Bản án số 351/2025/HC-PT ngày 23/05/2025 của TAND cấp cao tại Hà Nội
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 351/2025/HC-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 351/2025/HC-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 351/2025/HC-PT
Tên Bản án: | Bản án số 351/2025/HC-PT ngày 23/05/2025 của TAND cấp cao tại Hà Nội |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND cấp cao tại Hà Nội |
Số hiệu: | 351/2025/HC-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 23/05/2025 |
Lĩnh vực: | Hành chính |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ án: | Khiếu kiện hành vi hành chính về quản lý đất đai |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI HÀ NỘI
———————
Bản án số: 351/2025/HC-PT
Ngày 23/5/2025
V/v Khiếu kiện hành vi hành chính
về quản lý đất đai.
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
———————————————————
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Chu Thành Quang
Các Thẩm phán: Ông Điều Văn Hằng;
Ông Bùi Anh Thắng.
- Thư ký phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Hương Liên - Thư ký viên.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội tham gia phiên tòa:
Ông Lê Văn Hùng - Kiểm sát viên cao cấp.
Ngày 23/5/2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội
xét xử phúc thẩm, công khai vụ án hành chính thụ lý số 157/2025/TLPT-HC
ngày 05/02/2025 về việc “Khiếu kiện hành vi hành chính về quản lý đất đai trong
trường hợp cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất” do có kháng cáo của người
khởi kiện đối với Bản án hành chính sơ thẩm số 03/2024/HC-ST ngày 23/9/2024
của Tòa án nhân dân tỉnh Hà Nam, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm
số 4863/2025/QĐ-PT ngày 08/5/2025 giữa các đương sự:
- Người khởi kiện: Bà Phạm Thị Ng, sinh năm 1950; địa chỉ: Thôn P, xã
T, thành phố P, tỉnh Hà Nam; có mặt tại phiên tòa.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Phạm Đắc M, sinh năm 1945; địa chỉ:
Tổ dân phố Q, phường L, thành phố P, tỉnh Hà Nam; có mặt tại phiên tòa.
- Người bị kiện: Ủy ban nhân dân thành phố P, tỉnh H; địa chỉ: Số 22 B,
phường M, thành phố P, tỉnh Hà Nam; vắng mặt người đại diện.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
+ Ủy ban nhân dân phường L, thành phố P, tỉnh Hà Nam; địa chỉ: Tổ dân
phố Đ, phường L, thành phố P, tỉnh Hà Nam; vắng mặt và có văn bản đề nghị xét
xử vắng mặt.
+ Ông Trần Văn T1, sinh năm 1964; địa chỉ: Tổ dân phố Q, phường L,
thành phố P, tỉnh Hà Nam; vắng mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
2
Theo án sơ thẩm và các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, nội dung vụ án được tóm
tắt như sau:
- Người khởi kiện trình bày: Bố mẹ đẻ của bà Ng có một mảnh đất thổ cư
với diện tích 288m
2
do các cụ để lại tại thôn Q, bên bờ sông C (phía Đông giáp
vườn ông S và ngõ hai gia đình ông B, bà Q; phía Tây giáp vườn bà Q; phía Bắc
giáp đê 493; phía Nam giáp vườn bà Q). Năm 1960, Chủ nhiệm Hợp tác xã nông
nghiệp Q cùng với Thủy nông huyện D (nay là Xí nghiệp Thủy nông thị xã D)
đến vận động gia đình bà để làm bể xả nước ra sông C; đồng thời, giao cho gia
đình bà 288m
2
ở khu bãi cát tạm thời để canh tác. Sau khi điều chỉnh đất phần
trăm vào năm 1988, ông Phạm Thanh T là Đội trưởng sản xuất xóm T thu lại
288m
2
đất tại cánh bãi cát nhà bà đang canh tác để cấp cho người khác. Bà đã đề
nghị nhiều lần nhưng UBND xã L (nay là phường L) và anh T không trả lại cho
gia đình bà. Sau một thời gian, bà Ng về thấy trạm bơm ngừng không hoạt động
nhưng Hợp tác xã Nông nghiệp và Thủy nông không thông báo cho bà biết vì bà
ở xa. Ngày 01/9/2003, bà Ng tiếp tục làm đơn đề nghị cơ quan chức năng của
phường L trả lại đất thổ cư cho gia đình bà (đơn có xác nhận của ông Phạm Đắc
M, ông Lưu Phú Y, ông H là những cán bộ Hợp tác xã và Thủy nông D thời kỳ
trước xác nhận). Sau đó, bà liên tục có đơn đề nghị cấp có thẩm quyền trả lại
288m
2
đất thổ cư của gia đình tại tổ dân phố Q, phường L, thành phố P, tỉnh Hà
Nam nhưng không được giải quyết. Ngoài ra, bà Ng cung cấp một số người sinh
sống quanh khu vực đất của bà D biết, xác nhận có sự việc cho mượn đất; cung
cấp trường hợp ông Lưu Danh C, sinh năm 1944; địa chỉ: Xóm 5, số nhà 26, tiểu
khu X, thị trấn N, tỉnh Sơn La là con nuôi bà Q (bác ruột bà Ng) thời điểm năm
1960 bà Q cũng cho Trạm bơm mượn đất để làm bể xả thoát nước, bà Ng báo cho
ông C về xin lại đất của bà Q đã được UBND thành phố P trả lại, cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất năm 2010, ông C đã bán cho người khác.
Ngày 17/3/2023, UBND thành phố P ban hành Thông báo số 138/TB-
UBND ngày 17/3/2023 về việc trả lời đơn đề nghị của bà Phạm Thị Ng, thôn P,
xã T, thành phố P, tỉnh Hà Nam. Không nhất trí với Thông báo số 138/TB-UBND
ngày 17/3/2023 nêu trên, bà Phạm Thị Ng khởi kiện đến Tòa án nhân dân tỉnh H
đề nghị xem xét, giải quyết: (1) Hủy Thông báo số 138/TB-UBND ngày
17/3/2023 của UBND thành phố P, tỉnh Hà Nam; (2) Buộc UBND thành phố P,
tỉnh Hà Nam trả lại cho gia đình bà 288m
2
đất thổ cư đã mượn của mẹ đẻ bà tại
tổ dân phố Q, phường L, thành phố P, tỉnh Hà Nam từ năm 1960 để gia đình bà
làm nơi thờ cúng.
- Quan điểm của người bị kiện - UBND thành phố P, tỉnh H tại Văn bản
số 1291/UBND-TNMT ngày 09/7/2024: Đối với nội dung khởi kiện của bà Phạm
Thị Ng đề nghị hoàn trả lại 288
2
đất thổ cư tại tổ dân phố Q, phường L, thành phố
P, tỉnh H, ngày 17/02/2023, UBND thành phố P đã có Văn bản số 138/UBND-
TNMT về việc trả lời đơn đề nghị của bà Phạm Thị Ng. Trong văn bản khẳng
định: Căn cứ khoản 5 Điều 26 Luật Đất đai năm 2013, nội dung bà Phạm Thị Ng
đề nghị là không có cơ sở để giải quyết. Tại Biên bản làm việc ngày 07/8/2024,
UBND thành phố P, tỉnh H đã khẳng định không có căn cứ để cấp trả lại cho hộ
gia đình bà Phạm Thị Ng đối với diện tích 288m
2
đất ở nằm trong thửa đất số 127,
3
tờ bản đồ số 23 (bản đồ địa chính năm 2001) tại tổ dân phố Q, phường L, thành
phố P, tỉnh Hà Nam. UBND thành phố P đề nghị không chấp nhận toàn bộ yêu
cầu khởi kiện của bà Phạm Thị Ng.
- Quan điểm của UBND phường L, thành phố P, tỉnh H: Đại diện UBND
phường L cung cấp nguồn gốc, quá trình sử dụng và biến động của các thửa đất
số 408, 409 tờ bản đồ số 07, bản đồ địa chính phường L lập năm 1985. UBND
phường L đề nghị Toà án xem xét, giải quyết yêu cầu khởi kiện của bà Phạm Thị
Ng theo quy định của pháp luật.
- Quan điểm của ông Trần Văn T1: Thửa đất số 127, tờ bản đồ số 23 thuộc
quyền sở hữu của bố đẻ ông (Ông Trần Quốc B, sinh năm 1928, mất năm 2014).
Từ khi bố, mẹ đẻ của ông sinh sống trên thửa đất luôn chấp hành tốt chủ trương,
đường lối của Đảng và pháp luật của Nhà nước; đóng thuế đầy đủ hàng năm theo
quy định. Năm 2006, hộ gia đình ông Trần Quốc B đã được cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đối với thửa đất số 127 nêu trên. Sau khi bố mẹ của ông chết, các
anh chị em đã thống nhất giao lại cho ông quản lý, sử dụng thửa đất. Ông T1 đề
nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Phạm Thị
Ng.
Tại Bản án hành chính sơ thẩm số 03/2024/HC-ST ngày 23/9/2024, Tòa án
nhân dân tỉnh Hà Nam đã quyết định: Căn cứ vào khoản 1 Điều 30; khoản 4 Điều
32; Điều 115; khoản 2 Điều 116; Điều 157; khoản 1 Điều 158; điểm a khoản 2
Điều 193; Điều 204; Điều 206; khoản 1 Điều 348; khoản 1 Điều 358 của Luật Tố
tụng hành chính; Điều 99, 100, 101 Luật Đất đai 2013. Điểm đ khoản 1 Điều 12;
khoản 1 Điều 30; khoản 1 Điều 32 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm,
thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, xử:
1. Bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Phạm Thị Ng đề nghị Tòa án nhân
dân tỉnh Hà Nam xem xét, giải quyết: (1) Hủy Thông báo số 138/TB-UBND ngày
17/3/2023 của UBND thành phố P, tỉnh H; (2) Buộc UBND thành phố P, tỉnh H
trả lại cho gia đình bà 288m
2
đất thổ cư đã mượn của mẹ đẻ bà tại tổ dân phố Q,
phường L, thành phố P, tỉnh Hà Nam từ năm 1960 để gia đình bà làm nơi thờ
cúng. Bác các yêu cầu khác của người khởi kiện.
2. Án phí: Bà Phạm Thị Ng được miễn án phí hành chính sơ thẩm.
3. Về chi phí đo đạc, thẩm định: Bà Phạm Thị Ng phải chịu chi phí đo đạc,
thẩm định; bà Ng đã nộp đủ trong quá trình chuẩn bị xét xử.
Ngoài ra, án sơ thẩm còn thông báo về quyền kháng cáo của những người
tham gia tố tụng theo quy định của pháp luật.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 30/9/2024, người khởi kiện là bà Phạm Thị
Ng có đơn kháng cáo không đồng ý với quyết định của bản án sơ thẩm; đề nghị
Tòa án cấp phúc thẩm buộc UBND thành phố P, tỉnh H trả lại cho gia đình bà
288m
2
đất thổ cư đã mượn của mẹ đẻ bà tại tổ dân phố Q, phường L, thành phố
P, tỉnh Hà Nam.
4
Tại phiên tòa phúc thẩm, bà Phạm Thị Ng giữ nguyên yêu cầu kháng cáo và
những nội dung đã trình bày trong quá trình Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết vụ án.
Người được bà Ng ủy quyền là ông Phạm Đắc M cũng xác định lại việc yêu cầu
buộc UBND thành phố P, tỉnh H phải trả lại cho gia đình bà Ng 288m
2
đất thổ cư
đã mượn của mẹ bà. Theo ông M thì bản đồ địa chính năm 1962 có ghi tên cụ D
(là mẹ của bà Ng); việc gia đình bà Ng cho mượn đất làm của xả trạm bơm được
những người sống liền kề với thửa đất của mẹ bà Ng xác nhận; Ông Phạm Thanh
T (Đội trưởng đội sản xuất xóm T) là người thu lại 288 m
2
đất bãi mà mà gia đình
bà Ng được giao để canh tác tạm thời sau khi cho mượn đất làm trạm bơm, nhưng
chưa cấp lại đất cho gia đình bà Ng.
Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội: Về tố
tụng, Hội đồng xét xử và những người tham gia tố tụng thực hiện đúng quy định của
Luật Tố tụng hành chính. Về nội dung, không có tài liệu nào thể hiện việc gia đình
bà Ng đã cho Hợp tác xã mượn đất làm cửa xả trạm bơm; không có tài liệu nào thể
hiện thửa đất bà Ng yêu cầu UBND thành phố P, tỉnh H trả lại cho gia đình bà là của
cụ D (mẹ của bà Ng). Tòa án cấp sơ thẩm bác toàn bộ yêu cầu của bà Phạm Thị Ng
là có căn cứ. Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của người khởi
kiện, giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào kết quả tranh tụng, các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án
được xem xét tại phiên tòa, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao
tại Hà Nội, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận thấy:
[1] Sau khi xét xử sơ thẩm, bà Phạm Thị Ng có đơn kháng cáo trong thời
hạn luật định, đúng quy định tại các điều 205, 206, 209 Luật Tố tụng hành chính
nên kháng cáo là hợp pháp, được xem xét theo thủ tục phúc thẩm.
[2] Tại phiên tòa phúc thẩm vắng mặt người bị kiện và những người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; tuy nhiên, phiên tòa đã được triệu tập nhiều lần,
các đương sự vắng mặt không có kháng cáo và đã được triệu tập, hợp lệ. Hội đồng
xét xử căn cứ quy định tại Điều 225 Luật Tố tụng hành chính tiếp tục giải quyết
vụ án.
[3] Về đối tượng khởi kiện, thời hiệu khởi kiện và thẩm quyền: Ngày
28/9/2023, bà Phạm Thị Ng khiếu kiện đề nghị hủy Thông báo số 138/TB-UBND
ngày 17/3/2023 của UBND thành phố P, tỉnh H; đề nghị buộc UBND thành phố P,
tỉnh H trả lại cho gia đình bà 288 m
2
đất thổ cư đã mượn của mẹ bà tại tổ dân phố
Q, phường L, thành phố P, tỉnh Hà Nam từ năm 1960 để gia đình bà làm nơi thờ
cúng. Tòa án nhân dân tỉnh Hà Nam xác định Thông báo 138/TB-UBND và việc
cấp trả 288 m
2
đất nêu trên là đối tượng khởi kiện vụ án hành chính; việc khởi kiện
bảo đảm yêu cầu về thời hiệu và thụ lý giải quyết là phù hợp quy định tại khoản 1,
2, 3 và 4 Điều 3; khoản 1 Điều 30, khoản 4 Điều 32 và khoản 2 Điều 116 của Luật
Tố tụng hành chính.
[4] Xét yêu cầu khởi kiện của bà Phạm Thị Ng, thấy rằng: Tại đơn khởi
kiện và các tài liệu, chứng cứ kèm theo, bà Phạm Thị Ng đề nghị UBND thành
5
phố P, tỉnh H cấp trả lại cho gia đình bà diện tích 288m
2
đất thổ cư tại tổ dân phố
Q, phường L, thành phố P, tỉnh Hà Nam. Trên cơ sở biên bản làm việc ngày
04/6/2024 tại trụ sở UBND phường L và biên bản lấy lời khai của đương sự ngày
12/7/2024 tại trụ sở TAND tỉnh Hà Nam, bà Phạm Thị Ng khẳng định thửa đất bà
đề nghị UBND thành phố P cấp trả nằm trong thửa đất số 408 và 409, tờ bản đồ
PL07 với tổng diện tích 295m
2
đất ở, ghi tên B và Q (Bản đồ địa chính của phường
L lập năm 1985). Năm 2006, UBND thị xã P (nay là thành phố P) đã cấp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ ông Trần Quốc B với tổng diện tích 336m
2
(gồm: 295m
2
đất ở và 41m
2
đất vườn), thửa đất số 127, tờ bản đồ số 23, bản đồ
địa chính của phường L lập năm 2001. Hiện theo bản đồ địa chính năm 2001, chỉnh
lý năm 2024, thửa đất nêu trên đứng tên ông Trần Văn T1.
[5] Về nguồn gốc thửa đất số 127, tờ bản đồ số 23, bản đồ địa chính của
UBND phường L lập năm 2001 tại tổ dân phố Q, theo bản đồ địa chính của UBND
phường L lập năm 1985 và sổ mục kê, thửa đất số 127 là thửa đất số 408, tờ bản
đồ số 7 với diện tích 157m
2
đất ở của hộ ông Trần Quốc B và thửa đất số 409, tờ
bản đồ số 7 với diện tích 138m
2
đất ở của hộ bà Q (ông B nhận chuyển nhượng
thửa đất số 409 của hộ bà Q). Thực hiện Kế hoạch 566 của UBND tỉnh H, hộ ông
Trần Quốc B được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng thửa đất số 127, tờ bản
đồ số 23 với tổng diện tích là 336m
2
(gồm 295m
2
đất ở và 41m
2
đất vườn).
[6] Tại đơn khởi kiện và tại Biên bản ngày 12/7/2024, bà Phạm Thị Ng khai
trên bản đồ xanh năm 1978 có thửa đất ghi tên bà D; năm 1960, gia đình bà cho
Hợp tác xã L và Thuỷ nông D mượn thửa đất tại tổ dân phố Q, phường L, thành
phố P với diện tích 288m
2
để làm cửa xả Trạm Bơm. Tuy nhiên, ngày 17/9/2024,
Toà án nhân dân tỉnh Hà Nam đã làm việc với đại diện UBND phường L, Hợp tác
xã Dịch vụ nông nghiệp phường L và Xí nghiệp Thuỷ nông thị xã D đề nghị cung
cấp thông tin và các tài liệu liên quan đến Trạm Bơm tại tổ dân phố Q, phường L,
thành phố P, tỉnh Hà Nam, đại diện các đơn vị đều trả lời không có các tài liệu
liên quan đến Trạm Bơm để cung cấp cho Toà án.
[7] Bên cạnh đó, Toà án cấp sơ thẩm đã tiến hành thu thập trích lục bản đồ
địa chính được lập trước năm 1985 tại phường L đối với thửa đất số 127, tờ bản
đồ số 23, bản đồ địa chính phường L lập năm 2001 tại Sở Tài nguyên và Môi
trường tỉnh H. Ngày 21/8/2024, Văn phòng đăng ký đất đai, Sở Tài nguyên và
Môi trường tỉnh H trả lời đơn vị không lưu trữ bản đồ địa chính của phường L,
thành phố P, tỉnh Hà Nam được lập trước năm 1985 đối với thửa đất nêu trên.
Theo UBND phường L cung cấp hồ sơ địa chính gồm sổ mục kê, bản đồ xã L lập
năm 1986, vị trí bà Ng đề nghị tại tờ bản đồ số 7 thuộc cửa xả trạm bơm, không
có số thửa và không ghi tên chủ sử dụng đất là bà D; sổ chia ruộng qua các thời
kỳ của tổ dân phố cũng không có tên bà D được giao tạm thời 288m
2
đất bãi.
[8] Bà Phạm Thị Ng khởi kiện đề nghị buộc UBND thành phố P cấp trả lại
288m
2
đất ở tại tổ dân phố Q, phường L (theo bà Ng xác định diện tích đất nêu
trên nằm trong thửa đất số 127, tờ bản đồ số 23, bản đồ địa chính của phường L
lập năm 2001 đã cấp cho hộ gia đình ông Trần Văn T1) nhưng không cung cấp
được tài liệu, chứng cứ có giá trị chứng minh có liên quan đến diện tích đất nêu

6
trên. Ngày 17/3/2023, UBND thành phố P đã ban hành Thông báo số 138/TB-
UBND trả lời nội dung đề nghị của bà Phạm Thị Ng không có cơ sở để giải quyết.
Ngày 07/8/2024, tại buổi làm việc với Tòa án nhân dân tỉnh Hà Nam, đại diện
UBND thành phố P khẳng định không có căn cứ để cấp trả lại cho hộ gia đình bà
Phạm Thị Ng diện tích 288 m
2
đất ở nằm trong thửa đất số 127, tờ bản đồ số 23.
[9] Từ những phân tích nêu trên, không có cơ sở chấp nhận kháng cáo của
bà Phạm Thị Ng; cần giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm như đề nghị tại
phiên tòa của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội.
[10] Về án phí hành chính phúc thẩm: bà Phạm Thị Ng là người cao tuổi và có
đơn xin miễn án phí nên được miễn án phí hành chính phúc thẩm theo quy định.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 241, khoản 1 Điều 349 Luật Tố tụng hành chính; Nghị
quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội
quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí
Tòa án,
1. Bác kháng cáo của người khởi kiện là bà Phạm Thị Ng; giữ nguyên quyết
định của Bản án hành chính sơ thẩm số 03/2024/HC-ST ngày 23/9/2024 của Tòa
án nhân dân tỉnh Hà Nam.
2. Về án phí hành chính phúc thẩm: Bà Phạm Thị Ng được miễn án phí
hành chính phúc thẩm.
3. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- VKSNDCC tại Hà Nội;
- TAND tỉnh Hà Nam;
- VKSND tỉnh Hà Nam;
- Cục THADS tỉnh Hà Nam;
- Các đương sự (theo địa chỉ);
- Lưu HS, P.HCTP.TANDCC Hà Nội.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(đã ký)
Chu Thành Quang
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 30/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 29/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 29/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 29/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 28/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 28/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 27/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 26/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 25/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 25/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 25/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 24/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 24/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 24/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 23/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 23/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 22/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 21/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 21/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm