Bản án số 41/2025/DS-PT ngày 08/04/2025 của TAND tỉnh Hải Dương về tranh chấp quyền sử dụng đất

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 41/2025/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 41/2025/DS-PT ngày 08/04/2025 của TAND tỉnh Hải Dương về tranh chấp quyền sử dụng đất
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp quyền sử dụng đất
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Hải Dương
Số hiệu: 41/2025/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 08/04/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Ông Nguyễn Văn T khởi kiện tranh chấp quyền sử dụng đất đối với ông Nguyễn Văn T1
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TOÀ ÁN NHÂN DÂN
TỈNH HẢI DƯƠNG
Bản án số: 41/2025/DS-PT
Ngày: 8-4-2025
V/v tranh chấp mốc giới quyền
sử dụng đất
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
ỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH HẢI DƯƠNG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm :
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: Ông Trần Hữu Hiệu.
Các Thẩm phán: Ông Phạm Anh Tuyết, bà Đoàn Thị Hương Nhu
- Thư phiên toà: Thị Mai Trang - Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh
Hải Dương.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hải Dương tham gia phiên tòa:
Bà Bùi Thị Hậu - Kiểm sát viên.
Trong các ngày 31 tháng 3 và 08 tháng 4 năm 2025, tại trụ sở Toà án nhân
dân tỉnh Hải Dương, xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ số
92/2024/TLPT-DS ngày 15 tháng 10 năm 2024 về việc tranh chấp mốc giới quyền
sử dụng đất; do Bản án dân sự thẩm số 12/2024/DS-ST ngày 06 tháng 9 năm
2024 của Tòa án nhân dân huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương bị kháng cáo; theo
Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 07/2025/QĐXX-PT ngày 15 tháng
01 năm 2025, Quyết định hoãn phiên tòa số 23A/2025/-PT ngày 14 tháng 02
năm 2025 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1954; địa chỉ: Thôn Đ, xã N,
huyện N, tỉnh Hải Dương; vắng mặt.
Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn đồng thời là người có quyền
lợi nghĩa vụ liên quan: Anh Nguyễn Văn T1, sinh năm 1989; địa chỉ: Thôn Đ,
N, huyện N, tỉnh Hải Dương; có mặt.
- Bị đơn: Ông Nguyễn Văn T2 (T3), sinh năm 1972 Hoàng Thị V
(V1), sinh năm 1974; địa chỉ: Thôn Đ, N, huyện N, tỉnh Hải Dương; ông T2
có mặt.
Người đại diện theo ủy quyền của V: Ông Nguyễn Ngọc T4, sinh năm
1976; địa chỉ: Thôn Đ, xã N, huyện N, tỉnh Hải Dương; có mặt.
- Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
+ Chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1970; địa chỉ: Thôn Q, xã A, huyện N, tỉnh
Hải Dương; vắng mặt.
2
+ Anh Nguyễn Văn N, sinh năm 1977; địa chỉ: Thôn Đ, N, huyện N, tỉnh
Hải Dương; có mặt.
+ ChNguyễn Thị D, sinh năm 1980; địa chỉ: Số nhà I, Đ, phường B, thành
phố H, tỉnh Hải Dương; vắng mặt.
+ Chị Nguyễn Thị T5, sinh năm 1985; địa chỉ: Thôn T, xã N, huyện N, tỉnh
Hải Dương; vắng mặt.
Anh N, chị H, chị T5, chị D ủy quyền cho anh T1 tham gia tố tụng.
- Người kháng cáo: Nguyên đơn Nguyễn Văn T bị đơn Nguyễn Văn T2.
- Người kháng nghị: Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện Nam Sách,
tỉnh Hải Dương.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
1. Nguyên đơn và những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trình bày:
Ông Nguyễn Văn TBùi Thị K có quyền sử dụng thửa đất số 135 và
168 tổng diện tích 705m
2
thuộc tờ bản đồ số 05, xã N, huyện N, đã được UBND
huyện N cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ) ngày 04/7/2002.
K chết ngày 22/6/2022. Ông T, bà K sinh được 05 người con gồm: Chị H, anh
N, chị D, chị T5 anh T1. Hiện tại trên thửa đất ông T anh N đang trực
tiếp quản lý, sử dụng.
Cạnh phía Đông thửa đất của gia đình ông T giáp với cạnh phía Tây thửa
đất của gia đình cụ Nguyễn Văn G (sau này cụ G tách đất cho con trai ông
Nguyễn Văn T2). Từ năm 1975 đến tháng 4/2002, giáp ranh giữa hai thửa đất
02 công trình phụ của 2 nhà, những đoạn như sau: Đoạn tường bao từ điểm
giáp đường thôn kéo về phía Bắc khoảng 7m do anh trai ông T2 ông H1 xây
dựng vào khoảng năm 1996-1997. Tiếp đến bếp của gia đình ông T, sau bếp
còn có rãnh thoát nước chạy đến hết đất của gia đình ông T về phía Bắc. Tiếp đến
chuồng lợn và nhà vệ sinh của gia đình ông T2. Phía sau chuồng lợn nhà ông
T2 là bếp của gia đình ông T. Hiện tại ranh giới giữa hai gia đình như sau: Điểm
thứ nhất giáp đường thôn (không tranh chấp), từ điểm thứ nhất kéo về phía Bắc
khoảng 7m tường bao do gia đình ông T2 xây dựng, tiếp đến tường bao do
gia đình ông T xây dựng dài khoảng 16m, tiếp đến là tường nhà ăn do gia đình
ông T2 xây dựng, tiếp đến là tường bao do gia đình ông T xây dựng đến hết đất,
điểm mốc giữa hai nhà ở phía Bắc không có tranh chấp. Năm 2014, gia đình ông
T hiến khoảng 15,6m
2
, sâu khoảng 80cm, dài 19m theo mặt hướng Nam giáp
đường thôn. Ngoài ra, gia đình ông T còn hiến đất mở rộng ngõ phía Tây, cụ
thể bao nhiêu không nắm được.
Ngày 22/4/2022, gia đình ông T2 phá công trình phụ của nhà mình đi
xây lại, trong khi xây dựng đã lấn chiếm sang thửa đất của gia đình ông T chiều
dài khoảng 14m, chiều rộng khoảng 25cm, diện tích khoảng 3,5m
2
, vị trí phía
Đông thửa đất của gia đình ông T. Khi đó gia đình ông T đã yêu cầu gia đình ông
T2 dừng việc xây dựng đã gửi đơn đến UBND N về việc gia đình ông T2
lấn chiếm đất nhưng ông T2 vẫn tiếp tục xây dựng và đã hoàn thiện công trình.
3
Tại đơn khởi kiện, nguyên đơn yêu cầu ông T2, bà V trả lại diện tích đất đã
lấn chiếm khoảng 3,5m
2
, chiều dài 14m, rộng 25cm; tháo dtoàn bộ công trình
phụ đã xây dựng trên đất lấn chiếm, trả lại hiện trạng ban đầu. Quá trình chuẩn bị
xét xử sơ thẩm, nguyên đơn xác định theo GCNQSDĐ bản đồ đo đạc hiện trạng
năm 2012 thì ranh giới giữa hai gia đình đường thẳng nhưng hiện trạng đường
gấp khúc bị biến dạng. Do hai điểm hai đầu thửa đất hai bên không tranh
chấp nên đề nghị Tòa án xác định ranh giới giữa hai thửa đất đường thẳng A1A8
và phần đất được giới hạn bởi các điểm A1A2A3A4A5A6A7A8 đến A1 là phần
đất gia đình ông T2 lấn chiếm, yêu cầu ông T2, V tháo dỡ toàn bộ công trình
trên phần đất này.
2. Bị đơn trình bày: Thửa đất vợ chồng ông T2 đang quản sử dụng
nguồn gốc của bố mẹ ông T2 là cụ Nguyễn Văn G cụ Hoàng Thị B được cấp
từ năm 1973. Năm 2002, cụ G cụ B tặng cho vợ chồng ông T2 thửa số 136, tờ bản
đồ số 05, diện tích 164m
2
giáp đất ông T. Năm 1974, cụ G, cụ B xây dựng công
trình phụ phía giáp nhà ông T gồm 01 bể nước, 01 gian nhà tắm, 02 gian bếp,
02 gian chuồng lợn, 01 nhà vệ sinh. Sau đó, gia đình ông T xây tường bao phía
sau công trình phụ của cụ G ngăn cách giữa thửa đất của gia đình ông T2 gia
đình ông T. Thời gian ông T xây tường bao, ông T2 không nhớ chính xác nhưng
ông T xây nhiều lần. Năm 2002, ông T2 phá 01 giếng, 01 bể, 01 nhà tắm, 01 gian
bếp để xây căn nhà mái bằng như hiện trạng. Khi xây nhà, ông T2 không xây hết
đất mà vẫn để lại đất cách tường bao do ông T xây dựng khoảng 30 - 70 cm. Thời
điểm năm 2002, gia đình ông T đã xây tường bao phía giáp đường thôn, còn
phía sau chưa xây. Sau đó, gia đình ông T xây tiếp đoạn tường bao phía sau, thời
điểm xây ông không nhớ chính xác. Từ năm 2002 đến tháng 02/2022, giữa hai gia
đình không có tranh chấp với nhau về mốc giới. Khoảng năm 2014, gia đình ông
T hiến khoảng 2,4m
2
, chiều sâu khoảng 40cm, rộng 6m để làm đường xóm. Tháng
02/2022, ông T tiếp tục phá nốt 01 gian bếp, 02 gian chuồng lợn, 01 nhà vệ sinh
của cụ G để xây thêm một căn nhà cùng công trình phụ. Khi xây dựng, móng
ông T2 để nguyên, không đào lên xây tiếp trên nền móng của công trình
cũ. Khi ông phá công trình để xây dựng, gia đình ông T báo chính quyền
xuống để giải quyết tranh chấp đất đai. UBND xã có báo ông T2 lên làm việc 03
lần nhưng ông T2 không lên vì ông không lấn chiếm đất của gia đình ông T. Vợ
chồng ông T2 không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông T, nếu ông T căn
cứ cho rằng ông xây nhà lấn chiếm sang đất của gia đình ông T thì đề nghị Tòa
án giải quyết theo quy định của pháp luật.
3. Kết quả xem xét thẩm định tại chỗ xác định: Thửa đất nguyên đơn quản
sử dụng gồm thửa số 135, 168 thuộc tờ bản đồ số 05, tổng diện tích theo giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất là 705m
2
, theo kết quả đo đạc hiện trạng 710m
2
.
Thửa đất do bị đơn và gia đình đang quản lý sử dụng gồm các thửa số 136, 228,
227, 226, 225 thuộc tờ bản đồ số 05, tổng diện tích theo giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất 761m
2
, theo kết quả đo đạc hiện trạng 780m
2
. Giáp ranh giữa hai
thửa đất của gia đình ông T gia đình ông T2 đang quản lý, sử dụng gồm: Từ
đường thôn 01 trụ cổng, tường bao từ trụ cổng đến nhà vệ sinh, bếp lợp tôn,
tường bao từ nhà vệ sinh đến cuối đất (giáp đất nhà ông Mai Văn D1). Lán tôn
4
phía trước nhà chính, cổng, nhà chính xây dựng năm 2002, giáp nhà chính là bếp,
công trình phụ xây dựng năm 2022. Theo nguyên đơn, phần tường bao từ trụ cổng
đến hết lán tôn do gia đình ông T2 (bđơn) xây dựng, phần tường bao còn lại +
bếp, công trình phụ lợp tôn do nguyên đơn xây dựng vào khoảng tháng 02/2020.
Theo bị đơn, phần tường bao từ trụ cổng đến hết lán tôn do gia đình ông T (nguyên
đơn) xây dựng. Bị đơn xây dựng nhà chính, bếp công trình phụ trên nền bếp
cũ và bể. Hiện vẫn còn móng bể, tường bể. Tòa án tiến hành đào khảo sát: Hố thứ
nhất sâu 50cm, rộng 50cm, dài 1,4m. Khi đào phát hiện phần móng nhà chính của
gia đình ông T2 bè ra so với bờ tường 30cm. Đáy bể + tường bể cũ. Móng tường
bao do gia đình ông T xây dựng bè ra so với bờ tường 5cm. Hố thứ hai giáp bếp
của hai gia đình, rộng 50cm, dài 50cm, sâu 50cm. Khi đào phát hiện móng nhà
chính của gia đình ông T2 ra so với bờ tường 20cm. Vị trí đào không mở rộng
để đào được móng bếp cũ do gia đình ông T2 xây dựng. Phần giáp giữa bếp của
hai gia đình và phía sau thửa đất đã có công trình kiên cố nên không đào để khảo
sát được.
4. Kết quả định giá tài sản: Giá đất tại vị trí tranh chấp 9.000.000
đồng/m
2
; giá đất nuôi trồng thủy sản 75.000 đồng/m
2
; giá đất trồng cây lâu năm
80.000 đồng/m
2
; giá trị công trình trên đất gồm: Tường chăn nuôi 444.000 đồng,
nhà vệ sinh 1.088.000 đồng, nhà tắm 1.681.000 đồng, nhà lợp tôn 128.271.000
đồng; nhà 2 tầng 76.426.000 đồng, lán tôn 9.350.000 đồng, tường 4.432.000 đồng.
01 cây cau trị giá 200.000 đồng.
5. Kết quả xác minh tại UBND xã N:
5.1. Đối với đất gia đình ông T: Theo hồ 299, ông T đứng tên thửa đất
số 46, tờ bản đồ số 02, diện tích 558m
2
, loại đất T (thổ cư) thửa số 47, tờ bản
đồ số 02, diện tích 100 m
2
, loại đất A (ao). Các đồ sổ sách lưu giữ tại UBND
xã không thể hiện kích thước các cạnh của các thửa đất. Theo bản đồ 1993 và sổ
mục kê, ông T đứng tên thửa đất số 135, tờ bản đồ số 05, diện tích 606 m
2
, loại
đất T và thửa số 168, tờ bản đồ số 05, diện tích 99m
2
, loại đất A (ao), tổng cộng
diện tích hai thửa bằng 705 m
2
. Theo bản đồ đo vẽ năm 2012, đất của gia đình
ông T tách thành hai thửa: Thửa số 100, tbản đồ số 12, diện tích 506 m
2
, tên chủ
ông T thửa số 101, diện tích 228 m
2
, tên anh N (con trai ông T), tổng cộng bằng
734 m
2
. Diện tích đất theo các hồ sơ địa chính trên có khác nhau do sai số đo đạc
hoặc tính toán. Hồ sơ cấp GCNQSDĐ của gia đình ông T hiện chỉ có 01 đơn xin
cấp GCNQSDĐ đề ngày 17/4/1994, 01 đơn xin cấp GCNQSDĐ đề ngày
20/8/2001, 01 Thông báo về việc hộ gia đình tự kiểm tra thửa đất đang sử dụng
để lập hồ sơ cấp GCNQSDĐ đề ngày 30/6/2001. Năm 2002, gia đình ông T được
UBND huyện N cấp giấy CNQSDĐ đồng loạt cùng các gia đình khác trong xã N
đối với thửa đất số 135 và 68 nêu trên với diện tích là 705 m
2
. Hiện nay, mốc giới
đất của gia đình ông T ở 03 góc phía Nam, phía Đông giáp đường và giáp ngõ đi
đều đã thay đổi so với khi được cấp GCNQSDĐ năm 2002 do quá trình sử dụng
có biến động và do hiến đất làm đường.
5.2. Đối với đất gia đình ông T2: Theo hồ sơ 299, cụ Nguyễn Văn G đứng
tên thửa đất số 52, tờ bản đồ số 02, diện tích 702 m
2
, loại đất T và thửa số 53, tờ
5
bản đồ số 02, diện tích 48 m
2
, loại đất A, tổng cộng bằng 750 m
2
. Các sơ đồ và sổ
sách lưu giữ tại UBND không thể hiện kích thước các cạnh của các thửa đất.
Theo bản đ1993 sổ ngoại, đất cụ G được tách thành 03 thửa gồm: Thửa
số 136, tờ bản đồ số 05, diện tích 275 m
2
, loại đất T đng tên cụ G; thửa số 137,
tờ bản đồ số 05, diện tích 252 m
2
, loại đất T đứng tên ông H2 (con cụ G); thửa số
119, tờ bản đồ số 05, diện tích 258 m
2
, loại đất T đứng tên ông H1 (con cụ G),
tổng cộng bằng 785 m
2
. Theo Sổ danh sách các hộ gia đình xin cấp GCNQSDĐ
đợt I, ngày 10/6/2002, ông T2 V1 được cấp giấy CNQSDĐ đối với thửa
đất số 136, tờ bản đồ số 5, diện tích 164 m
2
; ông H1 được cấp giấy CNQSDĐ đối
với thửa đất số 137, tờ bản đồ số 5, diện tích 164 m
2
. Hồ cấp giấy CNQSDĐ
của gia đình cụ G, ông H2, ông T2, ông H1 năm 2002, hiện nay UBND xã chưa
tìm thấy nên chưa cung cấp cho Toà án được. Theo bản đồ 2012: Thửa đất của cụ
G được tách thành 03 thửa gồm thửa số 84 đứng tên ông T, thửa 85 đứng tên ông
H1 và thửa 86 đứng tên cụ G (các thửa đất thuộc tờ bản đồ số 12). Thời điểm này,
gia đình cụ G và cụ B, ông T2, ông H1 biến động về việc nhập thửa rồi lại tách
thửa đất. Hồ nhập thửa tách thửa, cấp GCNQSDĐ thời kỳ này, UBND
không bản lưu các thủ tục cấp giấy CNQSDĐ lúc này do UBND huyện N
thực hiện nên không cung cấp cho Tòa án được. Căn cứ GCNQSDĐ năm 2020,
hiện nay thửa đất của cụ G (đo vẽ theo Chỉ thị 299) được tách thành 05 thửa sau:
Thửa 136, tờ bản đồ số 05, diện tích 164 m
2
, loại đất nông thôn, tên chủ sdụng
Nguyễn Văn T2Hoàng Thị V1; Thửa số 225, tờ bản đồ số 12, diện tích 156,3
m
2
, loại đất nông thôn, tên ông T2. Thửa số 226, tờ bản đs12, diện tích 150,4
m
2
, loại đất nông thôn, tên chủ sử dụng Nguyễn Văn H1. Thửa số 227, tbản
đồ số 12, diện tích 76,6 m
2
, loại đất ở nông thôn, tên chủ sử dụng Nguyễn Tô H2.
Thửa số 228, tờ bản đồ số 12, diện tích 231,7 m
2
, loại đất nông thôn, tên chủ sử
dụng là Nguyễn Thị B1. Cộng diện tích đất được cấp theo 05 GCNQSDĐ nêu trên
bằng 779 m
2
, giảm so với bản đồ 1993 giảm 06 m
2
là do gia đình đã hiến đất làm
đường. Trong diện tích đất được cấp cho gia đình ông T loại đất ao thể hiện
trên GCN bản đồ qua các thời knằm giáp đường đi phía Nam. Còn các loại
đất ở, đất trồng cây lâu năm không xác định vị trí cụ thể vị đối với từng loại đất.
Đất của ông T2 đã được xác định toàn bộ là đất ở nông thôn.
5.3. Phần đất tranh chấp giữa hai gia đình có liên quan đến thửa số 136
225 đều đứng tên chủ sử dụng là ông T2 và thửa đất đứng tên chủ sử dụng là ông
T. Các thửa đất số 226, 227 228 không cạnh nào giáp với đất của gia đình
ông T. Tuy nhiên, các thửa đất số 136, 225, 226, 227 và 228 đều không có đường
ranh giới rõ ràng, các chủ sử dụng vẫn đang sử dụng chung. Bản đồ địa chính tại
các xã qua các thời kỳ được thể hiện đối với từng thửa đất; được đo vẽ trên cơ sở
hiện trạng sử dụng của các hộ gia đình, nhân họ tự xác định mốc giới với
nhau, tự kê khai với địa phương khi địa phương tổ chức đo đạc qua từng thời kỳ.
Đối với các thửa đất của gia đình ông T gia đình ông T2, cụ G, ông H2, ông
H1, diện tích, ranh giới thể hiện tại bản đồ 299, bản đồ đo đạc năm 1993, hồ
cấp giấy CNQSDĐ bản đồ năm 2012 đều sự biến động. Việc biến động thay
đổi về diện tích ranh giới từ bản đồ 299, bản đồ năm 1993 đến thời điểm cấp
GCNQSDĐ năm 2002, năm 2018 năm 2020 thể do những nguyên nhân như:
6
Do sai sót trong việc đo đạc lập hồ địa chính; do các hộ sdụng đất tý chuyển
nhượng, chuyển đổi, cho tặng, tự ý thống nhất mốc giới, hiến đất làm đường. Khi
UBND huyện N cấp GCNQSDĐ cho hai hộ gia đình ông T, ông T2 năm 2002 đã
cấp theo diện tích, hình thể và ranh giới như đã thể hiện trên bản đồ, hồ đo đạc
năm 1993. Căn cứ sổ lưu “Biên bản ranh giới, mốc giới thửa đất” xã N, huyện N,
tỉnh Hải Dương (theo hiện trạng sử dụng đất) tờ bản đồ địa chính số 12, quyển số
01 từ thửa số 01 đến 100 và quyển số 02, từ thửa 100 đến 205 lập năm 2008. Tại
Biên bản xác nhận ranh giới, mốc giới thửa đất ngày 15/11/2008 của ông Nguyễn
Văn T2 đối với thửa đất số 84, diện tích 231m
2
, ba người biên bản giáp ranh
gồm tên T, K1, V2. Tại Biên bản xác nhận ranh giới, mốc giới thửa đất ngày
15/11/2008 của ông Nguyễn Văn H1 đối với thửa đất số 85, diện tích 234m
2
,
ba người biên bản gồm các tên T2, V2, G. Tại Biên bản xác nhận ranh giới,
mốc giới thửa đất ngày 15/11/2008 của cụ Nguyễn Văn G đối với thửa đất số 86,
diện tích 351m
2
, có hai người ký biên bản gồm các tên H1, V2. Tại Biên bản xác
nhận ranh giới, mốc giới thửa đất ngày 15/11/2008 của ông Nguyễn Văn T đối
với thửa đất số 100, diện tích 506m
2
, có ba người ký biên bản trong gồm các tên
T2, K1, Những.
6. Tại Bản án dân sự thẩm số 12/2024/DS-ST ngày 06 tháng 9 năm 2024,
Tòa án nhân dân thành huyện N, tỉnh Hải Dương quyết định: Chấp nhận một phần
yêu cầu khởi kiện của ông T. Xác định ranh giới giữa thửa đất của gia đình ông T
thửa đất của gia đình ông T2, V đường nối bởi các điểm
A1A2A3A4A5A6A7A8. Giao phần đất được giới hạn bởi các điểm t
A4B1B2B3A3 đến A4 (trong đó cạnh A4B1= 0,05m; B1B2=6,8m;
B2B3=B3A3= 1,5m) có diện tích 0,4m
2
cho ông T2, bà V quản lý, sử dụng. Ông
T2, bà V trách nhiệm thanh toán trả cho gia đình ông T, do ông T đại diện nhận
số tiền 3.600.000đồng (Có sơ đồ kèm theo). Ngoài ra bản án còn tuyên về nghĩa
vụ do chậm thi hành án, án phí, chi phí tố tụng và quyền kháng cáo theo quy định.
Ngày 18/9/2024, nguyên đơn kháng cáo đề nghị hủy án thẩm hoặc sửa
bản án theo hướng chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Ngày 20/9/2024, bị đơn kháng cáo đề nghị Tòa án không chấp nhận yêu
cầu khởi kiện của nguyên đơn; xác định ranh giới đất của hai gia đình; đề nghị
xem xét thẩm định bổ sung tài sản để xác định nguyên đơn xây tường lấn đất nhà
bị đơn, yêu cầu nguyên đơn phải trả lại diện tích đất lấn chiếm.
Tại Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 57/QĐ-VKS-NS ngày 19/9/2024,
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện Nam Sách kháng nghị đề nghị hủy
bản án sơ thẩm do cấp sơ thẩm có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, vi phạm
trong việc thu thập và đánh giá chứng cứ, vi phạm trong định giá tài sản.
Tại Quyết định thay đổi Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 38/QĐ-VKS-
NS ngày 24/3/2025, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện Nam Sách đề
nghị Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương sửa bản án sơ thẩm.
Tại phiên tòa:
7
Các đương sự giữ nguyên yêu cầu kháng cáo; trình bày các ý kiến như đã
trình bày tại giai đoạn sơ thẩm. Nguyên đơn và bị đơn thừa nhận kết quả xem xét
thẩm định bổ sung của cấp phúc thẩm thống nhất đoạn tường bao từ A8 đến
A7 do bị đơn xây dựng.
Kiểm sát viên phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát về việc tuân theo pháp
luật trong quá trình giải quyết vụ án ở giai đoạn phúc thẩm và đề nghị Hội đồng
xét xử chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện Nam
Sách, chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn, không chấp nhận kháng cáo của bị
đơn, sửa bản án sơ thẩm ngoài buộc gia đình ông T2 phải trả cho gia đình ông T
giá trị quyền sử dụng đất còn phải trả giá trị móng tường bao của gia đình ông T
nằm trong phần đất bị lấn chiếm. Các đương skhông phải chịu án pphúc thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Về tố tụng:
Kháng cáo của nguyên đơn, bị đơn kháng nghị của Viện trưởng Viện
kiểm sát nhân dân huyện Nam Sách trong thời hạn luật định nên được chấp nhận
xem xét theo trình tự phúc thẩm.
[2] Về nội dung:
[2.1] Thửa đất hiện do gia đình nguyên đơn bị đơn đang quản sử dụng
nguồn gốc do UBND N cấp vào khoảng từ năm 1973 đến năm 1975
đều được UBND huyện N cấp GCNQSDĐ vào ngày 04/7/2002 (cấp đồng loạt
theo bản đồ đo vẽ năm 1992), trong đó: Thửa s135, 168, diện tích 705m
2
tờ bản
đồ số 05 mang tên ông T, K; thửa số 136, tờ bản đồ số 05, diện tích 164m
2
mang tên ông T2, V1. Đất của ông T2, V1 do cụ G, cụ B1 tặng cho. Hiện
ông T2, bà V1 còn quản lý sử dụng các thửa đất khác có nguồn gốc của cụ G, cụ
B1 không phân biệt ranh giới. Kết quả xem xét thẩm định tại chỗ xác định đất của
cả hai bên đều thừa so với diện tích đất được cấp mặc đều đã hiến một phần
đất để mở rộng đường xóm. Các tài liệu địa chính qua các thời đều thể hiện
ranh giới giữa đất ông T đất cụ G (nay ông T2 sử dụng) đều đường thẳng.
Tuy nhiên thực tế gia đình cụ G xây dựng các công trình phụ quay lưng về phía
đất ông T tnhững năm 1974 gồm bể nước, bếp, nhà tắm, chuồng lợn (khi đó các
bên không tranh chấp); lời khai của bị đơn nguyên đơn đều xác định các
công trình của cụ G, cụ B1 kéo từ bể nước ở điểm A5 kéo dài đến điểm A2; theo
kết quả kiểm tra hiện trạng, các công trình này xây dựng không trên đường thẳng.
Nếu lấy ranh giới giữa hai bên là đường thẳng theo như yêu cầu của nguyên đơn
từ điểm A8 đến A1 thì ranh giới này đều cắt qua tất cả các công trình cụ G xây
dựng. N vậy, các tài liệu địa chính các bản đồ đo vẽ các thời kỳ
GCNQSDĐ của hai bên đều không là căn cứ để xác định ranh giới. Nguyên đơn
chỉ căn cứ vào GCNQSDĐ để xác định ranh giới giữa hai bên là đường thẳng và
yêu cầu xác định đường kéo tđiểm A8 đến A1 trên đồ hiện trạng làm ranh
giới giữa hai bên là không có căn cứ.
[2.2] Tại cấp phúc thẩm các đương sự cùng xác định đoạn tường xây gạch
từ điểm A8 đến điểm A7 trên đồ hiện trạng do ông T2 xây khi xây nhà mái
8
bằng năm 2002, khi ông T2 xây đoạn tường này, hai bên không tranh chấp.
Thực tế vì đoạn tường này xây liền với trụ cổng nhà ông T2 (điểm A8) và bổ cột
về phía đất ông T2. Theo bản đồ 1992, vị trí cổng nhà ông T hiện tại ao. Do đó,
xác định mép ngoài cùng (phía nhà ông T) tường bao của gia đình ông T đoạn A8
đến A7 trên đồ hiện trạng ranh giới do hai bên thống nhất xác lập từ năm
2002.
Như đã nêu tại phần [2.1], gia đình cụ G, cụ B1 xây dựng các công trình
phụ gồm bể nước, bếp, nhà tắm, chuồng lợn phía giáp nhà ông T tnhững năm
1974. Xây nhà cấp bốn có mái ngói chảy giọt ranh về phía sau. Năm 2002 ông T2
phá bể nước cũ xây nhà mái bằng kiên cố như hiện nay, nhà xây móng cân. Năm
2020 gia đình ông T xây dựng tường bao và công trình phụ lợp tôn kéo dài nối từ
tường gạch chỉ bao gia đình ông T2 xây (điểm A7) kéo dài đến điểm A6, A5, A4,
A3, B1, A2 đến A1. Móng tường này xây ra chân tường, cách móng của
chuồng lợn gia đình cụ G xây theo kết quả thẩm định tại chỗ tại cấp phúc thẩm
xác định tại vị trí A2-A3 12cm. Khi ông T xây tường này, gia đình hai bên
không có tranh chấp, mặc dù theo kết quả xem xét thẩm định tại chỗ xác định tại
vị trí A5 ông T xây tường đè lên đáy của bể của gia đình cụ G. Do đó căn
cứ xác định mép ngoài móng tường rào cho ông T xây dựng năm 2020 ranh
giới do hai bên thống nhất thỏa thuận trong quá tnh sử dụng đất. Cấp thẩm
xác định ranh giới đất của hai bên mép ngoài móng tường rào gia đình ông T
xây từ điểm A6, A5, A4, A3, B1, A2 đến A1 căn cứ. Ông T cho rằng khi
xây tường rào còn đlại đất làm rãnh thoát nước là không có căn cứ kháng cáo
của phía bđơn cho rằng nguyên đơn lấn đất của bị đơn cũng không căn cứ
chấp nhận.
Năm 2022, gia đình ông T2 phá nhà phụ của cụ G, xây nhà lợp tôn 36,4m
2
nhà xây kiên cố. Khi xây dựng nhà này ông T2 đã xây đè lên móng tường rào
nhà ông T, cấp sơ thẩm xác định gia đình ông T2 lấn đất của gia đình ông T tại vị
trí này căn cứ. Kết quả xem xét thẩm định tại chỗ tại cấp thẩm cấp
phúc thẩm xác định móng tường nhà của gia đình ông T2 (điểm B3) xây đè lên
móng tường rào do ông T xây dựng (điểm A4) 05cm, đào tường đoạn A2-A3
tại cấp phúc thẩm xác định móng tường nhà ông T2 đè lên móng tường rào nhà
ông T 10cm. Như vậy, căn cứ xác định móng tường nhà ông T2 đã lấn sang
đất của gia đình ông T diện tích 0,7m
2
được xác định bởi các điểm B3, B2, A2,
B1, A3, A4 đến B3 trên đồ. Do xác định lại hiện trạng nên cần xác định lại diện
tích đất gia đình ông T2 lấn của gia đình ông T cho phù hợp. Do gia đình ông T2
đã xây nhà kiên cố trên phần diện tích đất lấn chiếm không lớn, cấp sơ thẩm giao
diện tích đất này cho gia đình ông T2 sử dụng phải thanh toán tiền cho gia đình
ông T phù hợp. Tòa án cấp sơ thẩm đã thực hiện các thủ tục trưng cầu định giá
của Hội đồng định giá đảm bảo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự; Hội
đồng định giá đã tiến hành định giá tài sản đảm bảo đúng thành phần, trình tự và
chịu trách nhiệm về kết luận định giá. Do đó, kết luận định giá của Hội đồng định
giá đảm bảo giá trị pháp lý và làm căn cứ giải quyết vụ án. Kháng nghị của Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện Nam Sách về việc định giá tài sản của cấp
9
thẩm không căn cứ chấp nhận. Đơn giá đất theo kết luận định giá
9.000.000đồng/m
2
x 0,7m
2
= 6.300.000đồng.
Do giao ông T2 diện tích đất của gia đình ông T phần móng tường rào
của gia đình ông T n cần giao cho gia đình ông T2 sở hữu cả phần móng tường
này và gia đình ông T2 phải thanh toán giá trị phần móng tường cho gia đình ông
T. Phần kháng nghị ngày của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện Nam
Sách được chấp nhận. Kết quả thẩm định tại cấp phúc thẩm xác định móng tường
nhà ông T xây sâu 30cm x diện tích 0,7m
2
= 0,21m
3
; kết quả định gtại cấp phúc
thẩm xác định đơn giá tường xây gạch đặc, vữa xi măng 1.646.648đồng/m
3
x
0,21m
3
= 345.796 đồng đây là số tiền cần buộc bị đơn trả cho nguyên đơn.
Từ nhận định trên, Hội đồng xét xử có căn căn cứ không chấp nhận kháng
cáo của bị đơn; chấp nhận một phần kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân huyện Nam Sách; chấp nhận một phần kháng cáo của nguyên đơn, cần
sửa bản án sơ thẩm xác định rõ ranh giới giữa quyền sử dụng đất của nguyên đơn
bị đơn sửa phần nghĩa vụ của bị đơn trong việc trả nguyên đơn giá trị quyền
sử dụng đất và tài sản trên đất bị đơn lấn của nguyên đơn.
[3] Về chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ và định giá tài sản: Yêu cầu khởi
kiện của nguyên đơn được chấp nhận một phần nên cấp sơ thẩm buộc ông T2, bà
V phải chịu chi phí thẩm định, định giá tại giai đoạn thẩm 6.000.000 đồng
căn cứ. Tại giai đoạn phúc thẩm, các đương sự yêu cầu xem xét, thẩm
định tài sản bổ sung, tổng chi phí xem xét thẩm định tài sản bổ sung
3.000.000đồng. Do yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn được chấp nhận nên bị
đơn phải chịu toàn bộ số tiền nêu trên.
[4] Về án phí: Do sửa bản án thẩm nên phải sửa án pdân sự sơ thẩm
cho phù hợp và các đương sự không phải chịu án phí phúc thẩm theo Điều 148
Bộ luật Tố tụng dân sự Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016
của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản
lý và sử dụng và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
[5] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng
nghị Hội đồng xét xkhông xét đã hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết hạn
kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 2 Điều 308, Điều 309 Bộ luật Tố tụng dân sự;
1. Không chấp nhận toàn bộ kháng cáo của bị đơn Nguyễn Văn T2; chấp
nhận một phần kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện Nam
Sách và một phần kháng cáo của nguyên đơn Nguyễn Văn T. Sửa Bản án dân sự
thẩm số 12/2024/DS-ST ngày 06 tháng 9 năm 2024 của Tòa án nhân dân huyện
Nam Sách, tỉnh Hải Dương như sau:
Căn cứ vào Điều 175, Điều 176 của Bộ luật Dân sự; khoản 9 Điều 125 Luật
đất đai; Điều 148 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015; Nghị quyết số
10
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy
định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý sdụng sdụng án phí, lệ
phí Tòa án, xử:
Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Nguyễn Văn T.
Giao phần đất được giới hạn bởi các điểm từ A4, B3, B2, A2, B1, A3 đến
A4 có diện tích 0,7m
2
cho ông Nguyễn Văn T2 (Thượng), bà Hoàng Thị V (Vỹ)
quản lý, sử dụng; ông T2 và bà V có quyền sở hữu 0,21m
3
móng tường gạch trên
đất. Ông Nguyễn Văn T2 (Thượng), Hoàng Thị V (V1) trách nhiệm thanh
toán trả cho gia đình ông Nguyễn Văn T, do ông T đại diện nhận số tiền
6.645.796đồng.
Xác định ranh giới giữa thửa đất của gia đình ông Nguyễn Văn T sử dụng
thửa đất do gia đình ông Nguyễn Văn T2 (Thượng), bà Hoàng Thị V (V1) sử
dụng là đường nối bởi các điểm A1, A2, B2, B3, A4, A5, A6, A7, A8 trên sơ đồ
kèm theo bản án. Trong đó, từ điểm A1 đến A2 mép ngoài móng bờ tường gạch
do gia đình ông T xây dựng; từ điểm A2, B2, B3 đến A4 là mép ngoài móng nhà
lợp tôn 36,4m
2
do gia đình ông T2, V xây dựng năm 2022; từ điểm A4, A5 đến
A6 mép ngoài móng bờ tường gạch do gia đình ông T xây dựng; từ điểm A7
đến A8 là mép ngoài tường gạch do gia đình ông T2 xây dựng.
(Có sơ đồ kèm theo).
2. Về chi phí xem xét thẩm định tại chỗ định giá tài sản: Buộc ông T2,
bà V phải trả cho ông T số tiền 6.000.000 đồng chi phí xem xét thẩm định tại ch
tại giai đoạn thẩm. Buộc ông T2, bà V phải chịu 3.000.000đồng chi phí xem
xét, thẩm định tại chỗ tại giai đoạn phúc thẩm (ông T2, V đã nộp khoản tiền
3.000.000đồng và đã được Tòa án cấp phúc thẩm chi trên thực tế).
3. Kể từ ngày đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án đến
khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản lãi của số tiền còn
phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật
Dân sự, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
4. Về án phí:
4.1. Án phí sơ thẩm: Ông Nguyễn Văn T không phải chịu án phí dân sự sơ
thẩm. Ông Nguyễn Văn T2 (T3) và bà Hoàng Thị V (V1) phải chịu 332.298 đồng
án phí dân sự sơ thẩm.
4.2. Các đương sự không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm. Hoàn trả ông
Nguyễn Văn T2 số tiền 300.000đồng đã nộp tạm ứng án phí phúc thẩm theo Biên
lai thu số 0000201 ngày 26/9/2024 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Nam
Sách, tỉnh Hải Dương.
5. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng ngh
đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết hạn kháng cáo kháng nghị.
6. Bn án phúc thm có hiu lc pháp lut k t ngày tuyên án.
11
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 của
Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành
án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện
thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 9 của
Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại
Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự./.
Nơi nhn:
- VKSND tnh Hải Dương;
- Các đương sự;
- TAND huyn Nam Sách;
- Chi cc THADS huyn Nam Sách;
- Lưu: HS, THS, VP.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT X PHÚC THM
THM PHÁN - CH TO PHIÊN T
Trn Hu Hiu
Tải về
Bản án số 41/2025/DS-PT Bản án số 41/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 41/2025/DS-PT Bản án số 41/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất