Bản án số 43/2024/HNGĐ-PT ngày 23/12/2024 của TAND tỉnh Thanh Hóa về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 43/2024/HNGĐ-PT

Tên Bản án: Bản án số 43/2024/HNGĐ-PT ngày 23/12/2024 của TAND tỉnh Thanh Hóa về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
Quan hệ pháp luật: Vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Thanh Hóa
Số hiệu: 43/2024/HNGĐ-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 23/12/2024
Lĩnh vực: Hôn nhân gia đình
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Về hôn nhân
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH THANH HÓA
Bản án số: 43/2024/HN-PT
Ngày: 23/12/2024
V/v Ly hôn, tranh chấp về nuôi con
khi ly hôn”.
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH THANH HOÁ
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Nga
Các Thẩm phán: Hoàng Thị Nguyệt
Lê Thị Thủy
- T ký phiên a: Bà Hoàng Th Phi - Thư Tòa án nhân n tnh
Thanh a.
- Đại diện VKSND tỉnh Thanh Hóa: Ông Nguyễn Văn Nguyên - Kiểm sát
viên tham gia phiên tòa.
Ngày 23 tháng 12 m 2024, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Thanh Hoá xét
xử phúc thẩm công khai vụ án Hôn nhân gia đình, thụ lý số 34/2024/TLPT-HNGĐ
ngày 08/11/2024, vLy hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn. Do bản án hôn
nhân gia đình thẩm số 163/2024/HN-ST ngày 30/9/2024 của Toà án nhân
dân huyện Trung, tỉnh Thanh Hóa bị kháng o. Theo quyết định đưa vụ án ra
xét xử phúc thẩm số: 32/2024/-PT ngày 02/12/2024, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1993
Địa chỉ: Tổ 3, khu phố 9, phường B, thị xã S, tỉnh Thanh Hóa
2. Bị đơn: Anh Nguyễn Văn T, sinh năm 1986
Trú tại: Thôn M, xã H, huyện T, tỉnh Thanh Hóa.
Tại phiên tòamặt: nguyên đơn và bị đơn.
NỘI DUNG VỤ ÁN
1. Theo đơn khởi kiện đề ngày 13/3/2024 quá trình giải quyết vụ án,
nguyên đơn là chị Nguyễn Th H trình bày:
Về hôn nhân: Chị anh Nguyễn Văn T tự nguyện tìm hiểu đăng kết
hôn ngày 07/4/2021 tại Ủy ban nhân dân phường B, thị S, tỉnh Thanh Hóa.
Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hạnh phúc được hơn một năm thì phát sinh
mâu thuẫn, nguyên nhân do vợ chồng không hòa hợp, bất đồng quan điểm về
lối sống. Mặc đã cố gắng rất nhiều gia đình hai bên hòa giải nhiều lần
2
nhưng vợ chồng vẫn không thể sống hòa thuận được với nhau nên tháng 9/2023
chị đã bỏ về nhà bố mẹ đẻ tại thị xã S, tỉnh Thanh Hóa sinh sống. Vợ chồng cũng
ly thân từ đó cho đến nay, không còn quan tâm đến nhau. Nay xác định tình cảm
vợ chồng không còn nên chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh
T.
Về con chung: Chị anh T hai con chung Nguyễn Minh Khánh, sinh
ngày 30/10/2021 Nguyễn Minh Châu, sinh ngày 03/01/2024. Chị đề nghị Tòa
án giải quyết giao hai cháu Khánh Châu cho chị trực tiếp nuôi ỡng yêu
cầu anh T phải cấp dưỡng nuôi con chung cho mỗi cháu mỗi tháng 1.000.000
đồng cho đến khi các cháu đủ tui thành niên.
Về tài sản chung: chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.
2. Tại Bản tự khai đề ngày 12/04/2024, anh Nguyễn Văn T trình bày:
Về hôn nhân: anh chNguyễn Thị H tự nguyện tìm hiểu đăng kết
hôn ngày 07/4/2021 tại Ủy ban nhân dân phường B, thị S, tỉnh Thanh Hóa.
Sau khi kết hôn, vợ chồng về sống chung với bố mẹ đcủa anh được khoảng 01
tháng, sau đó vợ chồng ra riêng tại thửa đất ngôi nhà của bố manh. V
chồng chung sống hạnh phúc đến tháng 9/2023 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên
nhân do vợ chồng thường xuyên bất đồng quan điểm vcác công việc sinh
hoạt hàng ngày dẫn đến thường xuyên cãi vã, mỗi lần vợ chồng mâu thuẫn thì chị
H tự ý bế con về nhà bố mđẻ thị Bỉm Sơn, tỉnh Thanh Hóa để sinh sống,
vợ chồng sống ly thân từ đó cho đến nay. Chị H làm đơn xin ly hôn, anh xác định
tình cảm vợ chồng không còn. Mặt khác, mâu thuẫn của vợ chồng đã được hai
bên gia đình người thân hòa giải nhiều lần nhưng vẫn không được nên anh
đồng ý lyn.
Về con chung: Anh và chị H có hai con chung là cháu Nguyễn Minh Khánh,
sinh ngày 30/10/2021 Nguyễn Minh Châu, sinh ngày 03/01/2024. Hiện tại
cháu Khánh đang ở với anh, cháu Châu đang ở với chị H. Anh không đồng ý giao
hai cháu Khánh và Châu cho chị H nuôi dưỡng. Anh yêu cầu Tòa án giải quyết
giao cháu Khánh cho anh được trực tiếp nuôi dưỡng, giao cháu Châu cho chị H
trực tiếp nuôi dưỡng, không yêu cầu chị H phải cấp dưỡng nuôi con chung, anh
tự nguyện cấp dưỡng nuôi cháu Châu mỗi tháng 1.000.000 đồng cho đến khi
cháu đủ tuổi thành niên.
Về tài sản chung: Anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.
3. Quá tnh giải quyết vụ án, chị Nguyễn Thị H và anh Nguyễnn T đều giao
nộp những i liu, chứng cchứng minh nghnghiệp và mc thu nhập.
3
Anh T đã giao nộp một Giấy xác nhận thông tin đề ngày 17/4/2024, xác
nhận của Trưởng thôn M và y ban nhân dân xã H, huyện T về việc chị H đi làm
công ty, thu nhập với mức lương bình thườngchưa có nhà riêng, hiện tại đang
với mđẻ tại thị S, tỉnh Thanh Hóa nên chị H không đủ điều kiện đnuôi
dưỡng hai con chung và một con riêng.
Tại bản tự khai bổ sung đề ngày 23/4/2024, chị H trình bày: việc chị đang
nuôi một người con riêng với người chồng trước không ảnh hưởng đến chất
lượng cuộc sống của cả ba cháu, mchị còn khỏe mạnh, đỡ đần chị chăm sóc,
đưa đón các cháu đi học; với mức thu nhập ca chị cùng với sự hỗ trợ từ lương
hưu của mẹ chị thì vẫn đảm bảo nuôi dạy các cháu.
4. Tại Biên bản xác minh ngày 05/9/2024 về nguyên nhân phát sinh tranh
chấp giữa các đương sự, xác nhận của Ủy ban nhân dân H, huyện T, tỉnh
Thanh Hóa:
Nguyễn Thị Ngoãn (mđẻ của anh T) xác nhận: sau khi kết hôn, ch H
anh T chung sống trên thửa đất của vợ chồng tại thôn Đô Mỹ, Tân.
Quá trình chung sống, chứng kiến anh T chị H mâu thuẫn, cãi nhau
nhưng không nguyên nhân. Vợ chồng người thân đã động viên, hòa giải
nhiều lần nhưng không thành dẫn đến tháng 9/2023 chị H tự ý bỏ về nhà mẹ đẻ
sinh sống cho đến nay. Vợ chồng anh T có hai con chung là Nguyễn Minh Khánh
và Nguyễn Minh Châu. Cháu Khánh đang ở với anh T, cháu Châu đang ở với chị
H. Chị H còn một con riêng của chồng trước. Khoảng tháng 10/2023 tháng
05/2024, chH có về thăm cháu Nguyễn Minh Khánh và đòi rước cháu Khánh đi
nhưng vợ chng bà không cho rước.
Ông Văn Tĩnh Trưởng thôn Đô Mỹ xác nhận: Giấy xác nhận thông tin
đề ngày 17/4/2024 của anh T do ông xác nhận. Tuy nhiên, do ông không đọc kỹ
nội dung chỉ nghĩ rằng xác nhận về tình trạng hôn nhân của vợ chồng anh T.
Thực tế từ tháng 9/2023 đến nay, chị H không còn sinh sống tại thôn M, H.
Chị H về thăm cháu Khánh hai lần rồi lại đi. Về nguyên nhân mâu thuẫn của
vợ chồng do không báo cáo với thôn nên ông không biết.
5. Tại phiên họp hòa giải ngày 06/9/2024, chị Nguyễn Thị H và anh Nguyễn
Văn T không thống nhất được các nội dung trong vụ án, do chị H vẫn giữ nguyên
quan điểm yêu cầu giải quyết ly hôn nhưng anh T không đồng ý ly hôn; chị H đề
nghị được trực tiếp nuôi dưỡng hai cháu Nguyễn Minh Khánh Nguyễn Minh
Châu yêu cầu anh T phải cấp dưỡng nuôi con chung mỗi cháu mỗi tháng
1.000.000 đồng cho đến khi các cháu đủ tuổi trưởng thành nhưng anh T không
đồng ý đề nghị giải quyết giao cháu Khánh cho anh trực tiếp nuôi dưỡng, giao
cháu Châu cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng tnguyện cấp dưỡng nuôi cháu
4
Châu mỗi tháng 1.000.000 đồng cho đến khi cháu đủ tuổi thành niên, không yêu
cầu chị H phải cấp dưỡng nuôi con chung.
Tại bản án n nhân gia đình thẩm số 163/2024/HN-ST ngày
30/9/2024 của Toà án nhân dân huyện Trung đã quyết định:
Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều
39; khoản 4 Điều 147; khoản 1 Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Khoản 1
Điều 51, khoản 1 Điều 56, khoản 3 Điều 81, Điều 82; Điều 83 khoản 1 Điều
88 của Luật Hôn nhân và gia đình.
1. Hôn nhân: Chị Nguyễn Thị H được lyn anh Nguyễn Văn T.
2. Con chung: Công nhận các cháu Nguyễn Minh Khánh, sinh ngày
30/10/2021 Nguyễn Minh Châu, sinh ngày 03/01/2024 con chung của chị
Nguyễn Thị H anh Nguyễn Văn T. Giao các cháu Khánh Châu cho chị H
trực tiếp nuôi dưỡng. Anh T nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung mỗi cháu
mỗi tháng 1.000.000đ (một triệu đồng), hai cháu 2.000.000đ (hai triệu
đồng)/tháng. Thời hạn cấp dưỡng tính từ tháng 9/2024 cho đến khi các cháu đ
tuổi trưởng thành.
Anh T quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.
Anh T không được lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu
đến việc trông nom, chămc, nuôi dưỡng, giáo dục con của chị H.
Ngoài ra, bản án thẩm còn tuyên về án phí quyền kháng cáo của các
đương sự theo quy định ca pháp luật.
Sau khi xsơ thẩm, ngày 08/10/2024 anh Nguyễn n T đơn kháng cáo
bản án thẩm về phần giao nuôi con chung, đnghị Tòa án cấp phúc thẩm giải
quyết giao cháu Nguyễn Minh Khánh, sinh ngày 30/10/2021 cho anh được trực
tiếp nuôi dưỡng; Giao cháu Nguyễn Minh Châu, sinh ngày 03/01/2024 cho chị H
được trực tiếp nuôi dưỡng, không bên nào phải cấp dưỡng nuôi con chung
Tại phiên tòa phúc thẩm, chị H giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, anh T gi
nguyên nội dung kháng o; các bên đương sự không thỏa thuận được với nhau
về việc giải quyết vụ án.
Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thanha: Về việc tuân
theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên a những
người tham gia tố tụng tại phiên tòa trong quá trình thụ lý, giải quyết và tại
phiên a đã thực hiện đúng quy định của bộ luật Tố tụng Dân sự. Tại phiên a
phúc thẩm, sở chấp nhận kháng cáo của anh T. Đề nghXX áp dụng:
Khoản 2 Điều 308; Khoản 2 Điều 148 Bộ luật Tố tụng Dân sự. Nghị Quyết
326/UBTVQH ngày 31/12/2016 của Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án,
5
chấp nhận kháng cáo của anh T, sửa bản án sơ thẩm số 163/2024/HNGĐ-ST ngày
30/9/2024 của Toà án nhân dân huyện Trung, tỉnh Thanh Hóa, giao cháu
Khánh cho anh T nuôi dưỡng, giao cháu Châu cho chị H nuôi dưỡng. Anh T cấp
dưỡng nuôi cháu Châu 1.000.000đ/tháng cho đến khi thành niên.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ ván, được thẩm tra tại phiên
toà n cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:
[1]. Vtố tụng: Đơn kháng cáo của anh Nguyễn Văn T gửi trong thời hạn
quy định, hợp lệ được chấp nhận giải quyết theo trình tự phúc thẩm.
[2] Xét kháng cáo của anh Nguyễn Văn T với nội dung: Đề nghị Tòa án cấp
phúc thẩm giải quyết cháu Nguyễn Minh Khánh, sinh ngày 30/10/2021 cho anh
được trực tiếp nuôi ỡng; Giao cháu Nguyễn Minh Châu, sinh ngày 03/01/2024
cho chị H được trực tiếp nuôi dưỡng, thì thấy rằng:
Chị H anh T đều có nguyện vọng trực tiếp nuôi con là chính đáng, đó
quyền và cũng là nghĩa vụ của cha mẹ trong việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục
đối với con chưa thành niên. Tuy nhiên, việc giao con cho ai nuôi phải trên cơ s
đảm bảo quyền lợi về mọi mặt từ vật chất đến tinh thần cho cháu có thể phát triển
một cách tốt nhất.
Theo anh T trình bày: chị H đi làm công ty, thu nhập với mức lương bình
thường chưa nhà riêng, hiện tại đang với mẹ đẻ tại thị Bỉm Sơn, tỉnh
Thanh Hóa. Ngoài ra chị H đang phải nuôi dưỡng một con riêng của chồng
cháu Nguyễn Minh Sơn, sinh ngày 16/10/2017, nên việc giao cả hai cháu cho chị
H nuôi dưỡng sẽ không đảm bảo điều kiện để nuôi con.
Chị H trình bày: Việc chị đang nuôi một người con riêng với người chng
trước không ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống của cả ba cháu. theo
quyết định của Bản án số 45/2019 ngày 27/9/2019 của Tòa án nhân dân huyện
Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa thì anh Nguyễn Văn Chính bố cháu Sơn nghĩa vụ
cấp dưỡng nuôi con chung mỗi tháng 1.000.000 đồng, thời gian cấp dưỡng nuôi
con tính từ tháng 10/2019 cho đến khi cháu Sơn đủ 18 tuổi. Do đó, việc đang
phải nuôi con riêng của chị không ảnh hưởng đến việc chăm sóc, nuôi dưỡng con
chung của chị anh T. Bên cạnh đó mẹ chị còn khỏe mạnh, đỡ đần chị chăm
sóc, đưa đón các cháu đi học; với mức thu nhập của chị cùng với sự hỗ trợ t
lương hưu của mẹ chị thì vẫn đảm bảo nuôi dạy các cháu.
Căn cứ vào hoàn cảnh thực tế đến thời điểm mở phiên tòa xét xử
thẩm, các cháu Khánh Châu đang còn nhỏ (dưới 36 tháng tuổi) cần sự chăm
sóc của người mẹ. Vì vậy, tòa án cấp thẩm đã căn cứ khoản 3 Điều 81 của
6
Luật Hôn nhân gia đình giao hai cháu cho chị H được trực tiếp nuôi dưỡng
phù hợp và bảo đảm quyền lợi cho cháu
Tại phiên tòa phúc thẩm, các bên đương sự thừa nhận tkhi chị H mang
thai cháu Châu, anh chđã mâu thuẫn và chị H đã về nhà mẹ đẻ cho đến nay.
Anh T là người trực tiếp nuôi dưỡng cháu Khánh t đó cho đến nay. Cháu
Khánh hiện tại khỏe mạnh, đi học bình thường, anh T nhà ổn định do bố
mẹ cho, công việc thu nhập ổn định 10.000.000đ/tháng, đi làm gần nhà, sáng
đi tối về. Đến thời điểm xét xử phúc thẩm, cháu Khánh đã trên 36 tháng tuổi.
Từ những phân ch nêu trên, kháng cáo của anh T đnghị Tòa án cấp
phúc thẩm giải quyết cháu Nguyễn Minh Khánh, sinh ngày 30/10/2021 cho anh
được trực tiếp nuôi dưỡng; Giao cháu Nguyễn Minh Châu, sinh ngày
03/01/2024 cho chị H được trực tiếp nuôi dưỡng phù hợp. Tại phiên tòa anh T
tự nguyện cấp dưỡng 1.000.000đ/tháng cho chH nuôi cháu Châu cho đến khi
đủ tuổi thành niên.
Hội đồng xét x sở chấp nhận kháng cáo của anh T về phần giao
nuôi con chung chấp nhận sự tnguyện đóng góp nuôi con chung của anh T,
cần sửa án sơ thẩm là phù hợp.
[3] c Quyết định khác của bản án thẩm kng kháng cáo, kháng
nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
[4] Về án phí phúc thẩm: Do kháng cáo của anh T được chấp nhận nên
không phải chịu án phí phúc thẩm theo quy định.
- Về án phí cấp dưỡng: Anh T phải nộp án phí cấp dưỡng nuôi con theo quy
định của pháp luật.
các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ: Khoản 2 điều 308; khoản 2 Điều 148 của Bộ luật Tố tụng dân sự;
Điều 81; 82; 83 Luật Hôn nhân gia đình. Khoản 2 Điều 29 Nghị quyết số
326/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án
phí lệ phí Tòa án.
Xử:
1. Chấp nhận kháng cáo của anh Nguyễn Văn T, sửa bản án dân sự sơ thẩm
số 163/2024/HN-ST ngày 30/9/2024 của Toà án nhân dân huyện Trung,
tỉnh Thanh Hóa về phần giao nuôi con chung:
7
Giao cháu Nguyễn Minh Khánh sinh ngày 30/10/2021 cho anh T được
trực tiếp nuôi dưỡng; Giao cháu Nguyễn Minh Châu sinh ngày 03/01/2024 cho
chị H được trực tiếp nuôi dưỡng. Anh T cấp dưỡng nuôi cháu Nguyễn Minh
Châu cùng chị H 1.000.000đ/tháng từ khi xét xử thẩm cho đến khi cháu đủ
tuổi thành niên. Hai bên quyền, nghĩa v thăm nom, chăm sóc con chung
không ai được cản trở.
2. Về án phí:
Án phí phúc thẩm: Anh Nguyễn Văn T không phải chịu án phí phúc thẩm.
Trả lại cho anh T 300.000đ tiền tạm ứng án phí phúc thẩm đã nộp tại biên lai thu
số 0003658, ngày 10/10/2024 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Trung,
tỉnh Thanh Hóa.
Anh Nguyễn Văn T phải nộp án phí cấp dưỡng nuôi con chung là 300.000đ
(Ba trăm nghìn đồng).
3. Các quyết định khác của bản án thẩm không kháng cáo, kháng
nghị có hiệu lực pháp kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Án xử công khai phúc thẩm, có hiệu lực thi hành kể từ ngày tuyên án./.
Nơi nhận:
- a án Cấp cao tại Hà Nội;
- VKSND tỉnh Thanh Hóa (P9);
- Tòa án ND huyện Hà Trung;
- Chi cục THADS huyện Hà Trung;
- Các Đương sự;
- u hồ sơ;
TM. HỘI ĐỒNG T XỬ
THẨM PHÁN - CHTỌA PHIÊN TÒA
(Đã ký)
Nguyễn Thị Nga
Tải về
Bản án số 43/2024/HNGĐ-PT Bản án số 43/2024/HNGĐ-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 43/2024/HNGĐ-PT Bản án số 43/2024/HNGĐ-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất