Bản án số 423/2024/HNGĐ-ST ngày 18/12/2024 của TAND tỉnh Hải Dương về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 423/2024/HNGĐ-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 423/2024/HNGĐ-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 423/2024/HNGĐ-ST
Tên Bản án: | Bản án số 423/2024/HNGĐ-ST ngày 18/12/2024 của TAND tỉnh Hải Dương về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Hải Dương |
Số hiệu: | 423/2024/HNGĐ-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 18/12/2024 |
Lĩnh vực: | Hôn nhân gia đình |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Chị LA ly hôn anh H |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH HẢI DƢƠNG
Bản án số: 423/2024/HNGĐ-ST
Ngày: 18/12/2024
“V/v Ly hôn, tranh chấp nuôi
con chung”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƢỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HẢI DƢƠNG
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Đoàn Thị Hương Nhu
Các hội thẩm nhân dân: Ông Nguyễn Văn Hoàn
Bà Phạm Thị Nguyên
- Thư ký phiên tòa: Bà Lê Thị Thúy Hà - Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh
Hải Dương.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hải Dương tham gia phiên tòa:
Bà Phạm Thị Quyên - Kiểm sát viên.
Ngày 18 tháng 12 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương
xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 528/2024/HNGĐ-
TLST ngày 21/10/2024, về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con chung”, theo
Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 508/2024/QĐXXST-HNGĐ ngày
15/11/2024; Quyết định hoãn phiên tòa số 341/2024/QĐ-ST ngày 02 tháng 12
năm 2024, giữa:
1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Lan A, sinh ngày 19/12/1985; HKTT:
Số C ngõ C, Phường C, Quận H, thành phố Hà Nội.
2. Bị đơn : Anh Nguyễn Ngọc H, sinh ngày 21/9/1988; Địa chỉ trước khi
xuất cảnh: Số 11/3/46 Trần Công Hiến, khu 16, phường Bình Hàn, thành phố
Hải Dương, tỉnh Hải Dương.
Hiện ở: Đài Loan.
3. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
Bà Nguyễn Thị Y, sinh năm 1961; địa chỉ: Số A T, khu A, phường B,
thành phố H, tỉnh Hải Dương.
(Chị Lan A, anh H, bà Y đều đề nghị giải quyết vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn xin ly hôn, bản tự khai - nguyên đơn chị Nguyễn Thị Lan A trình
bày:
Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh H tự do tìm hiểu có đăng ký kết hôn tại
Ủy ban nhân dân phường C, quận H, thành phố Hà Nội ngày 17/12/2010. Sau
2
ngày cưới vợ chồng sống hòa thuận hạnh phúc đến năm 2017 thì xảy ra mâu
thuẫn. Nguyên nhân do năm 2017 anh H đi Đài Loan lao động, từ khi đi anh H
chưa về Việt Nam lần nào, thời gian đầu vợ chồng thường xuyên liên lạc, nhưng
sau đó anh H ít liên lạc, đến đầu năm 2019 thì vợ chồng chấm dứt liên lạc. Do
anh H không liên lạc với chị, nên tháng 03/2022 chị đã xin phép gia đình chồng
ra ngoài sinh sống, mục đích để gây áp lực cho anh H về Việt Nam, tuy nhiên
đến nay anh H vẫn không về Việt Nam. Tháng 4/2024 chị đã làm đơn ly hôn gửi
Tòa án tỉnh Hải Dương, nhưng do hai bên chưa thống nhất được về việc nuôi
con chung nên chị đã rút đơn ly hôn, Tòa án đình chỉ vụ án. Nay hai bên đã thỏa
thuận được về con chung nên chị tiếp tục làm đơn ly hôn, đề nghị Tòa án giải
quyết cho chị được ly hôn anh H.
Về quan hệ con chung: Chị và anh H có 3 con chung là Nguyễn Ngọc Bảo
L, sinh ngày 01/6/2011, Nguyễn Ngọc Bảo A1, sinh ngày 29/12/2013 và
Nguyễn Hoàng L1, sinh ngày 29/11/2016. Trong thời gian chị ra ngoài ở thì 3
con được ông bà nội chăm sóc. Nay ly hôn chị và anh H thỏa thuận, chị nuôi
cháu Bảo L, anh H nuôi cháu Bảo A1 và cháu L1. Trong thời gian anh H không
ở Việt Nam chị đồng ý để cháu Bảo A1, cháu L1 ở cùng ông bà nội. Hai bên
không phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung cho nhau.
Về tài sản chung, nợ chung: Chị và anh H không có nên không đề nghị
Tòa án giải quyết.
Anh Nguyễn Ngọc H hiện nay đang lao động tại Đài Loan, do chị Lan A
không cung cấp được địa chỉ cụ thể của anh H nên Tòa án đã xác minh địa chỉ
của anh H qua gia đình. Bà Nguyễn Thị Y là mẹ đẻ anh H đồng ý nhận văn bản
tố tụng và thông tin cho anh H, do điều kiện không về được Việt Nam nên thông
qua gia đình anh H vẫn giữ nguyên ý kiến, quan điểm như đã trình bày thời điểm
tháng 4/2024, cụ thể anh H xác định tình cảm vợ chồng không còn, đề nghị Tòa
án giải quyết cho anh được ly hôn với chị Lan A. Về con chung hai bên thỏa
thuận anh H nuôi cháu Bảo A1 và cháu L1, chị Lan Anh N cháu Bảo L, hai bên
không phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung. Về tài sản chung, nợ chung không
có, không đề nghị Tòa án giải quyết. Trong thời gian anh H không ở Việt Nam,
anh H đề nghị giải quyết vắng mặt và ủy quyền cho bà Y chăm sóc, nuôi dưỡng
cháu Bảo A1 và cháu L1 đồng thời nhận thay các văn bản tố tụng của Tòa án.
Bà Nguyễn Thị Y trình bày: Bà là mẹ đẻ anh H, giữa chị Lan A và anh H
sống không hạnh phúc, năm 2022 chị Lan A đã bỏ ra ngoài ở, không quan tâm
đến các con. Tháng 4/2024 chị Lan A từng có đơn ly hôn gửi Tòa án tỉnh Hải
Dương, nhưng sau đó chị Lan A đã rút đơn ly hôn. Tuy nhiên chị Lan A không
về gia đình bà, nay chị Lan A tiếp tục làm đơn ly, quan điểm của gia đình đề
nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật. Hiện nay 03 cháu Nguyễn
Ngọc Bảo L, Nguyễn Ngọc Bảo A1, Nguyễn Hoàng L1 đều được bà chăm sóc.
3
Trong thời gian anh H không ở Việt Nam, bà đồng ý nhận thay văn bản tố tụng
của Tòa án và chăm sóc cháu Bảo A1, cháu L1 thay cho anh H.
Cháu Nguyễn Ngọc Bảo L, Nguyễn Ngọc Bảo A1, Nguyễn Hoàng L1 là
con chung của anh H và chị Lan A có nguyện vọng khi bố mẹ ly hôn, cháu L xin
ở với mẹ, cháu Bảo A1 và cháu L1 có nguyện vọng ở với bố và ông bà nội.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hải Dương phát biểu
quan điểm:
Về việc tuân theo pháp luật: Thẩm phán, thư ký, Hội đồng xét xử và
nguyên đơn đã chấp hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
Về quan điểm giải quyết vụ án: Căn cứ các tài liệu có trong hồ sơ cho
thấy mâu thuẫn giữa chị Lan A và anh H đã trầm trọng, mục đích hôn nhân
không đạt được. Do vậy đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện,
xử cho chị Lan A được ly hôn anh H; Về con chung: Giao cháu Nguyễn Ngọc
Bảo L, sinh ngày 01/6/2011 cho chị Lan A chăm sóc, nuôi dưỡng, giao cháu
Nguyễn Ngọc Bảo A1, sinh ngày 29/12/2013 và Nguyễn Hoàng L1, sinh ngày
29/11/2016 cho anh H chăm sóc, nuôi dưỡng cho đến khi các cháu đủ 18 tuổi.
Trong thời gian anh H không ở Việt Nam, tạm giao cháu L1, cháu Bảo A1 cho
bà Nguyễn Thị Y chăm sóc, nuôi dưỡng. Hai bên không phải cấp dưỡng tiền
nuôi con chung cho nhau. Về án phí: Chị Lan A phải chịu án phí Hôn nhân gia
đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và xem xét ý kiến của
các đương sự, quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hải Dương,
Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng: Nguyên đơn chị Nguyễn Thị Lan A có địa chỉ tại: Số C
ngõ C L, Phường C, Quận H, thành phố Hà Nội; bị đơn anh Nguyễn Ngọc H có
địa chỉ trước khi xuất cảnh tại: Số A T, khu A, phường B, thành phố H, tỉnh Hải
Dương. Hiện tại anh H đang lao động tại Đài Loan. Do vậy, vụ án thuộc thẩm
quyền giải quyết của Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương.
[2] Quá trình giải quyết vụ án, chị Lan A không cung cấp được địa chỉ của
anh H tại Đài Loan. Theo quy định tại Điều 10 Nghị Quyết 01/2024/NQ-HĐTP
ngày 16/5/2024 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Tòa án đã
nhiều lần yêu cầu gia đình anh H cung cấp địa chỉ, nhưng gia đình không cung
cấp được. Qua xác minh tại gia đình anh H được biết, anh H thường xuyên liên
lạc với mẹ đẻ là bà Nguyễn Thị Y. Bà Y đồng ý nhận các văn bản tố tụng của
Tòa án và đã thông báo cho anh H biết. Thông qua gia đình, anh H đã thể hiện
quan điểm về việc ly hôn, nuôi con chung. Để đảm bảo quyền lợi cho anh H,
Tòa án cũng đã tiến hành niêm yết các văn bản tố tụng theo quy định của pháp
4
luật. Do anh H không cung cấp địa chỉ tại Đài Loan nên áp dụng Điều 10 Nghị
Quyết 01/2024/NQ-HĐTP ngày 16/5/2024 của Hội đồng thẩm phán Tòa án
nhân dân tối cao, Tòa án tiến hành xét xử theo thủ tục cố tình giấu địa chỉ.
Anh H ủy quyền cho bà Nguyễn Thị Y chăm sóc, nuôi dưỡng cháu
Nguyễn Ngọc Bảo A1 và cháu Nguyễn Hoàng L1, nên Tòa án xác định bà Y là
người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trong vụ án.
[3] Chị Lan A, anh H, bà Y đều có quan điểm đề nghị giải quyết vắng
mặt. Căn cứ khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành
xét xử vắng mặt các đương sự.
[4] Về nội dung:
[5] Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Lan A và anh Nguyễn Ngọc H
kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường C,
quận H, thành phố Hà Nội ngày 17/12/2010, do vậy hôn nhân của anh chị là hợp
pháp. Căn cứ lời khai của các đương sự và bà Nguyễn Thị Y là mẹ đẻ anh H, có
căn cứ xác định, sau ngày cưới, chị Lan A và anh H sống hòa thuận, hạnh phúc
đến năm 2017 thì xảy ra mâu thuẫn. Từ khi anh H đi nước ngoài vẫn chưa về
Việt Nam lần nào, hiện tại chị Lan A đã ra ngoài ở riêng, vợ chồng không còn
quan tâm, liên lạc với nhau. Nay chị Lan A xác định tình cảm vợ chồng không
còn và có đơn xin ly hôn anh H. Quá trình giải quyết vụ án, anh H cũng có quan
điểm xác định không còn tình cảm với chị Lan A, nay chị Lan A có đơn ly hôn
anh đồng ý. Như vậy, mâu thuẫn giữa chị Lan A và anh H đã trầm trọng, đời
sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên có căn cứ
chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Lan A.
[6] Về quan hệ con chung: Chị Nguyễn Thị Lan A và anh Nguyễn Ngọc
H có 3 con chung là Nguyễn Ngọc Bảo L, sinh ngày 01/6/2011, Nguyễn Ngọc
Bảo A1, sinh ngày 29/12/2013 và Nguyễn Hoàng L1, sinh ngày 29/11/2016. Chị
Lan A và anh H thỏa thuận, chị Lan Anh N cháu Bảo L, anh H nuôi cháu Bảo
A1 và cháu L1. Xét thấy, việc thỏa thuận của anh chị hoàn toàn tự nguyện, phù
hợp với quy định của pháp luật cũng như nguyện vọng của cháu L, cháu Bảo A1
và cháu L1. Do đó cần chấp nhận sự thỏa thuận, để chị Lan Anh N cháu L, anh
H nuôi cháu Bảo A1 và cháu L1. Trong thời gian anh H không ở Việt Nam, tạm
giao cháu Bảo A1, cháu L1 cho bà Nguyễn Thị Y chăm sóc nuôi dưỡng. Hai bên
không phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung cho nhau.
[7] Về tài sản chung, nợ chung: Chị Nguyễn Thị Lan A và anh Nguyễn
Ngọc H đều xác định không có nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
[8] Về án phí: Chị Nguyễn Thị Lan A là nguyên đơn nên phải chịu án phí
dân sự sơ thẩm ly hôn theo quy định tại Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự và Nghị
quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội

5
quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí
Tòa án.
Vì những lẽ trên:
QUYẾT ĐỊNH:
Áp dụng Điều 51, Điều 56, Điều 81; Điều 82; Điều 83 Luật Hôn nhân và
gia đình; Điều 147, Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/QH14
ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu án phí, lệ
phí Tòa án, xử:
1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Nguyễn Thị Lan A được ly hôn anh
Nguyễn Ngọc H.
2. Về quan hệ con chung: Giao con chung Nguyễn Ngọc Bảo L, sinh ngày
01/6/2011 cho chị Nguyễn Thị Lan A chăm sóc, nuôi dưỡng. Giao con chung
Nguyễn Ngọc Bảo A1, sinh ngày 29/12/2013 và Nguyễn Hoàng L1, sinh ngày
29/11/2016 cho anh Nguyễn Ngọc H chăm sóc, nuôi dưỡng cho đến khi các con
tròn 18 tuổi. Hai bên không phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung cho nhau.
Trong thời gian anh H không ở Việt Nam, tạm giao cháu Bảo A1, cháu L1
cho bà Nguyễn Thị Y chăm sóc, nuôi dưỡng.
Chị Nguyễn Thị Lan A và anh Nguyễn Ngọc H được quyền thăm nom,
chăm sóc con chung, không ai được cản trở.
3. Về án phí: Chị Nguyễn Thị Lan A phải chịu 300.000 đồng (ba trăm
nghìn đồng) án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm, được đối trừ số tiền tạm ứng án
phí 300.000đồng (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu số 0005236 ngày 21
tháng 10 năm 2024 tại Cục thi hành án dân sự tỉnh Hải Dương; chị Lan A đã nộp
đủ án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm.
4. Về quyền kháng cáo: Chị Nguyễn Thị Lan A và bà Nguyễn Thị Y được
quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, anh Nguyễn Ngọc H được
quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được bản án
hoặc bản án được niêm yết theo quy định pháp luật.
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Hải Dương;
- Các đương sự;
- Cục THADS tỉnh Hải Dương;
- UBND phường Cầu Dền; Q. Hai
Bà Trưng, TP. Hà Nội.
- UBND phường Bình Hàn.
- Lưu hồ sơ.
TM.HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa
Đoàn Thị Hƣơng Nhu
6
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 10/02/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 10/02/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 09/02/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 09/02/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 08/02/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 07/02/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 07/02/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 07/02/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 06/02/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 25/01/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 24/01/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 24/01/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 24/01/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 24/01/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 24/01/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 23/01/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 23/01/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 23/01/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 23/01/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
20
Ban hành: 22/01/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm