cả đều thuộc phạm vi dự án công trình công cộng
trên địa bàn Quận D (Công viên H). Đối với dự án Công viên H đã được cơ
quan Nhà nước có thẩm quyền phê duyệt quy hoạch chi tiết dự án, phê duyệt đồ
án quy hoạch chung, kế hoạch sử dụng đất, có quyết định giao đất từ năm 2000.
Công tác bồi thường giải phóng mặt bằng được chia làm 4 giai đoạn và bắt đầu
11
thực hiện giai đoạn 1 từ năm 2004. Hiện nay, công tác bồi thường, giải phóng
mặt bằng đã hoàn thành giai đoạn 1, giai đoạn 2, cơ bản hoàn thành giai đoạn 3
và chuẩn bị triển khai thực hiện giai đoạn 4.
Thực hiện Chỉ thị số 23–CT/TU và Chỉ thị số 24-CT/TU của Ban Thường
vụ Thành ủy Thành phố, và thực hiện chỉ đạo của Ủy ban nhân dân Thành phD2
tại Công văn số 1973/UBND-NCPC ngày 27/5/2020 về kết quả thực hiện Kết
luận Thanh tra số 13/KL-TTTp-P2 ngày 18/6/2019 của Ủy ban nhân dân Thành
phD2, Quận D đã tăng cường công tác quản lý, thanh tra, kiểm tra và kiên quyết
xử lý các trường hợp vi phạm hành chính về đất đai và xây dựng trên địa bàn
Quận D. Qua đó đã phát hiện 32 trường hợp vi phạm pháp luật đất đai và xây
dựng trên địa bàn Phường B, 3, Quận D; trong đó có 19 trường hợp lấn, chiếm
đất đã bồi thường giải tỏa và 13 trường hợp lấn, chiếm rạch C (thuộc phạm vi
giải tỏa để thực hiện dự án Công viên H), trong đó có trường hợp của ông Bùi
Lâm Q (vị trí căn số 1 và số 2). Tất cả các trường hợp nêu trên đều không có
pháp lý về quyền sử dụng đất, không được cơ quan có thẩm quyền cấp số nhà và
cấp phép xây dựng. Do đó, việc Chủ tịch Ủy ban nhân dân Quận D2 xử lý vi
phạm đối với các trường hợp nêu trên (trong đó có trường hợp của ông Bùi Lâm
Q) là đúng quy định.
Như vậy, 02 nhà đất (vị trí căn số A, và số 2) do ông Bùi Lâm Q sử dụng
thuộc quy hoạch đất công viên H (không phù hợp quy hoạch), ông Bùi Lâm Q tự
ý sử dụng đất tại các vị trí nêu trên mà không được cơ quan quản lý Nhà nước về
đất đai cho phép là hành vi chiếm đất (được quy định tại điểm a, khoản 2, Điều 3
Nghị định 91/2019/NĐ-CP ngày 19/11/2019 của Chính phủ). Do đó, ông Bùi
Lâm Q không được cơ quan có thẩm quyền xem xét cấp Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất theo quy định
tại Điều 101 Luật Đất đai năm 2013.
Bên cạnh đó, 02 căn nhà nêu trên được xây dựng trên phần đất không đúng
quy hoạch xây dựng (quy hoạch đất công viên H) là một trong những hành vi bị
nghiêm cấm theo quy định tại khoản 4 Điều 12 Luật Xây dựng.
Thực hiện Chỉ thị số 23–CT/TU và Chỉ thị số 24-CT/TU của Ban Thường
vụ Thành ủy Thành phố, Quận D đã tăng cường công tác quản lý, thanh tra,
kiểm tra và kiên quyết xử lý các trường hợp vi phạm hành chính về đất đai và
xây dựng trên địa bàn Quận D và căn cứ theo quy định tại khoản 11 Điều 16
Nghị định 16/2022/NĐ-CP ngày 28/01/2022 của Chính phủ quy định xử phạt vi
phạm hành chính về xây dựng, việc Chủ tịch Ủy ban nhân dân Quận D2 ban
hành Quyết định số 51/QĐ-UBND-XPVPHC ngày 30/01/2023 và Quyết định
48/QĐ-UBND-XPVPHC ngày 27/01/2023 về xử phạt vi phạm hành chính đối
với ông Bùi Lâm Q do đã có hành vi chiếm đất phi nông nghiệp tại khu vực đô
thị theo quy định tại điểm a khoản 4 và khoản 5 Điều 14 Nghị định 91/2019/NĐ-
CP ngày 19/11/2019 của Chính phủ; khoản 2 Điều 7 Nghị định số 91/2019/NĐ-
CP (được sửa đổi, bổ sung bởi khoản 2 Điều 1 Nghị định số 04/2022/NĐ-CP
ngày 06/01/2022 của Chính phủ) tại 02 vị trí nhà, đất nêu trên là đúng theo quy
định.
12
Mặt khác, do không đồng ý với các quyết định của Chủ tịch Ủy ban nhân
dân Quận D2, trong thời gian qua, các hộ dân tại khu vực đang giải quyết (trong
đó có ông Bùi Lâm Q) đã nhiều lần gửi đơn đến Ủy ban nhân dân Quận D2, Ủy
ban nhân dân Thành phD2 và các cơ quan chức năng Thành phố đề nghị xem xét
giải quyết. Theo đó, Ủy ban nhân dân Quận D2 đã có các văn bản trả lời đơn
công dân cũng như ông Bùi Lâm Q và văn bản thông tin báo cáo đến các cơ
quan Thành phố theo đề nghị. Ngày 02/8/2023, Ủy ban nhân dân Thành phD2
đã ban hành 02 Thông báo số 226/TB-UBND và Thông báo số 228/TB-UBND
về việc không thụ lý đơn tố cáo của công dân.
Từ các cơ sở nêu trên cho thấy việc Chủ tịch Ủy ban nhân dân Quận D2
ban hành 06 quyết định để xử lý vi phạm hành chính, quyết định giải quyết
khiếu nại lần đầu đối với ông Bùi Lâm Q là đúng thẩm quyền và phù hợp với hồ
sơ, pháp lý, quá trình quản lý, sử dụng nhà, đất và đúng quy định pháp luật đất
đai, pháp luật xử lý vi phạm hành chính và luật khiếu nại.
Tại Bản án hành chính sơ thẩm số: 466/2024/HC-ST ngày 23 tháng 9 năm
2024 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh quyết định:
Căn cứ các Điều 30, 32, 60, 61, 116, 193 và 206 Luật Tố tụng hành chính
2015;
Căn cứ Luật Đất đai năm 2013;
Căn cứ Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012;
Căn cứ Luật Khiếu nại năm 2011;
Căn cứ Nghị định số 91/2019/NĐ-CP ngày 19 tháng 11 năm 2019 của
Chính phủ;
Căn cứ Nghị định số 04/2022/NĐ-CP ngày 06 tháng 01 năm 2022 của
Chính phủ;
Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016
của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp,
quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Bùi Lâm Q, gồm:
- Hủy toàn bộ Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 51/QĐ-D2 ngày
30/01/2023; Quyết định giải quyết khiếu nại (lần đầu) số 779/QĐ-UBND-NC,
ngày 12/5/2023; Quyết định cưỡng chế buộc thực hiện biện pháp khắc phục hậu
quả số 2084/QĐ-UBND-CCXP ngày 06/9/2023 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân
Quận D2 (đối với căn nhà số A).
- Hủy Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 48/QĐ-D2 ngày
27/01/2023; Quyết định giải quyết khiếu nại (lần đầu) số 771/QĐ-UBND-NC,
ngày 28/4/2023; Quyết định cưỡng chế buộc thực hiện biện pháp khắc phục hậu
quả số 2085/QĐ-UBND-CCXP ngày 06/9/2023 của Chủ tịch Chủ tịch Ủy ban
nhân dân Quận D2 (đối với căn nhà số B).
13
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí và thông báo quyền
kháng cáo theo quy định pháp luật.
Ngày 23/9/2024, người khởi kiện là ông Bùi Lâm Q kháng cáo đề nghị sửa
bản án sơ thẩm.
Tại phiên tòa phúc thẩm,
Người đại diện theo ủy quyền của người khởi kiện là ông Huỳnh Minh V
trình bày:
Nguồn gốc của căn nhà nằm tại vị trí kế bên nhà 4 N, Phường B, Quận D,
Thành phố Hồ Chí Minh là do ông Bùi Lâm Q được cô ruột là bà Bùi Thị E tặng
cho thông qua giấy tờ viết tay, có xác nhận của người làm chứng. Tuy nhiên, Ủy
ban nhân dân Quận D2 đã tự chia căn nhà nêu trên thành 02 căn nhà, bao gồm:
01 căn (nhà chính) và có 01 căn nhà kho theo Bản đồ hiện trạng vị trí ngày
28/11/2022. Các quyết định xử phạt vi phạm hành chính và quyết định cưỡng
chế buộc thực hiện biện pháp khắc phục hậu quả đối với 2 căn nhà nêu trên của
ông Q được ban hành trái quy định pháp luật, không xác định đúng thời điểm vi
phạm, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của ông Q.
Biên bản xử phạt hành chính được lập sơ sài, không có chữ ký tại từng
trang mà chỉ có chữ ký tại trang cuối cùng. Biên bản làm việc ngày 27/12/2022
và Biên bản vi phạm hành chính ngày 27/12/2022 do Ủy ban nhân dân Phường
D2 lập ở 2 địa điểm khác nhau nhưng lại cùng một khung giờ là không phù hợp.
Chủ tịch Ủy ban nhân dân Quận D2 cho rằng phần diện tích nhà đất của ông Q
đã được giao cho Ủy ban nhân dâD2 vào năm 2000 là không đúng thực tế. Bởi
lẽ, khu đất có nhà đất của ông Q bị bỏ trống từ năm 2007 nên người dân mới
chuyển đến và tự xây dựng nhà cửa. Sau này có một số hộ gia đình đã chuyển
nhượng lại cho người khác.
Trình tự, thủ tục xử lý vi phạm hành chính không đảm bảo; Bản đồ hiện
trạng vị trí của Phòng T3 duyệt ngày 28/11/2022 không được ghi cụ thể thời
gian thẩm tra, kiểm tra; người ký duyệt bản đồ cũng không được nhận ủy quyền
hợp pháp từ lãnh đạo phụ trách.
Về nguồn gốc đất: Theo Báo cáo số 42/BC-UBND-ĐT ngày 16/3/2023 của
Ủy ban nhân dân Phường D2 về kết quả xác minh nguồn gốc, quá trình sử dụng
nhà, đất thì ông Q được xác định là người quản lý, sử dụng 02 căn nhà trong
tổng số 10 căn nhà trên phần diện tích đất. Ủy ban nhân dân Quận D2 có sự
chậm trễ trong việc giải quyết về vấn đề quy hoạch khu đất, điều này ảnh hưởng
đến những người nhận chuyển nhượng lại sau này. Ngoài ra, hiện nay có một số
hộ gia đình vẫn còn nhà toạ lạc tại khu đất nêu trên trong khi ông Q bị buộc thực
hiện tháo dỡ 2 căn nhà.
Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của người khởi kiện,
sửa bản án sơ thẩm.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị kiện là ông Lê Ngọc
T trình bày:
14
Bản đồ hiện trạng vị trí của Phòng T3 duyệt ngày 28/11/2022 có thể hiện 2
phần diện tích đất đang được sử dụng để cho thuê. Sau khi phát hiện ra hành vi
vi phạm thì Ủy ban nhân dân Quận D2 mới xác định được đây là 2 phần diện
tích đất riêng biệt, được cho thuê bởi 2 đối tượng khác nhau.
Biên bản xử phạt vi phạm hành chính được lập đúng theo quy định tại Luật
Xử phạt vi phạm hành chính, việc thiếu sót chữ ký tại từng trang chỉ mang tính
hình thức, không làm ảnh hưởng đến bản chất của sự việc. Biên bản làm việc
ngày 27/12/2022 và Biên bản vi phạm hành chính ngày 27/12/2022 do Ủy ban
nhân dân Phường D2 lập ở 2 địa điểm khác nhau nhưng lại cùng một khung giờ
thì cần căn cứ vào biên bản vi phạm hành chính để giải quyết. Bên cạnh đó, ông
Q đều đã ký tên vào 2 biên bản nêu trên nên đây chỉ là lỗi hình thức.
Yêu cầu xem xét bồi thường, hỗ trợ của ông Bùi Lâm Q là không có căn cứ
do hành vi của ông được xác định là hành vi lấn chiếm trái pháp luật. Theo các
văn bản xác minh, nguồn gốc khu đất có nhà của ông Q là đất rạch nhưng một số
hộ dân đã tự ý lấn chiếm. Sau khi có Kết luận Thanh tra số 13/KL-TTTp-P2
ngày 18/6/2019 của Ủy ban nhân dân Thành phố D2, Ủy ban nhân dân Quận D2
đã tăng cường công tác quản lý, thanh tra, kiểm tra và kiên quyết xử lý các
trường hợp vi phạm hành chính về đất đai và xây dựng trên địa bàn Quận D. Tất
cả các trường hợp có nhà trên khu đất này đều đã bị cưỡng chế. Chỉ có duy nhất
3 hộ gia đình đang có khiếu nại, Ủy ban nhân dân Quận D2 đang chờ kết quả
giải quyết khiếu nại rồi mới tiến hành giải quyết theo quy định pháp luật.
Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ
Chí Minh tham gia phiên toà:
Về tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử và những người tham gia tố tụng
đã tuân thủ đúng quy định của Luật Tố tụng hành chính.
Về nội dung: Theo các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án và phần trình
bày của các đương sự, tại Bản đồ hiện trạng vị trí của Phòng T3 duyệt ngày
28/11/2022, 2 căn nhà của ông Bùi Lâm Q được xây dựng trên phần diện tích
đất có nguồn gốc là rạch Cầu Dừa thuộc dự án Công viên H. Ông Q được bà Bùi
Thị E tặng cho 2 căn nhà nêu trên. Ủy ban nhân dân Phường D2 đã lập biên bản
xử phạt vi phạm hành chính và các biên bản làm việc là có căn cứ, đúng quy
định pháp luật. Ông Q không tự nguyện chấp hành các quyết định của Ủy ban
nhân dân nên việc cưỡng chế là phù hợp. Tại phiên toà, người đại diện theo ủy
quyền của ông Q cũng không cung cấp được tài liệu, chứng cứ mới. Do đó, đề
nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của ông Q, giữ nguyên bản án
sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Hội đồng xét xử căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên
tòa, kết quả tranh tụng công khai tại phiên tòa, có đủ cơ sở để kết luận: Toàn bộ
diễn biến vụ án như phần tóm tắt nội dung đã được viện dẫn ở trên. Xét kháng
cáo của ông Bùi Lâm Q, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các tài liệu, chứng
15
cứ, ý kiến của đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự,
ý kiến của Kiểm sát viên như sau:
[1] Về tố tụng:
[1.1] Tại phiên toà phúc thẩm, người đại diện theo ủy quyền của Chủ tịch
Ủy ban nhân dân Quận D2 có đơn xin xét xử vắng mặt. Căn cứ theo khoản 4
Điều 225 Luật Tố tụng hành chính, Toà án tiến hành phiên toà phúc thẩm xét xử
vắng mặt đương sự nêu trên.
[1.2] Về đối tượng khởi kiện, thời hiệu khởi kiện và thẩm quyền giải quyết:
Ngày 11/3/2024, ông Bùi Lâm Q khởi kiện yêu cầu hủy các quyết định bao
gồm: Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 48/QĐ-D2 ngày 27/01/2023;
Quyết định giải quyết khiếu nại (lần đầu) số 771/QĐ-UBND-NC ngày
28/4/2023; Quyết định cưỡng chế buộc thực hiện biện pháp khắc phục hậu quả
số 2085/QĐ-UBND-CCXP ngày 06/9/2023 cùng của Chủ tịch D2 (đối với căn
nhà số B); Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 51/QĐ-D2 ngày
30/01/2023; Quyết định giải quyết khiếu nại (lần đầu) số 779/QĐ-UBND-NC,
ngày 12/5/2023; Quyết định cưỡng chế buộc thực hiện biện pháp khắc phục hậu
quả số 2084/QĐ-UBND-CCXP ngày 06/9/2023 của Chủ tịch D2 (đối với căn
nhà số A) là khiếu kiện các quyết định liên quan đến xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực quản lý đất đai, thuộc đối tượng khởi kiện của vụ án hành chính
tại Tòa án, còn thời hiệu khởi kiện và thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án
nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh theo quy định tại khoản 1 Điều 30; khoản 4
Điều 32; điểm a khoản 2, khoản 3 Điều 116 Luật Tố tụng hành chính năm 2015.
[2] Về nội dung: Xét các yêu cầu khởi kiện của người khởi kiện
[2.1] Về nguồn gốc đất
Ngày 18/9/2014, ông Bùi Lâm Q được cô là bà Bùi Thị E tặng cho 02 căn
nhà trên, có lập vi bằng nhưng cả bà E và ông Q đều không có giấy tờ chứng
minh quyền sử dụng hợp pháp phần đất trên theo quy định pháp luật.
Căn cứ Bản đồ địa chính VN2000 lập năm 2001 và Bản đồ hiện trạng vị trí
do Phòng T3 lập (duyệt ngày 28/11/2022) thì 02 nhà đất (tại vị trí căn số 1 và
căn số 2) do ông Bùi Lâm Q sử dụng có nguồn gốc là rạch Cầu D. Các hộ dân tự
ý san lấp, lấn chiếm, sử dụng từ năm 2007; sau đó, tự mua bán giấy tay qua
nhiều người.
[2.2] Về thời điểm vi phạm
Ông Q cho rằng 02 căn nhà nói trên đã có sẵn từ năm 2014 chứ ông không
lấn chiếm, xây dựng; hiện trạng phần đất nhà số A và nhà số B từ năm 2007 đã
là đất chứ không phải là rạch; 02 căn nhà trên đã qua nhiều đời chủ xây cất,
quản lý, sử dụng khác nhau, việc Chủ tịch D2 chỉ xử phạt một mình ông Q là
không đúng đối tượng và không đúng thời điểm xảy ra hành vi phạm hành chính
(nếu có) và hành vi vi phạm hành chính (nếu có) đã xảy ra từ trước năm 2020,
Chủ tịch D2, áp dụng Nghị định 91/2019/NĐ-CP ngày 19/11/2019 của Chính
16
phủ (có hiệu lực thi hành từ ngày 05/01/2020) để xử phạt là không đúng quy
định của pháp luật.
Tuy nhiên, căn cứ Báo cáo số 42/BC-UBND-ĐT ngày 16/3/2023 của Ủy
ban nhân dân Phường D2, Quận D có về kết quả xác minh nguồn gốc, quá trình
sử dụng nhà, đất tại khu vực thửa đất số 414, tờ bản đồ số 17, bản đồ địa chính
Phường B và khu vực tiếp giáp thửa đất số 414 (giữa Phường B và Phường C)
có nội dung như sau:
“- Từ khoảng năm 2007, khi Nhà nước bắt đầu làm con đường đi thẳng vào
khu vực thửa đất số 414, tờ số 17 (đường V nối dài), ông Lương Hoàng V1 (địa
chỉ số D N) đã cho người san lấp hết con rạch tại khu vực thửa đất số 414 và
khu vực tiếp giáp thửa đất số 414 và được sử dụng cho tới nay.
Sau khi san lấp rạch (khoảng năm 2007) thì bãi xe ô tô cũng được hình
thành tại 02 vị trí khu đất (theo nội dung xác minh, thì bãi xe ô tô do ông V1
quản lý):
+ Một, tại khuôn viên phần sân trống do hộ nhà bà Nguyễn Thiên N, ông
Lương Nguyễn Trọng T1 sử dụng: Nay ở vị trí căn số 13 (thuộc nhóm 2), hiện
nay không còn bãi xe.
+ Hai, nằm trong khu vực tiếp giáp thửa đất số 414: Nay ở vị trí từ căn số
01 đến căn số 10 (thuộc nhóm 3: đa phần các căn này được xây mới, sửa chữa
từ năm 2021 đến nay), hiện nay không còn bãi xe.
- Về nguồn gốc hình thành 10 căn nhà (từ căn số 01 đến căn số 10 – thuộc
nhóm 3): Vào thời điểm ngày 28/4/2020, Tổ công tác của Phường 2 có thực hiện
khảo sát và chỉ phát hiện 03 trường hợp (hộ ông Nguyễn Thanh H – nay là căn
số 3; hộ bà Võ Thị Thùy T2 – nay là căn số 5; hộ ông Nguyễn Văn C – nay là
căn số 7) nên đã thực hiện lập biên bản làm việc và ghi nhận lại hình ảnh tại
khu vực tiếp giáp thửa 414. Như vậy, đối với 07 căn nhà còn lại (gồm: căn nhà
số A, 2, 4, 6, 8, 9, 10) được xây dựng mới, sửa chữa lại từ sau thời điểm khảo
sát này (sau thời điểm ngày 28/4/2020), trong đó ông Bùi Lâm Q sử dụng nhà,
đất tại vị trí căn số 1, 2)”.
Như vậy, có căn cứ xác định, thời điểm ông Bùi Lâm Q xây cất 02 căn nhà
trên là sau thời điểm ngày 28/4/2020.
[2.3] Về quy hoạch sử dụng đất
Căn cứ Quyết định số 10399/KTS-KT ngày 16/10/2000 về việc phê duyệt
quy hoạch chi tiết TL 1/1000 Dự án đầu tư công trình “Công viên K Quận D”
của Kiến trúc sư trưởng Thành phố; Quyết định số 3073/QĐ-UB ngày 29/6/2004
của Ủy ban nhân dân Thành phố D2 về việc thu hồi và giao đất cho Ban Q1 để
bồi thường thiệt hại, giải phóng mặt bằng, chuẩn bị đầu tư xây dựng Công viên
H tại Phường C và Phường E Quận D; Quyết định số 692/QĐ-UBND-TH ngày
13/10/2008 của Ủy ban nhân dân Quận D2 về phê duyệt đồ án quy hoạch chi tiết
xây dựng đô thị tỷ lệ 1/500 khu công viên H Phường B, Quận D. (Phần Quy
hoạch – Kiến trúc – Giao thông); với tổng diện tích theo quy hoạch là 17,6 ha;
17
trong đó đất hiện trạng không phải thu hồi khoảng 2,6 ha
(thuộc đất rạch, đường
giao thông, …trong đó có phần đất ông Q đang sử dụng tại vị trí căn số 1 và căn
số 2) và đất dân cư hiện hữu 15 ha.
Theo điểm b, khoản 1 Điều 3 Chương II và Phụ lục ban hành kèm theo
Quyết định số 40/2019/QĐ-UBND ngày 20/12/2019 của Ủy ban nhân dân
Thành phố D2 quy định về phân cấp cho các Sở và Ủy ban nhân dân quận -
huyện quản lý, khai thác các tuyến sông, kênh, rạch trên địa bàn Thành phố Hồ
Chí Minh thì rạch cầu D có trong danh mục được Ủy ban nhân dân Thành phố
D2 phân cấp quản lý và do Ủy ban nhân dân Quận D2 quản lý. Đồng thời, Dự án
đầu tư xây dựng Công viên H được Ủy ban nhân dân Quận D2 thực hiện theo
đúng quy hoạch đã được phê duyệt, pháp lý dự án được thực hiện đầy đủ, đúng
quy định, công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng triển khai từ năm 2004 đến
nay, đã hoàn thành 3 giai đoạn, chuẩn bị giai đoạn 4.
[2.4] Về xác định hành vi vi phạm xây dựng 01 căn nhà hay 02 căn nhà
Ông Bùi Lâm Q cho rằng 02 căn nhà nói trên, thực chất là 01 căn chính và
nhà kho liền kề nhau, Chủ tịch D2 tự chia thành 02 căn để xử phạt hành chính,
với mức phạt 30.000.000 đồng/mỗi căn là không phù hợp với quy định của pháp
luật, gây thiệt nghiêm trọng về tài sản cho ông Q.
Tuy nhiên, căn cứ giấy tặng cho nhà giữa bà E và ông Q thể hiện việc tặng
cho đối với 02 căn nhà. Đồng thời, tại thời điểm khảo sát, hiện trạng thể hiện 02
căn nhà có kết cấu riêng lẻ, có cửa và nhà vệ sinh riêng. Do đó, Chủ tịch D2 xác
định ông Q xây dựng vi phạm đối với 02 căn nhà, từ đó ban hành quyết định xử
phạt vi phạm hành chính đối với 02 căn nhà là có cơ sở.
[2.5] Trình tự, thủ tục, thẩm quyền ban hành các quyết định bị khởi kiện
Thực hiện chỉ đạo của Ủy ban nhân dân Thành phố D2, Ủy ban nhân dân
Quận D2 đã tăng cường công tác quản lý, thanh tra, kiểm tra và kiên quyết xử lý
các trường hợp vi phạm hành chính về đất đai và xây dựng trên địa bàn Quận D.
Qua rà soát đã phát hiện 32 trường hợp vi phạm pháp luật đất đai và xây dựng
trên địa bàn Phường B, Phường C Quận D; trong đó có 19 trường hợp lấn, chiếm
đất đã bồi thường giải tỏa và 13 trường hợp lấn, chiếm rạch C (thuộc phạm vi
giải tỏa để thực hiện dự án Công viên H), trong đó có trường hợp của ông Bùi
Lâm Q (vị trí căn số 1 và số 2). Tất cả các trường hợp nêu trên đều không có
pháp lý về quyền sử dụng đất, lấn chiếm đất công, không được cơ quan có thẩm
quyền cấp số nhà và cấp phép xây dựng.
Như vậy, 02 nhà đất (vị trí căn số 1 và số 2) do ông Bùi Lâm Q xây cất,
sử dụng từ năm 2020 lấn, chiếm đất có nguồn gốc rạch Cầu Dừa và thuộc quy
hoạch đất công viên Hồ Khánh H1 (không phù hợp quy hoạch). Ngày
27/12/2022, Ủy ban nhân dân Phường D2, Quận D lập Biên bản vi phạm hành
chính số 48/BB-VPHC về hành vi vi phạm chiếm đất phi nông nghiệp tại khu
vực đô thị, diện tích đất chiếm thuộc rạch 28,5m
2
và ngày 13/01/2023, Ủy ban
nhân dân Quận D2 lập Biên bản vi phạm hành chính số 01/BB-TKTQ4-VPHC
18
về hành vi vi phạm chiếm đất phi nông nghiệp tại khu vực đô thị, diện tích đất
chiếm thuộc rạch là 18,9m
2
đối với ông Bùi Lâm Q.
Do đó, Chủ tịch Ủy ban nhân dân Quận D2 ban hành các quyết định xử
phạt vi phạm hành chính, cưỡng chế buộc thực hiện biện pháp khắc phục hậu
quả và giải quyết khiếu nại đối với ông Bùi Lâm Q (do có hành vi xây cất trái
phép 02 căn nhà trên đất lấn, chiếm); buộc ông Q nộp phạt mỗi căn 30.000.000
đồng, khôi phục lại tình trạng ban đầu của đất trước khi vi phạm và buộc trả lại
đất đã chiếm đồng thời nộp lại số lợi bất hợp pháp 267.080 đồng (căn số 1) và
253.901 đồng (căn số 2) là đúng trình tự, thủ tục, thẩm quyền theo quy định tại
điểm a khoản 2 Điều 3, điểm a khoản 4 và khoản 5 Điều 14 Nghị định số
91/2019/NĐ-CP ngày 19/11/2019 của Chính phủ; khoản 1 Điều 12 Luật Đất đai
2013; khoản 2 Điều 38, Điều 54, Điều 86, khoản 2 Điều 87 Luật Xử lý vi phạm
hành chính năm 2012; khoản 1 Điều 18 Luật Khiếu nại năm 2011.
Từ những căn cứ nêu trên, Hội đồng xét xử phúc thẩm xét và không chấp
nhận yêu cầu kháng cáo của ông Bùi Lâm Q, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
[3] Về án phí hành chính phúc thẩm:
Người khởi kiện ông Bùi Lâm Q phải chịu do yêu cầu kháng cáo không
được chấp nhận.
[4] Các quyết định khác của bản án hành chính sơ thẩm không có kháng
cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 241 Luật Tố tụng hành chính năm 2015;
Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường
vụ Quốc hội;
Bác kháng cáo của người khởi kiện ông Bùi Lâm Q, giữ nguyên quyết định
của bản án sơ thẩm.
Tuyên xử:
1. Bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Bùi Lâm Q, gồm:
- Hủy Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 51/QĐ-D2 ngày
30/01/2023; Quyết định giải quyết khiếu nại (lần đầu) số 779/QĐ-UBND-NC
ngày 12/5/2023; Quyết định cưỡng chế buộc thực hiện biện pháp khắc phục hậu
quả số 2084/QĐ-UBND-CCXP ngày 06/9/2023 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân
Quận D2 (đối với căn nhà số A).
- Hủy Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 48/QĐ-D2 ngày
27/01/2023; Quyết định giải quyết khiếu nại (lần đầu) số 771/QĐ-UBND-NC
ngày 28/4/2023; Quyết định cưỡng chế buộc thực hiện biện pháp khắc phục hậu
quả số 2085/QĐ-UBND-CCXP ngày 06/9/2023 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân
Quận D2 (đối với căn nhà số B).
19
2. Án phí hành chính phúc thẩm: Ông Bùi Lâm Q phải chịu 300.000 đồng,
được cấn trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 (ba trăm nghìn) đồng đã nộp
theo biên lai thu số 0041653 ngày 23/10/2024 của Cục Thi hành án dân sự
Thành phố Hồ Chí Minh
3. Các quyết định khác của bản án hành chính sơ thẩm không có kháng cáo,
kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật.
4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Nơi nhận:
Tòa án nhân dân tối cao;
VKSNDCC tại TP. Hồ Chí Minh;
TAND TP. Hồ Chí Minh;
VKSND TP. Hồ Chí Minh;
Cục THADS TP. Hồ Chí Minh;;
Các đương sự;
Lưu VT; (NTCL)(15).
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Trần Thị Hòa Hiệp
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 30/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 29/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 29/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 29/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 28/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 28/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 27/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 26/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 25/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 25/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 25/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 24/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 24/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 24/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 23/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 23/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 23/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 22/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 21/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
20
Ban hành: 21/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm