Bản án số 405/2025/HC-PT ngày 11/05/2025 của TAND cấp cao tại TP.HCM

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 405/2025/HC-PT

Tên Bản án: Bản án số 405/2025/HC-PT ngày 11/05/2025 của TAND cấp cao tại TP.HCM
Quan hệ pháp luật:
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND cấp cao tại TP.HCM
Số hiệu: 405/2025/HC-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 11/05/2025
Lĩnh vực: Hành chính
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ án: Ông Nguyễn Khắc Hà kiện Chủ tịch UBND thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Bản án số: 405/2025/HC-PT
Ngày: 11 - 4 - 2025
V/v: “Khiếu kiện quyết định hành
chính trong lĩnh vực quản lý đất đai”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Ch tọa phn a: Ông Trần Văn Đạt;
Các Thẩm phán: Ông Dương Tuấn Vinh;
Ông Nguyễn Văn Khương.
- Thư phiên tòa: Ông Thân Văn Nhường - Thư của Tòa án nhân
dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh
tham gia phiên tòa: Ông Vũ Thanh Sơn - Kiểm sát viên.
Ngày 11 tháng 4 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành
phố Hồ Chí Minh, xét xử phúc thẩm trực tuyến công khai vụ án hành chính thụ
số 1250/2024/TLPT-HC ngày 09 tháng 12 năm 2024, về “Khiếu kiện quyết
định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai.
Do Bản án hành chính thẩm số 45/2024/HC-ST ngày 23 tháng 8 năm
2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương, bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 803/2025/QĐ-PT
ngày 20 tháng 03 năm 2025, giữa các đương sự:
1. Người khởi kiện: Ông Nguyễn Khắc H, sinh năm 1976 (vắng mặt);
Địa chỉ: số H, khu phố B, phường A, thành phố D, tỉnh Bình Dương,
mặt.
Người đại diện hợp pháp của người khởi kiện: Ông Trần Quốc V, sinh
năm 1979 (có mặt);
Địa chỉ: khu phố B, phường A, thành phố D, tỉnh Bình Dương, người
đại diện theo ủy quyền của người khởi kiện (Hợp đồng ủy quyền ngày
20/01/2024).
2. Người bị kiện: Chủ tịch UBND thành phố D, tỉnh Bình Dương; địa chỉ:
đường số A, khu T thành phố D, phường D, thành phố D, tỉnh Bình Dương.
Người đại diện hợp pháp của người bị kiện: Ông Trọng T; chức vụ:
Phó Chủ tịch UBND thành phố D, tỉnh Bình Dương, người đại diện theo ủy
2
quyền của người bị kiện (Quyết định ủy quyền số 2138/QĐ-UBND ngày
24/4/2024), vắng mặt (có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt).
3. Người có quyền lợi, ngĩa vụ liên quan:
3.1.Nguyễn Thị N, sinh năm 1977 (có mặt);
Địa chỉ: số H, khu phố B, phường A, thành phố D, tỉnh Bình Dương.
3.2. Trung tâm Phát triển Quỹ đất thành phố D; địa chỉ: đường số A, khu
T thành phố D, phường D, thành phố D, tỉnh Bình Dương, vắng mặt (có đơn yêu
cầu giải quyết vắng mặt).
4. Người kháng cáo: ông Nguyễn Khắc H.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn khởi kiện và trong quá trình giải quyết vụ kiện, người khởi kiện
trình bày:
Ông Nguyễn Khắc H người đất nằm trong khu đất công tại khu phố
B, phường A, thành phố D, tỉnh Bình Dương. Phần đất khu vực này trước đây
để không, cỏ mọc um tùm, không có ai khai hoang nên gia đình ông H làm sạch
cỏ, xây dựng công trình, trồng rau và sinh sống trên diện tích đất khoảng
1.851,5m
2
. Gia đình ông H canh tác ổn định, không xảy ra tranh chấp từ năm
2015 đến nay.
Ngày 14/4/2023, Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố D, tỉnh Bình Dương
ban hành Quyết định số 1471/QĐ-KPHQ yêu cầu ông Nguyễn Khắc H phải thực
hiện biện pháp khắc phục hậu quả “khôi phục lại tình trạng ban đầu của đất
trước khi vi phạm buộc trả lại đất đã lấn chiếm” với diện tích đất 1.851,5m
2
ông H đang trực tiếp quản lý, sử dụng tọa lạc tại khu phố B, phường A,
thành phố D, tỉnh nh Dương (thuộc khu đất công do nhà nước quản với
tổng diện tích đất 30.612,2m
2
).
Không đồng ý với Quyết định số 1471/-KPHQ của Chủ tịch Ủy ban nhân
dân thành phố D. Ngày 01/11/2023, ông H đã làm đơn khiếu nại nhưng đến nay
chưa được giải quyết.
Ngày 10/11/2023, Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố D lại tiếp tục ban
hành Quyết định số 5093/QĐ-CCXP về việc “Cưỡng chế buộc thực hiện biện
pháp khắc phục hậu quả” theo Quyết định số 1471/QĐ-KPHQ ngày 14/04/2023
của Chủ tịch UBND thành phố D đối với ông H.
Ngày 28/12/2023, Ủy ban nhân dân thành phố thành phố D, tỉnh Bình
Dương lại quyết định thành lập Đoàn cưỡng chế theo Quyết định số 5834/QĐ-
CCKPHQ ngày 7/12/2023 đề nghị ông H phải bàn giao đất trước ngày
15/01/2024 (theo Biên bản Đoàn cưỡng chế theo Quyết định Số 5834/QĐ-
CCKPHQ ngày 7/12/2023 của UBND thành phố tổ chức gặp gỡ, vận động các
trường hợp lấn chiếm khu đất công diện tích 30.612,2m
2
tại khu phố B,
phường A).
Ông Nguyễn Khắc H gia đình tiến hành khai hoang thửa đất diện tích
1.851,5m
2
, đây đã trên 10 năm, sinh sống, làm chuồng trại chăn nuôi, trồng
3
nhiều loại rau, củ, quả... ông H đã công sức quản lý, giữ gìn, tôn tạo, nâng
cao giá trị đất trên 10 năm nay nhưng khi cưỡng chế thu hồi thì Ủy ban nhân dân
thành phố D, tỉnh Bình Dương không hỗ trợ gia đình ông H một đồng nào.
Ông H sử dụng đất một cách công khai suốt một thời gian dài nhưng không
bất kỳ một quan có thẩm quyền nào yêu cầu ông H tháo dỡ, chính quyền
địa phương cũng không ngăn chặn ngay tđầu. Đến nay, Nhà nước tiến hành
thu hồi đất thì không hỗ trợ cho ông H công sức, tài sản đã đầu tư trên đất.
Căn cứ theo quy định của pháp luật tại Điều 89, 90, 91 Lut Đất Đai 2013,
người bị Nhà nước thu hồi đất có đủ điều kiện quy định của pháp luật về đất đai
thì được bồi thường (bao gồm: nhà, công trình xây dựng trên đất, cây trồng, vật
nuôi, chi phí di chuyển...). Trong trường hợp không đ điều kiện được bồi
thường thì Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (gọi chung là
Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh) xem xét để hỗ trợ cho người dân.
Việc nhà nước thu hồi đất chủ trương của Đảng Nhà nước để phát triển
kinh tế, tạo công ăn việc làm cho người lao động, ông H hoàn toàn ủng hộ. Khi
tiến hành thu hồi đất, Nhà nước cũng cần chính sách hỗ trợ tài sản trên đất
(cây trồng, vật nuôi,...), những công sức cải tạo, gìn giữ đất trong suốt thời gian
qua để ông H gia đình có được cuộc sống ổn định sau này.
Vì vậy, ông Nguyễn Khắc H khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết những vấn đề
sau:
- Hủy Quyết định số 1471/QĐ-KPHQ ngày 14/4/2023 của Chủ tịch Ủy
ban nhân dân thành phố D quyết định buộc thực hiện biện pháp khắc phục hậu
quả.
- Hủy Quyết định số 5093/QĐ-CCXP ngày 10/11/2023 của Chủ tịch y
ban nhân dân thành phố D, tỉnh Bình Dương quyết định cưỡng chế buộc thực
hiện biện pháp khắc phục hậu quả.
- Buộc Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố D trách nhiệm bồi thường
công sức tôn tạo đất, tài sản trên đất cho ông Nguyễn Khắc H số tiền tạm tính
100.000.000 đồng (một trăm triệu đồng).
Tại Văn bản trình bày ý kiến ngày 27/4/2024 và ngày 10/7/2024 người đại
diện hợp pháp của người bị kiện trình bày:
1. Nguồn gốc khu đất:
Khu đất 30.612,2m
2
có nguồn gốc là đất công, trước đây UBND tỉnh S (nay
UBND tỉnh B) giao cho các tổ chức kinh tế nhà nước cấp tỉnh quản lý, sử
dụng (Công ty E.Ltd, Công ty S1, Công ty Cổ phần D, Công ty Cổ phần T2).
Ngày 11/4/2017, UBND tỉnh B ban hành Quyết định số 923/QĐ- UBND về
việc thu hồi đất đã cấp cho Công ty D (nay Công ty Cổ phần T2) giao Trung
tâm Phát triển quỹ đất tỉnh Bình Dương quản lý, lý do thu hồi: Công ty Cổ phần
T2 do thiếu trách nhiệm để blấn, chiếm theo quy định tại điểm e khoản 1 Điều
64 Luật Đất đai năm 2013.
4
Ngày 02/10/2020, UBND tỉnh B ban hành Quyết định số 2944/QĐ-UBND
về việc thu hồi khu đất diện tích 30.612,2m
2
do Trung tâm Phát triển quỹ đất
tỉnh B quản theo Quyết định số 932/-UBND ngày 11/4/2017, giao khu đất
cho Trung tâm Phát triển quỹ đất thành phố D quản lý.
2. Căn cứ pháp lý ban hành Quyết định.
- Ngày 04/4/2023, UBND phường A tiến hành kiểm tra, lập biên bản vi
phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai đối với ông Nguyễn Khắc H với hành vi
chiếm đất nông nghiệp không phải đất trồng lúa, đất rừng đặc dụng, đất rừng
phòng hộ, đất rừng sản xuất tại khu vực đô thị với diện tích 1.851,5m
2
thuộc đất
công do UBND tỉnh B thu hồi giao Trung tâm phát triển quỹ đất thành phố D
quản lý theo Quyết định số 2944/QĐ-UBND ngày 02/10/2020.
- Ngày 07/4/2023, UBND phường A Tờ trình số 82/TTr-UBND đề nghị
UBND thành phố D ban hành Quyết định áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả
trong lĩnh vực đất đai đối với ông Nguyễn Khắc H.
- Ngày 14/4/2023, Chủ tịch UBND thành phố D ban hành Quyết định số
1471/QĐ-KPHQ buộc thực hiện biện pháp khắc phục hậu quả đối với ông
Nguyễn Khắc H.
Như vậy, việc Chủ tịch UBND thành phố D không ban hành quyết định xử
phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai đối với ông Nguyễn Khắc H
phù hợp theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 65 Luật Xử vi phạm hành
chính (sửa đổi, bổ sung năm 2020) khoản 1 khoản 2 Điều 4 Nghị định số
91/2019/NĐ-CP ngày 19/11/2019 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực đất đai (quá 02 năm tính từ thời điểm người có thẩm quyền
thi hành công vụ phát hiện hành vi vi phạm). Đồng thời, việc Chủ tịch UBND
thành phố D ban hành Quyết định số 1471/QĐ-KPHQ ngày 14/4/2023 buộc
thực hiện biện pháp khắc phục hậu quả đối với ông Nguyễn Khắc H là phù hợp
quy định tại Điều 28 Luật X vi phạm hành chính (sửa đổi, bổ sung năm
2020) điểm a, khoản 7 Điều 14 Nghị định số 91/2019/NĐ-CP ngày
19/11/2019 của Chính phủ quy định xphạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
đất đai.
- Qua kiểm tra hiện trạng khu đất công, UBND phường A nhận thấy ông
Nguyễn Khắc H chưa tự nguyện chấp hành biện pháp khắc phục hậu quả theo
Quyết định số 1471/QĐ-KPHQ ngày 14/4/2023. Do đó, ngày 01/11/2023,
UBND phường A Tờ trình số 183/TTr-UBND đề nghị UBND thành phố D
ban hành Quyết định cưỡng chế buộc thực hiện biện pháp khắc phục hậu quả
trong lĩnh vực đất đai đối với ông Nguyễn Khắc H.
- Ngày 10/11/2023, UBND thành phố D ban hành Quyết định số 5093/QĐ-
CCXP cưỡng chế buộc thực hiện biện pháp khắc phục hậu quả đối với ông
Nguyễn Khắc H.
Như vậy, việc Chủ tịch UBND thành phố D ban hành Quyết định số
5093/QĐ- CCXP cưỡng chế buộc thực hiện biện pháp khắc phục hậu quả đối
với ông Nguyễn Khắc H phù hợp theo quy định tại Điều 29 Luật Xử vi
5
phạm hành chính (sửa đổi, bổ sung năm 2020) và Điều 33 Nghị định số
166/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 của Chính phủ quy định về cưỡng chế thi
hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính.
3. Quan điểm của UBND thành phố đối với yêu cầu của người khởi kiện:
Ông Nguyễn Khắc H sử dụng phần diện tích 1.851,5m
2
trong tổng diện tích
30.612,2m
2
do ông Nguyễn Khắc H lấn chiếm. Do đó, Chủ tịch UBND thành
phố D ban hành Quyết định s1471/QĐ-KPHQ ngày 14/4/2023 buộc thực hiện
biện pháp khắc phục hậu quả đối với ông Nguyễn Khắc H Quyết định số
5093/QĐ-CCXP cưỡng chế buộc thực hiện biện pháp khắc phục hậu quả đối với
ông Nguyễn Khắc H.
Trường hợp của ông Nguyễn Khắc H không phải là trường hợp Nhà nước
thu hồi đất của nhân, tổ chức để thực hiện dự án mục đích quốc phòng, an
ninh; phát triển kinh tế - xã hội lợi ích quốc gia, công cộng, do đó không đủ
điều kiện để được xem xét bồi thường, hỗ trợ theo Điều 75 Luật Đất đai năm
2013; Thông s 37/2014/TT-BTNMT ngày 30/6/2014 của Bộ T3 Môi
trưởng quy định chi tiết bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất;
Quyết định số 10/2023/QĐ-UBND ngày 13/4/2023 của UBND tỉnh B quy định
về bồi thường, hỗ trợ tái định khi nnước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh
Bình Dương. Như vậy, việc ông Nguyễn Khắc H u cầu Chủ tịch UBND thành
phố D hủy Quyết định số 1471/QĐ-KPHQ ngày 14/4/2023; buộc Chủ tịch
UBND thành phố D trách nhiệm bồi thường, hỗ trợ tài sản trên đất hiện tại
tạm tính là 100.000.000 đồng (một trăm triệu đồng) là không có cơ sở.
Đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương bác đơn khởi kiện của ông
Nguyễn Khắc H.
Tại Văn bản số 307/TTPTQĐ ngày 08/7/2024 người quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan Trung tâm Phát triển quỹ đất thành phố D trình bày:
1. Về hồ sơ quản lý khu đất diện tích 30.612,2m
2
:
Khu đất diện tích 30.612,2m
2
hiện tại Trung tâm Phát triển quỹ đất thành phố
D đang quản lý dựa trên các văn bản pháp lý sau:
- Quyết định số 2944/QĐ-UBND ngày 02/10/2020 của UBND tỉnh B về việc
thu hồi khu đất diện tích 30.612,2m
2
do Trung tâm Phát triển quỹ đất tỉnh
quản theo Quyết định số 923/QĐ-UBND ngày 11/4/2017 của Ủy ban nhân
dân tỉnh, giao khu đất cho Trung tâm Phát triển quỹ đất thành phố D quản lý.
- Biên bản triển khai Quyết định số 2944/QĐ-UBND ngày 02/10/2020
của UBND tỉnh và bàn giao thực địa khu đất có diện tích 30.612,2m
2
tại phường
A giữa Trung tâm Phát triển quỹ đất tỉnh và Trung tâm Phát triển quỹ đất thành
phố, Phòng Tài nguyên Môi trường thành phố, UBND phường A từ ngày
20/10/2020 đến 22/01/2021; ghi nhận: Hiện trạng có các hộ dân đang sử dụng.
Nhận thấy hiện trạng khu đất có các hộ dân đang sử dụng, Trung tâm Phát
triển quỹ đất đã kiến nghị UBND thành phố thành lập Tổ công tác kiểm tra, thiết
lập quản khai thác sử dụng khu đất diện tích 30.612,2m
2
(Quyết định số
1867/QĐ-UBND ngày 11/5/2021 của UBND thành phố); tham mưu UBND
6
thành phố ban hành thông báo thời gian di dời tài sản, thực hiện công tác bàn
giao đất theo quyết định của UBND tỉnh B (Thông báo số 57/TB-UBND ngày
25/02/2022 của UBND thành phố). Qua đó, xác định có trường hợp ông Nguyễn
Khắc H đang sử dụng đất trong phạm vi khu đất công tiếp nhận từ Trung tâm
Phát triển quỹ đất tỉnh Bình Dương.
- Thông báo số 465/TB-UBND ngày 04/8/2022 của UBND thành phố D
về ý kiến kết luận của ông Anh T1 - Phó Chủ tịch UBND thành phố tại cuộc
họp nghe báo cáo tiến độ Tổ công tác kiểm tra, thiết lập quản và khai thác sử
dụng khu đất diện tích 30.612,2m
2
. nội dung: “Trường hợp hộ dân không
bàn giao mặt bằng giao Chủ tịch UBND phường A chtrì phối hợp với phòng
TNMT, phòng Quản lý đô thị lập biên bản các hành vi vi phạm về đất đai và xây
dựng”
Tóm lại:
- Khu đất diện tích 30.612,2m
2
; Trung tâm Phát triển quỹ đất thành phố
tiếp nhận quản lý từ năm 2020 do Trung tâm Phát triển quỹ đất tỉnh bàn giao
theo Quyết định số 2944/QĐ-UBND ngày 02/10/2020 của UBND tỉnh B, thuộc
nguồn gốc đất dôi dư nhà nước quản lý.
- Thời điểm Trung tâm Phát triển quỹ đất tiếp nhận quản khu đất trên,
kiểm tra soát vị trí đất ông Nguyễn Khắc H sử dụng không Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất, không được cơ quan có thẩm quyền xác nhận cho phép
sử dụng đất.
Từ sở trên, khu đất diện tích 30.612,2m
2
không thuộc diện thực hiện
chính sách đền bù, hỗ trợ về đất, tài sản gắn liền với đất; trong đó có trường hợp
của ông Nguyễn Khắc H.
Quá trình tố tụng, người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Nguyễn Thị
N trình bày:
Nguyễn Thị N là vợ ông Nguyễn Khắc H, bà N thống nhất với yêu cầu
khởi kiện của ông Nguyễn Khắc H.
- Sau khi Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương ban hành Quyết định đưa vụ
án ra xét xử, ngày 19/8/2024, ông Nguyễn Khắc H đơn khởi kiện bổ sung
buộc Chủ tịch UBND thành phố D phải bồi thường công sức, tôn tạo, giữ gìn đất
và tài sản trên đất thêm số tiền 500.000.000 đồng, tổng số tiền ông Nguyễn Khắc
H yêu cầu 600.000.000 đồng. Tại phiên tòa ông Nguyễn Khắc H vẫn giữ
nguyên yêu cầu khởi kiện.
Tại Bản án hành chính thẩm số 45/2024/HC-ST ngày 23 tháng 8 năm
2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương quyết định:
Căn cứ vào các Điều 30, 32, 116, 134, khoản 1 Điều 157, 158; khoản 1
Điều 164; điểm a khoản 2 Điều 193 Điều 194 của Luật Tố tụng hành chính
năm 2015;
7
Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy
ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản
sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của người khởi kiện ông Nguyễn Khắc
H đối với yêu cầu hủy các quyết định và yêu cầu bồi thường sau:
- Quyết định số 1471/QĐ-KPHQ ngày 14/4/2023 của Chủ tịch Ủy ban
nhân dân thành phố D thực hiện biện pháp khắc phục hậu quả.
- Quyết định số 5093/QĐ-CCXP ngày 10/11/2023 của Chủ tịch Ủy ban
nhân dân thành phố D, tỉnh Bình Dương quyết định cưỡng chế buộc thực hiện
biện pháp khắc phục hậu quả.
- Buộc Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố D trách nhiệm bồi thường
công sức tôn tạo, giữ gìn đất, bồi thường tài sản trên đất số tiền 600.000.000
đồng (sáu trăm triệu đồng).
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí quyền kháng cáo theo
luật định.
Ngày 30/8/2024, ông Nguyễn Khắc H kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Người khởi kiện giữ nguyên nội dung đơn khởi kiện và đơn kháng cáo, cụ
thể đề nghị Tòa án cấp thẩm sửa bản án thẩm theo hướng chấp nhận yêu
cầu khởi kiện của người khởi kiện do các văn bản quyết định của UBND giao
cho đương sự đều ghi nhận đất do Nhà nước quản giống nquy định của
pháp luật đất do Nhà nước quản lý, người dân quyền sử dụng. Tại tờ trình
của UBND phường A thì việc lập Biên bản vi phạm hành chính hết hiệu lực
pháp luật nên việc ra Quyết định khắc phục hậu quả là không đúng pháp luật. Đề
nghị Tòa án cấp phúc thẩm xác định hiệu lực của Biên bản. Yêu cầu việc thực
hiện thu hồi đất để làm dự án tphải bồi thường cho người dân theo quy định
tại Điều 5 Nghị định số 88 của Chính phủ. Khi người khởi kiện sử dụng đất
không bquan Nhà nước ngăn cản, việc khai hoang của ông H đúng pháp
luật.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh
tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án:
Về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư
phiên tòa những người tham gia ttụng trong quá trình giải quyết vụ án,
kể từ khi thụ lý, cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án: đã tuân thủ
đúng các quy định của pháp luật.
Về việc giải quyết vụ án: Người khởi kiện lấn chiếm, sử dụng đất trái
phép, không được quan Nhà nước thẩm quyền giao, không đăng
khai theo quy định của pháp luật. Đất này đã được Nhà nước quyết định thu
hồi giao cho Trung tâm P đất tỉnh Bình Dương Trung tâm Phát triển Quỹ
8
đất thành phố D, tỉnh Bình Dương quản lý theo đúng quy định pháp luật. Bản án
sơ thẩm giải quyết là có căn cứ.
Tại phiên tòa hôm nay, người khởi kiện không xuất trình được chứng cứ
mới để chứng minh cho yêu cầu kháng o của mình, đề nghị Hội đồng xét xử
phúc thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện yêu cầu kháng cáo của người
khởi kiện, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được kiểm tra, xem xét tại phiên toà, kết
quả tranh tụng tại phiên toà, ý kiến của Kiểm sát viên, c quy định của pháp
luật, Hội đồng xét xử nhận định:
[1]. Về thủ tục tố tụng: Đơn kháng cáo của ông Nguyễn Khắc H hợp lệ,
nên được Hội đồng xét xử xem xét theo thủ tục phúc thẩm.
[2]. Về nội dung:
Diện tích đất 1.851,5m
2
ông Nguyễn Khắc H đang s dụng thuộc một
phần trong tổng diện tích đất công 44.800m
2
. Nguồn gốc diện tích đất 44.800m
2
là của ông Quách Trường C.
Ngày 19/6/1991, Ủy ban nhân dân tỉnh S (nay tỉnh Bình Dương) ban
hành Quyết định số 81/QĐ-UB thu hồi diện tích 44.800m
2
do Ủy ban nhân dân
xã A quản lý và cấp giấy phép sử dụng đất cho Công ty E.LTD để xây dựng khu
sản xuất.
Ngày 14/4/1992, Ủy ban nhân dân tỉnh S ban hành Quyết định số 35/QĐ-
UB giao quyền sdụng đất 44.800m
2
cho Công ty D và cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất số 22/92/GCN-SB cho Công ty D. Thời điểm Công ty Miền
núi được giao đất thì thỏa thuận bồi thường thành quả lao động trên đất
44.800m
2
cho ông Quách Trường S (con ông C). Kết quả, Công ty Miền núi
nhận 44.800m
2
đất và ông Quách Trường S nhận số tiền 170.000.000 đồng.
Ngày 11/4/2017, UBND tỉnh B ban hành Quyết định số 923/QĐ-UBND
thu hồi giao cho Trung tâm Phát triển Qũy đất tỉnh quản diện ch đất
44.800m
2
(qua đo đạc thực tế diện tích 33.860,2m
2
3 khu: Khu A diện tích
30.612,2m
2
; khu B diện tích 3.241,8m
2
, khu C diện tích 7.110,8m
2
).
Ngày 02/10/2020, UBND tỉnh B ban hành Quyết định số 2944/QĐ-
UBND về việc thu hồi khu đất diện tích 30.612,2m
2
do Trung tâm Phát triển
Quỹ đất tỉnh B quản lý giao cho Trung tâm Phát triển Quỹ đất thành phố D quản
lý.
Tại Biên bản khảo sát, kiểm tra số 33/BBKSKT ngày 29/12/2021 kiểm tra
đất, công trình xây dựng, cây trồng nằm trong phạm vi thu hồi đất theo Quyết
định số 2944/QĐ-UBND ngày 02/10/2020 của UBND tỉnh B, thể hiện: ông
Nguyễn Khắc H xin chấp hành giao mặt bằng cho Nhà nước, tuy nhiên hiện
đang trồng rau phục vụ tết 2022 do đó kiến nghị nhà nước xin xem xét gia hạn
thời gian giao mặt bằng cuối tháng 02/2022, nhưng đến nay ông H vẫn không
chịu di dời cây trồng để bàn giao đất.
9
Ngày 25/02/2022, UBND thành phố D ban hành Thông báo số 57/TB-
UBND về việc thực hiện di dời tài sản, thực hiện ng tác bàn giao đất theo
quyết định của UBND tỉnh B.
Ngày 02/8/2022, Trung tâm Phát triển Quỹ đất thành phố D lập Biên bản
làm việc với ông Nguyễn Khắc H, tại buổi làm việc ông H xác định đã nhận
được thông báo s57; đồng ý cho nhà nước xây tường rào bao quanh khu đất,
phần nào không xây dựng thì xin cho trồng rau làm kế sinh nhai...; không yêu
cầu bồi thường.
Ngày 07/4/2023, Phòng Tài nguyên Môi trường thành phố D phối hợp
cùng UBND phường A lập Biên bản vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai
số 32/BB-VPHC đối với ông Nguyễn Khắc H đã hành vi vi phạm hành
chính: Chiếm đất nông nghiệp không phải đất trồng lúa, đất rừng đặc dụng,
đất rừng phòng hộ, đất rừng sản xuất tại khu vực đô thị với diện tích 1.851,5m
2
thuộc đất công do UBND tỉnh B thu hồi giao cho Trung tâm Phát triển Qũy đất
thành phố D theo Quyết định số 2944/QĐ-UBND ngày 02/10/2020.
Ngày 14/4/2023, Chủ tịch UBND thành phố D ban hành Quyết định số số
1471/QĐ-KPHQ quyết định buộc thực hiện biện pháp khắc phục hậu quả đối
với ông Nguyễn Khắc H.
Không đồng ý với Quyết định số 1471/QĐ-KPHQ ngày 14/4/2023 của
Chủ tịch UBND thành phố D. Ngày 31/10/2023, ông Nguyễn Khắc H đã làm
đơn khiếu nại gửi đến UBND thành phố D, nhưng chưa được giải quyết, ông H
cũng không có ý kiến.
Ngày 18/10/2023, UBND thành phố D ban hành Thông báo số 756/TB-
UBND về việc yêu cầu chấp hành quyết định buộc thực hiện biện pháp khắc
phục hậu quả đối với ông Nguyễn Khắc H. Tuy nhiên, ông H vẫn không thực
hiện.
Ngày 10/11/2023, Chủ tịch UBND thành phố D ban hành Quyết định số
5093/QĐ-CCXP quyết định cưỡng chế buộc thực hiện biện pháp khắc phục hậu
quả đối với ông Nguyễn Khắc H.
[3] Xét Quyết định số 1471/QĐ-KPHQ ngày 14/4/2023 của Chủ tịch
UBND thành phố D.
[3.1] Về thẩm quyền: Chủ tịch UBND thành phố D ban hành Quyết định
số 1471/QĐ-KPHQ ngày 14/4/2023 quyết định buộc thực hiện biện pháp khắc
phục hậu quả đối với ông Nguyễn Khắc H đúng quy định tại điểm đ khoản 2
Điều 38 Luật Xử lý vi phạm hành chính.
[3.2] Về trình tự thủ tục, căn cứ pháp luật: Chủ tịch UBND thành phố D
ban hành Quyết định s1471/QĐ-KPHQ ngày 14/4/2023 quyết định buộc thực
hiện biện pháp khắc phục hậu quả đối với ông Nguyễn Khắc H đúng quy định
tại Điều 12 Nghị định 118/2021/NĐ-CP ngày 23/12/2021 của Chính phủ quy
định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Xử lý vi phạm hành chính.
[3.3] Về nội dung:
10
[3.3.1] Như phân tích ở trên, diện tích đất 1.851,5m
2
ông Nguyễn Khắc H
đang sử dụng thuộc đất công, do UBND tỉnh S (nay UBND tỉnh B) thu hồi
giao cho tổ chức kinh tế nhà nước quản , sdụng theo Quyết định số 81/QĐ-
UB ngày 19/6/1991. Năm 2014, ông Nguyễn Khắc H đã tự ý chiếm một phần
diện tích đất canh tác. Do đó, Chủ tịch UBND thành phố D căn cứ điểm điểm a
khoản 7 Điều 14 Nghị định số 91/2019/NĐ-CP ngày 19 tháng 11 năm 2019 của
Chính phủ vxử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai, được sửa đổi
bổ sung tại Nghị định số 04/2022/NĐ-CP ngày 06 tháng 01 năm 2022 của Chính
phủ để ban hành Quyết định số 1471/QĐ-KPHQ ngày 14/4/2023 quyết định
buộc thực hiện biện pháp khắc phục hậu quả đối với ông Nguyễn Khắc H
căn cứ, đúng quy định.
[3.3.2] Ngày 07/4/2023, Phòng Tài nguyên Môi trường thành phD
phối hợp cùng UBND phường A lập Biên bản vi phạm hành chính trong lĩnh
vực đất đai số 32/BB-VPHC đối với ông Nguyễn Khắc H đã có hành vi vi phạm
hành chính: Chiếm đất nông nghiệp không phải đất trồng lúa, đất rừng đặc
dụng, đất rừng phòng hộ, đất rừng sản xuất tại khu vực đô thị với diện tích
1.851,5m
2
thuộc đất công do UBND tỉnh B thu hồi giao cho Trung tâm Phát
triển Qũy đất thành phố D theo Quyết định số 2944/QĐ-UBND ngày
02/10/2020.
Tại mục 4 Điều 1 của Quyết định số 1471/QĐ-KPHQ ngày 14/4/2023 đã
thể hiện: “4. do không ra quyết định xử phạt: Hết thời hiệu xử phạt vi phạm
hành chính quy định tại khoản 1 và 2 Điều 4 Nghị định số 91/2019/NĐ-CP ngày
19/11/2019 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất
đai”.
Đối chiếu với quy định tại Điều 4 Nghị định s 91/2019/NĐ-CP ngày
19/11/2019 của Chính phủ thì việc Chủ tịch UBND thành phố D không ra quyết
định xử phạt vi phạm hành chính đối với ông Nguyễn Khắc H chưa phù hợp,
tuy nhiêu điều này có lợi cho người dân và không ai khiếu nại gì.
[4] Xét Quyết định số 5093/-CCXP ngày 10/11/2023 của Chủ tịch Ủy
ban nhân dân thành phố D.
[4.1] Về thẩm quyền: Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố D ban hành
Quyết định số 5093/QĐ-CCXP ngày 10/11/2023 đúng quy định tại điểm a
khoản 1 Điều 87 Luật Xử lý vi phạm hành chính.
[4.2] Về trình tự, thủ tục, căn cứ pháp luật: Chủ tịch Ủy ban nhân dân
thành phố D ban hành Quyết định số 5093/QĐ-CCXP ngày 10/11/2023 đúng
quy định tại Điều 33 Nghị định số 166/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 của Chính
phủ quy định về cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính.
[4.3] Về nội dung: Như đã phân tích, Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố
D ban hành Quyết định số 5093/QĐ-CCXP ngày 10/11/2023 đúng quy định
pháp luật.
[5] Ông Nguyễn Khắc H thừa nhận, năm 2014 ông H đã tự khai hoang
diện tích đất 1.851,5m
2
, quá trình sử dụng không khai đăng ký, không đóng
11
thuế, đã biết diện tích đất sử dụng đất công do Nhà nước quản lý. Do đó, việc
ông Nguyễn Khắc H yêu cầu buộc Chủ tịch UBND thành phố D phải bồi thường
công sức tôn tạo, giữ gìn đất, bồi thường tài sản trên đất số tiền 600.000.000
đồng (sáu trăm triệu đồng) không căn cứ. Do đó, yêu cầu khởi kiện của
người khởi kiện ông Nguyễn Khắc H không có căn cứ chấp nhận.
Tại phiên tòa phúc thẩm ngày hôm nay, phía người khởi kiện không xuất
trình được chứng cứ mới để chứng minh cho yêu cầu kháng cáo nên không
căn cứ để chấp nhận yêu cầu khởi kiện yêu cầu kháng cáo của người khởi
kiện.
[6]. Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố
Hồ Chí Minh tại phiên tòa được chấp nhận.
[7]. Các quyết định khác của bản án nh chính thẩm không bị kháng
cáo, kháng nghị hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng
nghị.
[8]. Về án phí hành chính phúc thẩm: Do kháng cáo không được chấp
nhận nên ông Nguyễn Khắc H phải chịu theo quy định.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 241, Điều 242 Luật tố tụng hành chính;
Điều 32, Điều 33, Điều 34 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm,
thu, giữ quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;
Tuyên xử:
1. Không chấp nhận kháng cáo của ông Nguyễn Khắc H.
2. Giữ nguyên Bản án hành chính thẩm số 45/2024/HC-ST ngày 23
tháng 8 năm 2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương.
3. Bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của người khởi kiện ông Nguyễn Khắc H
đối với yêu cầu hủy các quyết định và yêu cầu bồi thường sau:
- Quyết định số 1471/QĐ-KPHQ ngày 14/4/2023 của Chủ tịch Ủy ban
nhân dân thành phố D thực hiện biện pháp khắc phục hậu quả.
- Quyết định số 5093/QĐ-CCXP ngày 10/11/2023 của Chủ tịch Ủy ban
nhân dân thành phố D, tỉnh Bình Dương quyết định cưỡng chế buộc thực hiện
biện pháp khắc phục hậu quả.
- Buộc Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố D trách nhiệm bồi thường
ng sức tôn tạo, giữ gìn đất, bồi thường tài sản trên đất số tiền 600.000.000
đồng (sáu trăm triệu đồng).
4. Các quyết định khác của bản án hành chính thẩm không bị kháng
cáo, kháng nghị hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng
nghị.
12
5. Về án phí phúc thẩm: Ông Nguyễn Khắc H phải chịu 300.000 đồng;
được khấu trừ 300.000 đồng tiền tạm ứng án phành chính phúc thẩm do ông
Nguyễn Khắc H nộp theo biên lai số 0000348 ngày 09/09/2024 của Cục Thi
hành án dân sự tỉnh Bình Dương (ông Nguyễn Khắc H đã nộp đủ án phí hành
chính phúc thẩm).
Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- Tòa án nhân dân tối cao;
- VKSNDCC tại TP.HCM;
- TAND tỉnh Bình Dương;
- Cục THADS tỉnh Bình Dương;
- Các đương sự;
- Lưu: HS, VP (TVN).
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Trần Văn Đạt
Tải về
Bản án số 405/2025/HC-PT Bản án số 405/2025/HC-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 405/2025/HC-PT Bản án số 405/2025/HC-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất