Bản án số 44/2024/DS-ST ngày 12/08/2024 của TAND huyện Bàu Bàng, tỉnh Bình Dương về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 44/2024/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 44/2024/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 44/2024/DS-ST
Tên Bản án: | Bản án số 44/2024/DS-ST ngày 12/08/2024 của TAND huyện Bàu Bàng, tỉnh Bình Dương về tranh chấp hợp đồng vay tài sản |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng vay tài sản |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND huyện Bàu Bàng (TAND tỉnh Bình Dương) |
Số hiệu: | 44/2024/DS-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 12/08/2024 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | ranh chấp hợp đồng dân sự vay tài sản giữa nguyên đơn ông Nguyễn Văn H và bị đơn ông Nguyễn Ngọc T |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
HUYỆN BÀU BÀNG Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
TỈNH BÌNH DƯƠNG
Bản án số: 44/2024/DS-ST
Ngày: 12-8-2024
V/v tranh chấp về hợp đồng dân sự vay tài sản
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÀU BÀNG, TỈNH BÌNH DƯƠNG
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Huỳnh Kim Xuyến.
Các Hội thẩm nhân dân:
Ông Tô Tiến Quân;
Ông Đoàn Minh Phúc.
- Thư ký phiên tòa: Bà Huỳnh Thị Quế Trâm, là Thư ký Tòa án nhân dân
huyện Bàu Bàng, tỉnh Bình Dương.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bàu Bàng, tỉnh Bình Dương
tham gia phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Hồng - Kiểm sát viên.
Ngày 12 tháng 8 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bàu Bàng, tỉnh
Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 154/2024/TLST-DS ngày
17 tháng 4 năm 2024 về tranh chấp về hợp đồng dân sự vay tài sản theo Quyết
định đưa vụ án ra xét xử số 73/2024/QĐXXST-DS ngày 10 tháng 7 năm 2024 và
Quyết định hoãn phiên tòa số 72/2024/QĐST-DS ngày 26 tháng 7 năm 2024 giữa
các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Nguyễn Văn H, sinh năm 1985; cư trú tại: tổ A, ấp D, xã
T, huyện B, tỉnh Bình Dương, có mặt.
Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn: Ông Hồ Phương T, sinh năm 1985;
cư trú tại: khu phố P, phường T, thành phố Đ, tỉnh Bình Phước, là người đại diện
theo ủy quyền (văn bản ủy quyền ngày 08 tháng 4 năm 2024), vắng mặt.
- Bị đơn: Ông Nguyễn Ngọc T1, sinh năm 1984; cư trú tại: tổ A, ấp D, xã T,
huyện B, tỉnh Bình Dương, vắng mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Bà Phạm Thị Tuyết M, sinh năm 1986; cư trú tại: tổ A, ấp D, xã T, huyện
B, tỉnh Bình Dương, vắng mặt.
2. Ông Nguyễn Ngọc L, sinh năm 1962; cư trú tại: ấp D, xã T, huyện B, tỉnh
Bình Dương, vắng mặt (có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).
2
3. Bà Nguyễn Thị Thanh D, sinh năm 1985; cư trú tại: ấp D, xã T, huyện B,
tỉnh Bình Dương, vắng mặt (có đơn đề nghị xét xử vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Tại Đơn khởi kiện ngày 08 tháng 4 năm 2024, quá trình giải quyết vụ án và
tại phiên tòa, nguyên đơn ông Nguyễn Văn H trình bày:
Ông H và vợ chồng ông Nguyễn Ngọc T1 và bà Phạm Thị Tuyết M có mối
quan hệ hàng xóm. Ông Nguyễn Ngọc L là cha của ông H. Bà Nguyễn Thị Thanh
D là vợ của ông H.
Ngày 13 tháng 10 năm 2021, ông T1 và bà M có đến nhà ông H hỏi vay tiền
để làm ăn, ông H đồng ý. Hai bên lập Hợp đồng cho cá nhân vay tiền ngày 13
tháng 10 năm 2021 theo mẫu, ông H là người trực tiếp viết. Cuối hợp đồng, ông
H ký tên, lăn tay, viết rõ họ tên với tư cách bên A là bên cho vay; ông T1 ký tên,
lăn tay, viết rõ họ tên với tư cách bên B là bên vay; bà M ký tên, lăn tay, viết rõ
họ tên với tư cách người làm chứng. Sau khi ký hợp đồng, ông H trực tiếp giao
tiền mặt 150.000.000 đồng cho ông T1 và bà M. Nguồn tiền cho vay do ông H
vay của ông L, đây là tiền nhàn rỗi do ông L bán nhà ngoài quê mà có. Hợp đồng
cho cá nhân vay tiền ngày 13 tháng 10 năm 2021 giữa các bên không có thỏa
thuận thời hạn vay mà thỏa thuận khi nào ông H cần thì ông H báo trước cho ông
T1 và bà M 15 ngày. Về lãi suất, hai bên không ghi nhận trong hợp đồng nhưng
thỏa thuận miệng là 2%/tháng.
Ngày 29 tháng 11 năm 2021, ông T1 và bà M tiếp tục đến nhà ông H hỏi vay
thêm tiền để làm ăn, ông H đồng ý. Hai bên lập Hợp đồng cho cá nhân vay tiền
ngày 29 tháng 11 năm 2021 theo mẫu, ông H là người trực tiếp viết. Cuối hợp
đồng, ông H ký tên, lăn tay, viết rõ họ tên với tư cách bên A là bên cho vay; ông
T1 ký tên, lăn tay, viết rõ họ tên với tư cách bên B là bên vay, bà M ký tên, lăn
tay, viết rõ họ tên với tư cách người làm chứng. Sau khi ký hợp đồng, ông H trực
tiếp giao tiền mặt 50.000.000 đồng cho ông T1 và bà M. Nguồn tiền cho vay có
25.000.000 đồng của ông H, 25.000.000 đồng là ông H vay của ông L. Hợp đồng
cho cá nhân vay tiền ngày 13 tháng 10 năm 2021 giữa các bên có thỏa thuận thời
hạn vay từ ngày 29 tháng 11 năm 2021 đến ngày 29 tháng 12 năm 2021. Về lãi
suất, hai bên không ghi nhận trong hợp đồng nhưng thỏa thuận miệng là 2%/tháng.
Từ khi vay tiền đến nay, ông T1 và bà M không trả cho ông H khoản tiền
nào. Đến hạn trả nợ, ông T1 và bà M xin ông H gia hạn nhiều lần và ông H cũng
đồng ý. Tại mặt sau của Hợp đồng cho cá nhân vay tiền ngày 13 tháng 10 năm
2021, vào ngày 24 tháng 5 năm 2023 ông T1 đã viết rõ, ông T1 và bà M hẹn trả
nợ cho ông H vào ngày 14 tháng 6 năm 2023. Tuy nhiên, đã quá thời hạn thỏa
thuận, ông H đã nhiều lần yêu cầu ông T1 và bà M trả nợ nhưng ông T1 và bà M
cứ chây ỳ, né tránh không trả nợ cho ông H, làm ảnh hưởng quyền và lợi ích hợp
pháp của ông H.
Tại đơn khởi kiện ban đầu, ông H khởi kiện yêu cầu ông T1 và bà M phải
liên đới trả cho ông H số tiền gốc là 200.000.000 đồng và tiền lãi đến ngày Tòa
3
án xét xử sơ thẩm, tạm tính từ ngày 29 tháng 12 năm 2021 đến ngày 29 tháng 3
năm 2024 (27 tháng) với lãi suất 1,66%/tháng là 89.640.000 đồng, tổng cộng là
289.640.000 đồng. Tại Đơn xin rút một phần yêu cầu khởi kiện ngày 10 tháng 7
năm 2024, ông H rút một phần yêu cầu khởi kiện đối với số tiền lãi 89.640.000
đồng.
Nay, ông H chỉ yêu cầu ông T1 và bà M phải liên đới trả cho ông H số tiền
gốc 200.000.000 đồng.
Bị đơn ông Nguyễn Ngọc T1 và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà
Phạm Thị Tuyết M đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần để lấy lời khai, tham
gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và tham gia
phiên tòa nhưng ông T1 và bà M đều vắng mặt không lý do.
Tại Bản tự khai ngày 20 tháng 6 năm 2024, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan ông Nguyễn Ngọc L trình bày:
Ông L là cha của ông H. Ông L có cho ông H vay 175.000.000 đồng để ông
H cho vợ chồng ông T1 và bà M vay. Ngày 24 tháng 5 năm 2023, ông T1 nhận
tiền cọc bán nhà, ông T1 hẹn ngày 14 tháng 6 năm 2023 ký hợp đồng chuyển
nhượng và trả đủ tiền vay 200.000.000 đồng cho ông H. Sau đó, bên mua không
mua nữa và bỏ cọc. Đến nay, ông T1 và bà M vẫn chưa trả nợ cho ông H để ông
H trả cho ông L. Nay ông L đồng ý với yêu cầu khởi kiện của ông H. Số tiền
175.000.000 đồng ông L cho ông H vay, ông L không yêu cầu độc lập trong vụ
án.
Tại Bản tự khai ngày 20 tháng 6 năm 2024, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan bà Nguyễn Thị Thanh D trình bày:
Bà D là vợ của ông H, có đăng ký kết hôn năm 2012. Số tiền 200.000.000
đồng ông H cho ông T1 và bà M vay là tiền riêng của ông H. Bà D không yêu cầu,
tranh chấp gì trong vụ án.
Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng và về việc
giải quyết vụ án:
Quá trình giải quyết vụ án, việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán,
Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng đã thực hiện
đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông H yêu cầu ông T1 và bà M phải
trả cho ông H 200.000.000 đồng là hoàn toàn có căn cứ nên đề nghị Hội đồng xét
xử chấp nhận. Ông H rút một phần yêu cầu khởi kiện đối với số tiền lãi là
89.640.000 đồng, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 2 Điều 244 của Bộ luật
Tố tụng dân sự để đình chỉ xét xử đối với yêu cầu này.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được kiểm tra xem xét tại phiên tòa và kết
quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử phân tích, đánh giá và nhận định:
4
[1] Về thủ tục thụ lý việc khởi kiện của nguyên đơn đã thực hiện đúng theo
các quy định về khởi kiện và thụ lý vụ án của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2] Về quan hệ pháp luật:
Các bên tranh chấp phát sinh từ việc nguyên đơn ông H cho bị đơn ông T1
và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà M vay tiền theo các Hợp đồng cho
cá nhân vay tiền ngày 13 tháng 10 năm 2021, ngày 29 tháng 11 năm 2021 và nội
dung gia hạn thời hạn trả nợ tại mặt sau của Hợp đồng cho cá nhân vay tiền ngày
13 tháng 10 năm 2021. Do đến hạn ông T1 và bà M không trả nợ nên ông H khởi
kiện. Hội đồng xét xử xác định quan hệ pháp luật trong vụ án là tranh chấp về hợp
đồng dân sự vay tài sản.
[3] Về thẩm quyền:
Tranh chấp về hợp đồng dân sự vay tài sản giữa các đương sự là một loại
tranh chấp về dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Ông H khởi kiện
theo địa chỉ của ông T1 và bà M được ghi trong các hợp đồng cho vay tiền là ấp
D, xã T, huyện B, tỉnh Bình Dương. Theo Biên bản xác minh ngày 25 tháng 4 năm
2024 tại Công an xã T, huyện B, tỉnh Bình Dương do Tòa án lập (bút lục số 45),
ông T1 và bà M có đăng ký thường trú tại địa chỉ này. Việc ông T1 và bà M thay
đổi nơi cư trú mà không thông báo cho ông H biết về nơi cư trú mới theo khoản 3
Điều 40 của Bộ luật Dân sự thì được coi là cố tình giấu địa chỉ và Tòa án tiếp tục
giải quyết vụ án theo thủ tục chung theo điểm a khoản 2 Điều 6 của Nghị quyết số
04/2017/NQ-HĐTP ngày 05 tháng 5 năm 2017 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án
nhân dân tối cao hướng dẫn một số quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 192 Bộ
luật Tố tụng dân sự số 92/2015/QH13 về trả lại đơn khởi kiện, quyền nộp đơn khởi
kiện lại vụ án. Vì vậy, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân
huyện Bàu Bàng theo điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[4] Bị đơn ông T1 và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà M đã được
Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt tại phiên tòa không lý do, căn
cứ điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử
vắng mặt ông T1 và bà M.
[5] Xét yêu cầu khởi kiện của ông H yêu yêu cầu ông T1 và bà M phải liên
đới trả cho ông H số tiền gốc là 200.000.000 đồng.
Hợp đồng cho cá nhân vay tiền ngày 13 tháng 10 năm 2021 thể hiện, ông H
cho ông T1 vay là 150.000.000 đồng, khi nào ông H cần thì ông H báo trước cho
ông T1 và bà M 15 ngày. Hợp đồng cho cá nhân vay tiền ngày 29 tháng 11 năm
2021 thể hiện, ông H cho ông T1 vay là 50.000.000 đồng, thời hạn vay từ ngày 29
tháng 11 năm 2021 đến ngày 29 tháng 12 năm 2021. Các lần vay tiền đều có mặt
bà M. Tại mặt sau của Hợp đồng cho cá nhân vay tiền ngày 13 tháng 10 năm 2021
có nội dung, ngày 24 tháng 5 năm 2023 ông T1 và bà M hẹn trả nợ cho ông H vào
ngày 14 tháng 6 năm 2023.
Quá trình tố tụng, Tòa án đã thực hiện việc cấp, tống đạt văn bản tố tụng cho
ông T1 và bà M thông qua thủ tục niêm yết công khai theo Điều 179 của Bộ luật
Tố tụng dân sự nên được coi là hợp lệ. Tuy nhiên, ông T1 và bà M không đến Tòa
5
để tham gia tố tụng, không cung cấp tài liệu, chứng cứ; chứng minh để bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của mình cũng như trình bày ý kiến đối với yêu cầu của
ông H. Mặc nhiên, ông T1 và bà M đã từ bỏ quyền và nghĩa vụ của mình cũng
như không phản đối những tình tiết, sự kiện, tài liệu do ông H đưa ra. Hội đồng
xét xử xác định việc vay tiền giữa các bên là có thật, phù hợp với Điều 385 và
Điều 463 của Bộ luật Dân sự nên đây là tình tiết không phải chứng minh theo
khoản 2 Điều 92 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Như vậy, khoản vay 200.000.000 đồng đã được các bên thỏa thuận thời gian
trả nợ và không thỏa thuận lãi nên đây là hợp đồng vay tiền có kỳ hạn và không
có lãi. Khi đến hạn thanh toán, ông T1 và bà M không thực hiện nghĩa vụ trả nợ
cho ông H là vi phạm khoản 1 Điều 466 của Bộ luật Dân sự nên ông H khởi kiện
là có cơ sở. Vì vậy, ông T1 và bà M cùng có nghĩa vụ liên đới trong việc trả nợ
cho ông H.
[6] Xét ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa về việc tuân theo
pháp luật tố tụng và về việc giải quyết vụ án là phù hợp.
[7] Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử quyết định chấp nhận toàn bộ
yêu cầu khởi kiện của ông H, buộc ông T1 và bà M phải liên đới trả cho ông H số
tiền 200.000.000 đồng.
[8] Tại Đơn xin rút một phần yêu cầu khởi kiện ngày 10 tháng 7 năm 2024,
ông H rút một phần yêu cầu khởi kiện đối với số tiền lãi 89.640.000 đồng. Xét
việc rút yêu cầu này của ông H là hoàn toàn tự nguyện, căn cứ khoản 2 Điều 244
của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử đình chỉ xét xử đối với yêu cầu đã
rút này của ông H.
[9] Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông L không có yêu cầu độc lập
trong vụ án về số tiền 175.000.000 đồng ông L cho ông H vay nên Hội đồng xét
xử không xem xét.
[10] Về án phí:
Ông H không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.
Ông T1 và bà M cùng phải chịu toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm theo quy định
tại khoản 1 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự và khoản 2 Điều 26 của Nghị
quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường
vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án
phí và lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 2 Điều 92, khoản 1 Điều 147,
Điều 179, điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 1 Điều 244 của Bộ luật Tố tụng dân
sự; khoản 3 Điều 40, Điều 385, Điều 463, khoản 1, khoản 4 Điều 466 và khoản 2
Điều 468 của Bộ luật Dân sự;
6
Căn cứ vào khoản 2 Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày
30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu,
miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Căn cứ vào điểm a khoản 2 Điều 6 của Nghị quyết số 04/2017/NQ-HĐTP
ngày 05 tháng 5 năm 2017 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
hướng dẫn một số quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 192 Bộ luật Tố tụng dân
sự số 92/2015/QH13 về trả lại đơn khởi kiện, quyền nộp đơn khởi kiện lại vụ án
và điểm a khoản 1 Điều 13 của Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11 tháng
01 năm 2019 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về hướng dẫn áp
dụng một số quy định của pháp luật về lãi, lãi suất, phạt vi phạm.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn H đối với bị đơn ông
Nguyễn Ngọc T1 và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Phạm Thị Tuyết M
về việc tranh chấp về hợp đồng dân sự vay tài sản:
Buộc ông Nguyễn Ngọc T1 và bà Phạm Thị Tuyết M có nghĩa vụ liên đới trả
cho ông Nguyễn Văn H tổng số tiền 200.000.000 đồng (hai trăm triệu đồng).
Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm cho đến khi thi hành án xong,
bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án
theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự.
2. Đình chỉ xét xử yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn H đối với bị đơn
ông Nguyễn Ngọc T1 và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Phạm Thị
Tuyết M đối với số tiền lãi 89.640.000 đồng (tám mươi chín triệu sáu trăm bốn
mươi nghìn đồng).
3. Về án phí:
Ông Nguyễn Văn H được nhận lại số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã
nộp là 7.241.000 đồng (bảy triệu hai trăm bốn mươi mốt nghìn đồng) theo biên lai
thu tiền số 0003543 ngày 15 tháng 4 năm 2024 của Chi cục Thi hành án dân sự
huyện Bàu Bàng, tỉnh Bình Dương.
Ông Nguyễn Ngọc T1 và bà Phạm Thị Tuyết M cùng phải chịu 10.000.000
đồng (mười triệu đồng) án phí dân sự sơ thẩm.
4. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi
hành án dân sự 2008, sửa đổi, bổ sung năm 2014 thì người được thi hành án dân
sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu
thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưng chế thi hành án theo quy định tại
các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 của Luật Thi hành án dân sự năm 2008, sửa đổi, bổ sung
năm 2014; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật
Thi hành án dân sự năm 2008, sửa đổi, bổ sung năm 2014.
5. Về quyền kháng cáo: các đương sự có quyền kháng cáo trong thời hạn 15
ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi
tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được
bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.
7
Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
- TAND tỉnh Bình Dương; THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
- VKSND huyện Bàu Bàng;
- Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bàu Bàng;
- Đương sự;
- Cổng thông tin điện tử của Tòa án (nếu có);
- Lưu hồ sơ vụ án.
Huỳnh Kim Xuyến
Tải về
Bản án số 44/2024/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 44/2024/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 16/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 11/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 09/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 06/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 04/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 03/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 30/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 30/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 30/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 30/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 30/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 29/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 29/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 29/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 27/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 26/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 26/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Bản án số 590/2024/DS-PT ngày 26/11/2024 của TAND tỉnh Bình Dương về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Ban hành: 26/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Bản án số 565/2024/DS-PT ngày 25/11/2024 của TAND tỉnh Tiền Giang về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Ban hành: 25/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
20
Ban hành: 25/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm