Bản án số 271/2025/HC-PT ngày 11/04/2025 của TAND cấp cao tại Hà Nội
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 271/2025/HC-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 271/2025/HC-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 271/2025/HC-PT
Tên Bản án: | Bản án số 271/2025/HC-PT ngày 11/04/2025 của TAND cấp cao tại Hà Nội |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND cấp cao tại Hà Nội |
Số hiệu: | 271/2025/HC-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 11/04/2025 |
Lĩnh vực: | Hành chính |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ án: | Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI HÀ NỘI
Bản án số 271/2025/HC-PT
Ngày 11/4/2025
V/v Khiếu kiện quyết định hành chính, hành
vi hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI
Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Lê Thị Thúy Bình;
Các Thẩm phán: Ông Ngô Tự Học;
Ông Nguyễn Tiến Dũng.
Thư ký phiên tòa: Bà Đặng Thị Cẩm Ly, Thẩm tra viên Toà án nhân dân cấp
cao tại Hà Nội.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội: Ông Nguyễn Văn
Tuyến, Kiểm sát viên cao cấp tham gia phiên tòa.
Ngày 11 tháng 4 năm 2025, tại điểm cầu trung tâm Trụ sở Tòa án nhân dân cấp
cao tại Hà Nội và điểm cầu thành phần trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang, Tòa án
nhân dân cấp cao tại Hà Nội mở phiên tòa xét xử phúc thẩm trực tuyến công khai vụ
án hành chính thụ lý số 113/2025/TLPT-HC ngày 16 tháng 01 năm 2025 về việc
“Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai”
Do Bản án hành chính sơ thẩm số 68/2024/HC-ST ngày 10 tháng 9 năm 2024
của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 2987/2025/QĐPT-HC ngày
19 tháng 3 năm 2025 giữa các đương sự:
1. Người khởi kiện: Ông Lý Duy T1, sinh năm 1967; địa chỉ: Tổ dân phố
Phương L 2, thị trấn Phương S, huyện Lục N1, tỉnh Bắc Giang; có mặt.
2. Người bị kiện: Chủ tịch và Ủy ban nhân dân huyện Lục N1, tỉnh Bắc Giang;
Người đại diện theo pháp luật: Ông Đặng Văn N2 - Chủ tịch; vắng mặt.
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
2
1. Cục đường bộ Việt Nam - Bộ Giao thông Vận tải; địa chỉ: phường Dịch V,
quận Cầu G, thành phố Hà Nội; Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Xuân
T2 – Giám đốc Ban Quản lý Dự án 3; vắng mặt.
2. Bà Đặng Thị N3, sinh năm 1971; có mặt.
3. Chị Lý Thị Vân A, sinh năm 1996; vắng mặt.
4. Anh Lý Duy M, sinh năm 1998; vắng mặt.
Cùng địa chỉ: Tổ dân phố Dục Q, phường Bích Đ, thị xã Việt Yên, tỉnh Bắc
Giang.
Người đại diện theo ủy quyền của bà N3, anh M: Ông Lý Duy T1, sinh năm
1967; địa chỉ: Tổ dân phố Phương L 2, thị trấn Phương S, huyện Lục N1, tỉnh Bắc
Giang; có mặt.
5. Ủy ban nhân dân thị trấn Phương S, huyện Lục N1, tỉnh Bắc Giang.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Đỗ Văn C - Chủ tịch; vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo người khởi kiện ông Lý Duy T1 trình bày:
Gia đình ông có sử dụng
thửa đất số 19, tờ bản đồ số 22, tọa lạc tại tổ dân phố
Phương L 2, thị trấn Phương S, huyện Lục N1, tỉnh Bắc Giang. Thửa đất này có nguồn
gốc do ông cha khai hoang, sử dụng làm nhà ở trước năm 1980. Ngày 18/12/2000, hộ
gia đình ông được Ủy ban nhân dân (UBND) huyện Lục N1 cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ) lần đầu có số vào sổ 00340, diện tích 630m
2
. Ngày
20/12/2006, hộ gia đình ông được được UBND huyện Lục N1 cấp đổi GCNQSDĐ có
số vào sổ H 00362, thửa đất số 19, tờ bản đồ số 22, diện tích 682m
2
. Trong quá trình
quản lý đất hộ gia đình ông sử dụng liên tục, không xảy ra bất kỳ tranh chấp với tổ
chức, cá nhân nào và thực hiện đầy đủ nghĩa vụ tài chính với Nhà nước.
UBND huyện Lục N1 thu hồi 58,9m
2
đất của gia đình ông để bàn giao cho đơn
vị thi công thực hiện Dự án cải tạo, nâng cấp Quốc lộ 31 đoạn từ Km2+400 - Km44+900
tỉnh Bắc Giang (Dự án) mà không ban hành bất kỳ một văn bản pháp luật nào.
Ngày 01/10/2023, ông đã khiếu nại đến UBND huyện Lục N1 về hành vi thu
hồi đất mà không ban hành Quyết định thu hồi đất, Quyết định phê duyệt phương án
bồi thường, hỗ trợ và tái định cư.
Ngày 06/5/2024, Chủ tịch UBND huyện Lục N1 ban hành Quyết định số
1681/QĐ-UBND giải quyết đơn khiếu nại của ông T1. UBND huyện Lục N1 căn cứ
vào Kết luận thanh tra số 1528/KL-UBND ngày 28/07/2023 để khẳng định: Việc cấp
GCNQSDĐ cho gia đình ông nói riêng và 126 hộ gia đình trên địa bàn huyện nói
riêng là sai vì cấp cả diện tích đất hành lang giao thông Quốc lộ 31 để từ đó không
ban hành Quyết định thu hồi đất, Quyết định phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ
và tái định cư cho hộ gia đình ông. Ông nhận thấy không đúng với các quy định của
3
pháp luật về đất đai qua các thời kỳ.
Ông Lý Duy T1 khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết:
1. Tuyên hủy toàn bộ Quyết định hành chính số 1681/QĐ-UBND ngày
06/5/2024 của Chủ tịch UBND huyện Lục N1, tỉnh Bắc Giang về việc giải quyết đơn
khiếu nại của ông Lý Duy T1 trú tại: Tổ dân phố Phương L 2, thị trấn Phương S,
huyện Lục N1, tỉnh Bắc Giang.
2. Buộc UBND huyện Lục N1, tỉnh Bắc Giang phải ban hành Quyết định thu
hồi đất, Quyết định phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư cho gia
đình ông đối với diện tích 58,9m
2
đất ở bị thu hồi thuộc thửa đất số 19, tờ bản đồ số
22, tại tổ dân phố Phương L 2, thị trấn Phương S, huyện Lục N1 theo GCNQSDĐ có
số vào sổ H00362 và tài sản trên đất gồm: 3,48m
3
bê tông là đường vào nhà, 01 cây
đu đủ, 04 cây đào, 01 cây ổi, 02 cây hoa mẫu đơn, 02 cây thiết mộc lan, 02 cây hoa
hồng, 01 cây nhãn, 07 cây hoa dâm bụt, 02 cây quất theo đúng các quy định của pháp
luật.
Quá trình giải quyết vụ án ông T1 đề nghị Tòa án xem xét tính hợp pháp của
các văn bản hành chính liên quan: Chỉ thị số 13/CT-UB ngày 11/08/1983 của UBND
tỉnh Hà Bắc (nay là tỉnh Bắc Giang); Quyết định cấp GCNQSDĐ lần đầu vào năm
2000 và cấp đổi GCNQSDĐ vào năm 2006 cho hộ gia đình ông Lý Duy T1; Quyết
định số 608/QĐ-UBND ngày 07/08/2023 của UBND huyện Lục N1 về việc hủy bỏ
Quyết định số 57/QĐ-UBND; Quyết định số 58/QĐ-UBND ngày 19/01/2023 của
UBND huyện Lục N1.
Người bị kiện là UBND huyện Lục N1 và Chủ tịch UBND huyện Lục N1 do
ông Giáp Văn Ơn là người đại diện theo ủy quyền trình bày:
Căn cứ kế hoạch thực hiện Dự án cải tạo, nâng cấp QL 31 đoạn từ Km2+400
- Km44+900 tỉnh Bắc Giang (đoạn qua huyện Lục N1), Trung tâm Phát triển quỹ đất
và Cụm công nghiệp huyện đã tiến hành triển khai hội nghị thông qua qua chế độ
chính sách tại Nhà văn hoá thôn liên quan. Ngày 12/9/2022, Trung tâm phát triển
quỹ đất và Cụm công nghiệp đã tiến hành kiểm kê trong đó có hộ ông Lý Duy T1.
Theo bản đồ giải phóng mặt bằng được trích lục từ bản đồ địa chính thị trấn Phương
S năm 2005, ban đầu Trung tâm phát triển quỹ đất và Cụm công nghiệp xác định
diện tích thu hồi đối với thửa đất của hộ ông Lý Duy T1 là 58,9m
2
đất (bao gồm cả
phần bảo trì đường bộ) và tài sản trên đất gồm: 3,48m
3
bê tông là đường vào nhà, 01
cây đu đủ, 04 cây đào, 01 cây ổi, 02 cây hoa mẫu đơn, 02 cây thiết mộc lan, 02 cây
hoa hồng, 01 cây nhãn, 07 cây hoa dâm bụt, 02 cây quất. Tuy nhiên, sau khi kiểm tra
hồ sơ cấp GCNQSDĐ năm 2000 xác định phần diện tích thi công Dự án thuộc đất
hành lang giao thông nên UBND huyện đã không thu hồi đất và lập phương án bồi
thường, hỗ trợ cho hộ ông T1. Ngày 19/01/2023, UBND huyện Lục N1 ban hành các
Quyết định số 57/QĐ-UBND về việc thu hồi đất để thực hiện dự án cải tạo, nâng cấp
4
QL31 đọan từ Km2+400 - Km44+900, tỉnh Bắc Giang (đoạn qua huyện Lục N1);
Quyết định số 58/QĐ-UBND về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ khi
Nhà nước thu hồi đất để thực hiện dự án cải tạo, nâng cấp QL31 đoạn từ Km2+400
- Km44+900, tỉnh Bắc Giang (đoạn qua huyện Lục N1). Sau khi phê duyệt phương
án bồi thường, hỗ trợ có một số công dân trên địa bàn phản ánh “về việc các thửa đất
có cùng nguồn gốc nhưng khi cấp giấy chứng nhận đất ở có thửa trừ hành lang giao
thông có thửa không trừ dẫn đến việc các thửa không trừ hành lang giao thông được
bồi thường là không công bằng”.
Ngày 31/01/2023, UBND huyện Lục N1 có Thông báo số 12/TB-UBND về
việc tạm dừng chi trả tiền bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất (đợt 2) để thực
hiện Dự án cải tạo, nâng cấp QL 31 (đoạn qua địa bàn huyện Lục N1), thời hạn chi
trả tiền lần sau sẽ được tính kể từ ngày UBND huyện Lục N1 có thông báo mới.
Ngày 07/6/2023, Chủ tịch UBND huyện Lục N1 ban hành Quyết định số
3034/QĐ-UBND thanh tra việc cấp GCNQSDĐ ở đối với 126 trường hợp bám trục
Quốc lộ 31 tại xã Chu Điện và thị trấn Phương S.
Ngày 28/7/2023, Chủ tịch UBND huyện Lục N1 có Kết luận thanh tra số 1528/KL-
UBND về việc cấp GCNQSDĐ ở đối với 126 trường hợp bám trục QL31 tại xã Chu
Điện và thị trấn Phương S. Ngày 14/8/2023, UBND huyện tổ chức đối thoại và thông
báo Kết luận thanh tra để thông báo tới các hộ về GCNQSDĐ ở cấp năm 2000 và
năm 2006 chưa trừ HLGT là chưa đúng quy định pháp luật. Sau khi có Kết luận
thanh tra, ngày 07/8/2023 UBND huyện ban hành Quyết định số 608/QĐ-UBND huỷ
bỏ Quyết định số 57/QĐ-UBND ngày 19/01/2023 và Quyết định số 58/QĐ-UBND
ngày 19/01/2023 của UBND huyện Lục N1. Trong đó, diện tích thu hồi và tài sản
của hộ ông Lý Duy T1 được xác định lại là nằm trong hành lang giao thông Quốc lộ
31 do vậy không đủ điều kiện bồi thường, hỗ trợ. Sau khi công khai các Quyết định
điều chỉnh thu hồi đất và Quyết định phế duyệt phương án UBND huyện Lục N1 đã
cho thi công dự án. Không nhất trí với nội dung trên ông T1 khiếu nại đến Chủ tịch
UBND huyện Lục N1; Chủ tịch UBND huyện Lục N1 ban hành quyết định giải quyết
khiếu nại đối với ông T1.
Đối với yêu cầu khởi kiện của ông T1 đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang
xét xử vụ án theo quy định của pháp luật và đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang
xem xét tính hợp pháp đối với GCNQSDĐ số phát hành số AI 859586, được UBND
huyện Lục N1 cấp ngày 20/12/2006, tên người sử dụng hộ ông Lý Duy T1 và bà Đặng
Thị N3 đối với thửa đất số 19, tờ bản đồ số 22, diện tích 682,0m
2
, địa chỉ thửa đất,
thôn Phương L 2, xã Phương S, huyện Lục N1, tỉnh Bắc Giang.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Xuân T2 - Giám đốc Ban quản
lý Dự án 3 là đại diện theo uỷ quyền của Cục đường bộ Việt Nam trình bày:
Dự án cải tạo, nâng cấp QL31 đoạn Km2+400 - Km44+900, tỉnh Bắc Giang
5
(Dự án) được Bộ trưởng Bộ Giao thông Vận tải phê duyệt chủ trương đầu tư tại
Quyết định số 1561/QĐ-BGTVT ngày 23/8/2021, phê duyệt điều chỉnh chủ trương
đầu tư tại Quyết định số 301/QĐ-BGTVT ngày 11/3/2022. Thực hiện phân cấp đầu
tư của Bộ Giao thông Vận tải, Tổng cục Đường bộ Việt Nam (nay là Cục Đường bộ
Việt Nam) đã phê duyệt đầu tư dự án tại Quyết định số 1593/QĐ-TCĐBVN ngày
16/3/2022, trong đó:
- Tổng chiều dài dự án khoảng 39,1km (không bao gồm đoạn qua khu vực thị
trấn Chũ đã bảo đảm quy mô), điểm đầu tại nút giao với QL1 (Km2+400 lý trình
QL31), thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang; điểm cuối tại nút giao với ĐT.290
(Km44+900 lý trình QL31), huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang, Dự án đi
qua các địa
bàn thành phố Bắc Giang, huyện Lạng Giang, huyện Lục N1, huyện Lục Ngạn tỉnh
Bắc Giang.
- Chủ đầu tư: Cục Đường bộ Việt Nam.
- Đơn vị quản lý dự án: Ban Quản lý dự án 3 - Cục Đường bộ Việt Nam.
- Công tác bồi thường, hỗ trợ, tái định cư (công tác GPMB) được tách thành
tiểu dự án riêng do UBND tỉnh Bắc Giang tổ chức thực hiện. UBND tỉnh Bắc Giang
giao UBND thành phố Bắc Giang và UBND các huyện Lạng Giang, huyện Lục N1,
huyện Lục Ngạn làm chủ đầu tư công tác GPMB trên địa bàn quản lý.
Ban Quản lý dự án 3 xin vắng mặt tại các phiên họp kiểm tra việc giao nộp,
tiếp cận, công khai chứng cứ và đối thoại trong các vụ án hành chính liên quan đến
công tác giải phóng mặt bằng phục vụ thi công Dự án cải tạo, nâng cấp QL31 đoạn
Km2+400 - Km44+900, tỉnh Bắc Giang. Ban Quản lý dự án 3 sẽ thực hiện các quyết
định liên quan đến trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền lợi của chủ đầu tư dự án phù hợp
với quy định của pháp luật hiện hành. Ban Quản lý dự án 3 kính đề nghị Tòa án nhân
dân tỉnh Bắc Giang chấp thuận.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Đỗ Văn C - Chủ tịch UBND thị
trấn Phương S: Nhất trí với quan điểm của UBND huyện Lục N1 và xin vắng mặt
tại các phiên toà.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Đặng Thị N3: Nhất trí với yêu cầu
khởi kiện của ông T1.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan anh Lý Duy M: Đã được Toà án giao
thông báo thụ lý vụ án, và các văn bản tố tụng hợp lệ nhưng không đến Toà trình bày
ý kiến đối với yêu cầu của người khởi kiện. Tại phiên tòa đại diện theo ủy quyền
trình bày: Đồng ý với yêu cầu khởi kiện của người khởi kiện.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, chị Lý Thị Vân A: Nhất trí với yêu cầu
khởi kiện của ông T1, đề nghị được vắng mặt tại các phiên tòa.

6
Tại Bản án hành chính sơ thẩm số 68/2024/HC-ST ngày 10/9/2024 của Tòa án
nhân dân tỉnh Bắc Giang đã quyết định: Căn cứ khoản 1 Điều 30, khoản 4 Điều 32,
điểm a khoản 2 Điều 116, điểm a khoản 2 Điều 193, Điều 204, Điều 205, Điều 206 và
khoản 1 Điều 348 Luật Tố tụng hành chính; khoản 1 Điều 75, khoản 2 Điều 82, Điều
157, điểm d khoản 2 Điều 106 Luật Đất đai năm 2013; các Điều 18, 21, 29, 30, 31
Luật Khiếu nại năm 2011; khoản 1 Điều 32 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14,
ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa
án. Xử: Bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Lý Duy T1 về việc đề nghị:
- Tuyên hủy toàn bộ nội dung Quyết định hành chính số 1681/QĐ-UBND ngày
06/5/2024 của Chủ tịch UBND huyện Lục N1, tỉnh Bắc Giang về việc giải quyết
Đơn khiếu nại của ông Lý Duy T1 trú tại: Tổ dân phố Phương L 2, thị trấn Phương
S, huyện Lục N1, tỉnh Bắc Giang.
- Buộc UBND huyện Lục N1, tỉnh Bắc Giang phải ban hành Quyết định thu
hồi đất, Quyết định phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư cho gia
đình ông đối với diện tích 58,9m
2
đất ở bị thu hồi thuộc thửa đất số 19, tờ bản đồ số
22, tại tổ dân phố Phương L 2, thị trấn Phương S, huyện Lục N1 theo GCNQSDĐ có
số vào sổ H 00362 do UBND huyện Lục N1 cấp ngày 20/12/2006 và tài sản trên đất
gồm: 3,48m
3
bê tông là đường vào nhà, 01 cây đu đủ, 04 cây đào, 01 cây ổi, 02 cây
hoa mẫu đơn, 02 cây thiết mộc lan, 02 cây hoa hồng, 01 cây nhãn, 07 cây hoa dâm
bụt, 02 cây quất trong quá trình thực hiện Dự án cải tạo nâng cấp Quốc lộ 31 theo
đúng các quy định của pháp luật.
- Huỷ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số phát hành AI 859586, được
UBND huyện Lục N1 cấp ngày 20/12/2006, tên người sử dụng hộ ông Lý Duy T1 và
bà Đặng Thị N3 đối với thửa đất số 19, tờ bản đồ số 22, diện tích 682,0m
2
, địa chỉ thửa
đất, thôn Phương L 2, xã Phương S, huyện Lục N1, tỉnh Bắc Giang.
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí và thông báo quyền
kháng cáo theo quy định pháp luật.
Ngày 24/9/2024, người khởi kiện là ông Lý Duy T1 có đơn kháng cáo toàn bộ
bản án sơ thẩm.
Tại phiên tòa phúc thẩm,
Người khởi kiện ông Lý Duy T1 vẫn giữ nguyên nội dung kháng cáo và đề
nghị Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận kháng cáo của ông, sửa bản án sơ thẩm theo
hướng chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông.
Người bị kiện Chủ tịch UBND và UBND huyện Lục N1, tỉnh Bắc Giang, Cục
đường bộ Việt Nam - Bộ Giao thông Vận tải, UBND thị trấn Phương S, chị Lý Thị
Vân A, anh Lý Duy M đều vắng mặt.
7
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Đặng Thị N3 nhất trí với khởi kháng
cáo của ông T1 và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét đảm bảo quyền lợi cho gia đình
bà.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội sau khi phân tích nội
dung vụ án, các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và phát biểu quan điểm giải
quyết vụ án: UBND huyện Lục N1 cấp GCNQSDĐ cho gia đình ông Lý Duy T1
trong đó có diện tích đất hành lang giao thông. UBND huyện Lục N1 không ban
hành quyết định thu hồi đất, không ban hành quyết định phê duyệt phương án bồi
thường là đúng pháp luật. Ông T1 khiếu nại, tại Quyết định số 1681/QĐ-UBND
ngày 06/5/2024 Chủ tịch UBND huyện Lục N1 đã không chấp nhận khiếu nại của
ông T1 về hành vi của UBND huyện Lục N1 sử dụng đất của hộ ông T1 mà không
ban hành quyết định thu hồi đất, phê duyệt phương án bồi thường hỗ trợ cho hộ ông
T1 là có căn cứ. Tòa án cấp sơ thẩm bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông T1 là
đúng quy định pháp luật. Ông T1 kháng cáo nhưng không có căn cứ chứng minh,
do vậy không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của ông T1, đề nghị Hội đồng xét xử
bác kháng cáo của ông T1, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án; ý kiến của các
đương sự, quan điểm của Kiểm sát viên về việc giải quyết vụ án, Hội đồng xét xử
phúc thẩm nhận định:
[1] Về tố tụng:
[1.1] Ngày 14/5/2024, ông Lý Duy T1 khởi kiện đề nghị hủy Quyết định số
1681/QĐ-UBND ngày 06/5/2024 của Chủ tịch UBND huyện Lục N1; xem xét tính
hợp pháp của các văn bản liên quan Chỉ thị số 13/CT-UB ngày 11/8/1983 của UBND
tỉnh Hà Bắc, Quyết định cấp GCNQSDĐ năm 2000 và cấp đổi GCNQSDĐ năm 2006
của UBND huyện Lục N1 cho hộ ông T1, Quyết định số 608/QĐ-UBND ngày
07/8/2023 của UBND huyện Lục N1 về việc hủy bỏ Quyết định số 57/QĐ-UBND,
Quyết định số 58/QĐ-UBND ngày 19/01/2023 của UBND huyện Lục N1; buộc
UBND huyện Lục N1 ban hành quyết định thu hồi đất và quyết định phê duyệt phương
án bồi thường, hỗ trợ tái định cư đối với diện tích 58,9m² đất của hộ ông T1 bị thu hồi.
Khiếu kiện thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án; Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang
thụ lý, giải quyết là đúng quy định tại khoản 1 Điều 30, Điều 32, Điều 116 Luật tố
tụng hành chính.
[1.2] Kháng cáo của người khởi kiện ông Lý Duy T1 trong hạn luật định, được
xem xét giải quyết theo thủ tục phúc thẩm.
[1.3] Người bị kiện Chủ tịch và UBND huyện Lục N1, người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan Cục đường bộ Việt Nam - Bộ Giao thông Vận tải, UBND thị trấn
8
Phương S, chị Lý Thị Vân A và anh Lý Duy M đã được triệu tập hợp lệ nhưng vắng
mặt, anh M đã ủy quyền cho ông T1, do vậy, Hội đồng xét xử căn cứ Điều 225 Luật
tố tụng hành chính, xét xử vắng mặt các đương sự.
[2] Về nội dung: Xét kháng cáo của người khởi kiện ông Lý Duy T1, Hội đồng
xét xử thấy:
[2.1] Xét tính hợp pháp Quyết định số 1681/QĐ-UBND ngày 06/5/2024 của
Chủ tịch UBND huyện Lục N1; buộc UBND huyện Lục N1 ban hành quyết định thu
hồi đất và quyết định phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư đối với
diện tích 58,9m² đất và tài sản trên đất của gia đình ông T1 bị thu hồi:
Về thẩm quyền ban hành Quyết định số 1681/QĐ-UBND: Chủ tịch UBND
huyện Lục N1 ban hành Quyết định số 1681/QĐ-UBND là đúng thẩm quyền theo
quy định của Luật khiếu nại.
Về trình tự, thủ tục ban hành Quyết định số 1681/QĐ-UBND: Ngày
01/10/2023, ông Lý Duy T1 khiếu nại đến UBND huyện Lục N1 về hành vi thu hồi
đất mà không ban hành quyết định thu hồi đất, quyết định phê duyệt phương án bồi
thường, hỗ trợ và tái định cư. Ngày 06/5/2024, Chủ tịch UBND huyện Lục N1 ban
hành Quyết định số 1681/QĐ-UBND giải quyết khiếu nại của ông T1 là phù hợp với
quy định tại Điều 31 Luật khiếu nại.
[2.2] Về nội dung: Thửa đất của hộ ông Lý Duy T1 có nguồn gốc do cha (ông)
khai hoang từ những năm 1980 để sử dụng vào mục đích làm nhà ở; trước năm 2000,
hộ ông T1 không có các giấy tờ về quyền sử dụng đất quy định tại khoản 2 Điều 3
Nghị định số 17/1999/NĐ-CP ngày 29/3/1999 của Chính phủ. Năm 2000, hộ ông T1
được cấp GCNQSDĐ diện tích 630m²; năm 2006, hộ ông T1 được cấp đổi
GCNQSDĐ có diện tích 682m² (tăng 52m² so với diện tích cấp lần đầu do cấp cả
hành lang giao thông Quốc lộ 31).
Năm 2000, hộ ông T1 được cấp GCNQSDĐ có trừ hành lang Quốc lộ 31
nhưng không thể hiện là bao nhiêu. Tuy nhiên, năm 2006 khi thực hiện cấp đổi
GCNQSDĐ có cấp cả phần diện tích đất hàng lang giao thông, cho nên chiều sâu
cạnh thửa đất từ mặt Quốc lộ 31 vào tăng gần 7m so với cạnh thửa GCNQSDĐ năm
2000 và diện tích thửa đất cũng tăng 52m
2
. Như vậy, khi cấp đổi GCNQSDĐ năm
2006 cho hộ ông T1 đã cấp cả hành lang giao thông là chưa đúng quy định vì phần
diện tích hành lang giao thông Quốc lộ 31 không đủ kiện được cấp GCNQSDĐ cho
hộ gia đình, cá nhân.
Căn cứ Quyết định số 2773/QĐ-TCĐBVN ngày 01/7/2022 của Tổng Cục
Trưởng Tổng Cục đường bộ Việt Nam về việc phê duyệt bản vẽ thiết kế thi công và
dự toán gói thầu số 11: Thi công xây dựng cải tạo nâng cấp Quốc lộ 31 đoạn
Km18+080 - Km31+000 thuộc Dự án cải tạo, nâng cấp Quốc lộ 31 đoạn Km2+400
9
- Km9+900 tỉnh Bắc Giang. Theo thiết kế thi công đoạn qua tổ dân phố Phương L 2,
thị trấn Phương S có mặt đường rộng 12m, hệ thống thoát nước dọc mỗi bên rộng
1m. Như vậy, chiều rộng theo mặt cắt ngang đường Quốc lộ 31 đã thi công thực tế
là 14m (từ tim đường ra mỗi bên là 7m); chỉ giới thi công thực tế nhỏ hơn 2m so với
chỉ giới giải phóng mặt bằng (từ tim đường ra mỗi bên 9m) do chỉ giới giải phóng
mặt bằng gồm chỉ giới thi công và cả phần bảo trì đường bộ. Hiện trạng sau khi thi
công xong thì cạnh thửa đất còn lại tính từ Quốc lộ 31 vào trong thửa đất còn lớn
hơn cạnh thửa đất được cấp GCNQSDĐ lần đầu năm 2000. Do vậy, tại Quyết định
số 1681/QĐ-UBND giải quyết khiếu nại của Chủ tịch UBND huyện Lục N1 đã
không chấp nhận khiếu nại của ông Lý Duy T1 về hành vi của UBND huyện Lục N1
sử dụng đất của hộ ông T1 mà không ban hành quyết định thu hồi đất, phê duyệt
phương án bồi thường hỗ trợ cho gia đình ông T1 là có căn cứ. Tòa án cấp sơ thẩm
đã không chấp nhận yêu cầu khởi kiện hủy Quyết định số 1681/QĐ-UBND và buộc
UBND huyện Lục N1 ban hành Quyết định thu hồi đất và Quyết định phê duyệt
phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư đối với diện tích 58,9m² đất và tài sản
trên đất của gia đình ông Lý Duy T1 là đúng quy định pháp luật.
[3] Đối với yêu cầu đề nghị xem xét các quyết định hành chính liên quan: Chỉ
thị số 13/CT-UB ngày 11/8/1983 của UBND tỉnh Hà Bắc (nay là tỉnh Bắc Giang),
Quyết định số 608/QĐ-UBND ngày 07/8/2023 về việc hủy bỏ Quyết định số 57/QĐ-
UBND ngày 19/01/2023 của UBND huyện Lục N1 về việc thu hồi đất và Quyết định
số 58/QĐ-UBND ngày 19/01/2023 của UBND huyện Lục N1 về việc phê duyệt
phương án bồi thường, hỗ khi Nhà nước thu hồi đất để thực hiện Dự án:
Ông Lý Duy T1 không có quyền khởi kiện đối với Chỉ thị số 13/CT-UB ngày
11/8/1983 của UBND tỉnh Hà Bắc.
Đối với yêu cầu xem xét Quyết định số 608/QĐ-UBND ngày 07/8/2023 về việc
hủy bỏ Quyết định số 57/QĐ-UBND và Quyết định số 58/QĐ-UBND: Hộ gia đình
ông Lý Duy T1 không bị điều chỉnh bởi các quyết định nêu trên; do đó, Tòa án cấp sơ
thẩm không xem xét là đúng quy định của pháp luật.
[4] Xét tính hợp pháp của Quyết định cấp GCNQSDĐ năm 2000 và cấp đổi
GCNQSDĐ năm 2006 cho hộ gia đình ông Lý Duy T1 và việc cấp GCNQSDĐ số
phát hành AI 859586 được UBND huyện Lục N1 cấp ngày 20/12/2006, tên người sử
dụng hộ ông Lý Duy T1 và bà Đặng Thị N3 đối với thửa đất số 19, tờ bản đồ số 22,
diện tích 682,0m
2
:
[4.1] Về trình tự, thủ tục và thẩm quyền cấp GCNQSDĐ: Trên cơ sở bản đồ
địa chính của xã, khi cấp đổi GCNQSDĐ năm 2006, hộ ông Lý Duy T1 không có
đơn xin cấp đổi, UBND huyện Lục N1 đã làm không đúng trình tự thủ tục theo quy
định tại Điều 144 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính Phủ.
GCNQSDĐ ngày 20/12/2006 thuộc thẩm quyền của UBND huyện Lục N1 phù hợp

10
với quy định tại khoản 2 Điều 52 Luật Đất đai năm 2003.
[4.2] Về nội dung: Theo nội dung GCNQSDĐ thể hiện: Hộ ông Lý Duy T1 và
bà Đặng Thị N3 được quyền sử dụng thửa đất số 19, tờ bản đồ số 22, diện tích
682,0m
2
; mục đích sử dụng đất: đất ở tại nông thôn; thời hạn sử dụng đất: Lâu dài.
Mục 6. Ghi chú: 552,6m
2
đất ở, HLGT đường bộ 129,6m
2
. Tại sơ đồ thửa đất, thể
hiện hình thể thửa đất không thể hiện phần diện tích đất hành lang giao thông. UBND
huyện Lục N1 cấp diện tích đất ở quá hạn mức không phù hợp với quy định tại Điều
87 Luật Đất đai năm 2003 và khoản 2 Điều 3 Quyết định số 77/2005/QĐ-UB ngày
03/11/2005 của UBND tỉnh Bắc Giang ban hành quy định mức đất ở và hạn mức
công nhận đất ở có vườn, ao đối với hộ gia đình, cá nhân trên địa bàn tỉnh Bắc Giang,
nội dung ghi trên GCNQSDĐ là không phù hợp với quy định tại điểm e, g khoản 3,
điểm b khoản 6 Điều 3 Quyết định số 08/2006/QĐ-BTNMT ngày 21/7/2006 của Bộ
Tài nguyên và Môi trường quy định về GCNQSDĐ. UBND huyện Lục N1 đề nghị
Tòa án xem xét tính hợp pháp đối với GCNQSDĐ trên là có cơ sở; Tòa án cấp sơ
thẩm hủy GCNQSDĐ số AI 859586 ngày 20/12/2006 do UBND huyện Lục N1 cấp
cho hộ ông Lý Duy T1 và bà Đặng Thị N3 đối với thửa đất số 19, tờ bản đồ số 22,
diện tích 682,0m
2
tại thôn Phương L 2, xã Phương S, huyện Lục N1, tỉnh Bắc Giang
là đúng với quy định tại điểm d khoản 2 Điều 106 Luật Đất đai năm 2013. Hộ ông
T1 có quyền đề nghị cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp GCNQSDĐ theo đúng
quy định pháp luật đất đai.
[5] Tòa án cấp sơ thẩm bác yêu cầu khởi kiện của ông Lý Duy T1 là có căn cứ.
Ông T1 kháng cáo nhưng không cung cấp được tài liệu mới để chứng minh cho yêu cầu
kháng cáo của mình, nên không có căn cứ chấp nhận đơn kháng cáo của ông T1. Xét đề
nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại phiên tòa không chấp nhận kháng
cáo của ông T1, giữ nguyên bản án sơ thẩm là phù hợp cần chấp nhận.
[6] Về án phí: Do kháng cáo không được chấp nhận nên ông Lý Duy T1 phải
chịu án phí hành chính phúc thẩm theo quy định của pháp luật.
[7] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị
đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 241 Luật Tố tụng hành chính; Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định
về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

11
Không chấp nhận kháng cáo của ông Lý Duy T1; giữ nguyên quyết định của
Bản án hành chính sơ thẩm số 68/2024/HC-ST ngày 10 tháng 9 năm 2024 của Tòa
án nhân dân tỉnh Bắc Giang.
Về án phí: Ông Lý Duy T1 phải nộp 300.000 đồng án phí hành chính phúc thẩm,
được đối trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp tại Biên lai số 0000063 ngày 07/10/2024
của Cục thi hành án dân sự tỉnh Bắc Giang.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã
có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
CÁC THẨM PHÁN
Ngô Tự Học Nguyễn Tiến Dũng
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Lê Thị Thúy Bình
Nơi nhận:
- VKSNDCC tại Hà Nội;
- TAND tỉnh Bắc Giang;
- VKSND tỉnh Bắc Giang;
- Cục THAHC tỉnh Bắc Giang;
- Các đương sự (theo đ/c).
- Lưu HS, HCTP.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Lê Thị Thúy Bình
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 30/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 29/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 29/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 29/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 29/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 28/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 28/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 27/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 26/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 25/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 25/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 25/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 24/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 24/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 24/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 23/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 23/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 23/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 23/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
20
Ban hành: 22/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm