Bản án số 104/2025/DS-PT ngày 28/03/2025 của TAND tỉnh Trà Vinh về tranh chấp quyền sử dụng đất

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 104/2025/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 104/2025/DS-PT ngày 28/03/2025 của TAND tỉnh Trà Vinh về tranh chấp quyền sử dụng đất
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp quyền sử dụng đất
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Trà Vinh
Số hiệu: 104/2025/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 28/03/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: tranh chấp quyền sử dụng đất
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH TRÀ VINH
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Đặng Văn Hùng
Các Thẩm phán: Ông Trần Văn Lực
Ông Lê Thành Trung
- Thư phiên tòa: Trần Thị Thảo - Thư Tòa án nhân dân tỉnh
Trà Vinh.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Trà Vinh tham gia phiên tòa: Nguyễn
Thị Mỹ Phượng - Kiểm sát viên.
Ngày 28 tháng 3 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Trà Vinh tiến hành
xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ số: 363/2024/TLPT-DS ngày 24 tháng
12 năm 2024 về việc “Tranh chấp quyền sử dụng đất”.
Do bản án dân sự sơ thẩm số: 182/2024/DS-ST ngày 01 tháng 11 năm 2024
của Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Trà Vinh bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 46/2025/QĐ - PT ngày
10 tháng 02 năm 2025 và Thông báo số: 83/TB TA ngày 13 tháng 3 năm 2025
về việc tiếp tục phiên tòa giữa các đương sự:
- Nguyên đơn:
1. Ông Thạch T, sinh năm 1959 (có mặt)
2. Bà Huỳnh Thị H, sinh năm 1957 (vắng mặt)
Địa chỉ: số A, đường Đ, khóm H, phường F, thành phố T, tỉnh Trà Vinh.
Người đại diện hợp pháp của ông Thạch T, Huỳnh Thị H: Ông Minh
T1, sinh năm 1961. Địa chỉ: khóm B, thị trấn C, huyện C, tỉnh TVinh, theo Văn
bản ủy quyền ngày 01/3/2023. (có mặt)
- Bị đơn:
1. Bà Thạch Thị Xuân M, sinh năm 1965 (có mặt)
2. Ông Trần Minh Đ, sinh năm 1964 (có mặt)
Cùng địa chỉ: ấp H, xã L, huyện C, tỉnh Trà Vinh.
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH TRÀ VINH
Bản án số: 104/2025/DS - PT
Ngày: 28 - 3 - 2025
V/v Tranh chấp quyền sử dụng đất
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
2
Người đại diện hợp pháp của ông Trần Minh Đ, Thạch Thị Xuân M:
Ông Phan Văn H1, sinh năm 1963. Địa chỉ: số B, ấp Q, H, huyện C, tỉnh Trà
Vinh, theo Văn bản ủy quyền ngày 18/9/2024. (có mặt)
- Người kháng cáo: Ông Trần Minh Đ, bà Thạch Thị Xuân M là bị đơn.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện, lời khai của nguyên đơn ông Thạch T, Huỳnh Thị H
và trong quá trình giải quyết vụ án ông Võ Minh T1 người đại diện hợp pháp của
nguyên đơn trình bày: Ngày 27/12/2005 ông Thạch T, bà Huỳnh Thị H, ông Thạch
Thanh S, Dương Thị Quanh N nhận thừa kế tài sản quyền sử dụng đất
của cha mẹ là ông Thạch N1, bà n Thị Bờ . Ông T, bà H nhận thừa kế thửa đất
số 291, tờ bản đồ s9, diện tích 420m
2
, còn ông S, bà Quanh N nhận thừa kế thửa
đất số 290, diện tích 2510m
2
cùng tờ bản đồ số 9, loại đất cây lâu năm, tọa lạc tại
ấp H, L, huyện C, tỉnh Trà Vinh. Năm 2011 ông Thạch Ngọc S1 cùng vợ
Thạch Thị Quanh N2 chuyển nhượng thửa đất số 290, diện tích 2510m
2
cho
Thạch Thị Xuân M ông Trần Minh Đ; tại thời điểm chuyển nhượng do giấy
tờ bị thất lạc việc chuyển nhượng đất giữa ông S1, bà Quanh N2 cho bà Xuân M,
ông Minh Đ như thế nào ông T, H không biết. Trong quá trình sử dụng đến
năm 2012 ông Đ, H xây dựng hàng rào lưới B40 lấn chiếm luôn thửa đất số 291,
tờ bản đồ số 9, diện tích 420m
2
, của ông T, H đã được Ủy ban nhân dân huyện
C cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vào năm 2005. Nay ông Thạch T,
Huỳnh Thị H yêu cầu ông Trần Minh Đ, bà Thạch Thị Xuân M tháo dỡ hàng rào
lưới B40, di dời tài sản trên đất đi nơi khác, trả lại diện tích đất 420m
2
, thuộc thửa
số 291, tờ bản đồ số 9, loại đất cây ăn quả cho ông T, bà H.
Bị đơn ông Trần Minh Đ, Thạch Thị Xuân M ông Phan Văn H1
người đại diện hợp pháp của bị đơn trong quá trình giải quyết vụ án trình bày:
Vào năm 1988 ông Thạch N1, Sơn Thị B kêu bán 03 công đất, giá 01 công
bằng 01 chỉ vàng 24k nhưng không ai mua. m 2005 ông Thạch T ông Thạch
Ngọc S1 kêu nhiều người bán 03 công đất g100.000.000 đồng/công cũng không
có ai mua. Đến tháng 12/2011 ông Thạch T, ông Thạch Ngọc S1 tiếp tục kêu bán
03 công đất nói trên giá 80.000.000 đồng/công, ông Trần Minh Đ, Thạch Thị
Xuân M mới thống nhất mua, theo lời trình bày của ông Thạch T lúc cha, mcòn
sống có chia cho ông T 0,5 công (500m
2
) chia cho ông Thạch Ngọc S1 2,5 công
(2.500m
2
). Lúc bán đất ông T, ông S1 nói đất chưa khảo sát đo đạc lại, ông Đ, bà
M nói thiếu đông vẫn mua. Việc mua bán có làm giấy tay, ông Đ, bà M
đã trả đủ số tiền đất cho ông T, ông S1 bằng 240.000.000 đồng có sự chứng kiến
của Huỳnh Thị H, Thạch Thị Mai X sau đó M đem giấy tay nhờ
ông Lâm Văn H2 lúc đó thư, kiêm Trưởng ban nhận dân ấp xác nhận. Lúc
chuyển nhượng đất, do ông T thế chấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đvay
tiền ngân hàng nên hai bên thỏa thuận khi nào đến hạn trả nợ cho Ngân hàng lấy
3
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ra thì ông T giao giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất cho ông Đ, bà M làm thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất chính
thức nhưng đến nay ông T không chịu giao giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
cho ông Đ, M để làm thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Nay ông Trần
Minh Đ, Thạch Thị Xuân M yêu cầu công nhận hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất giữa ông Thạch T, Huỳnh Thị H với ông Đ, bà M, diện tích
420m
2
, thuộc thửa số 291, tờ bản đồ số 9 loại đất cây ăn quả, tọa lạc tại ấp H, xã
L, huyện C, tỉnh Trà Vinh.
Tại bản án dân sự sơ thẩm số: 182/2024/DS-ST ngày 01 tháng 11 năm 2024
của Tòa án nhân dân huyện Châu Thành đã quyết định:
1. Chấp nhận đơn yêu cầu khởi kiện của ông Thạch T, bà Huỳnh Thị H.
Bác lời nại ra yêu cầu của ông Phan Văn H1, ông Trần Minh Đ, Thạch
Thị Xuân M.
Buộc ông Trần Minh Đ, Thạch Thị Xuân M di dời hàng rào lưới B40,
các công trình phụ cây trái hoa màu trên đất đi nơi khác trả lại cho ông
Thạch T, Huỳnh Thị H thửa đất số 291, tờ bản đồ số 9, diện ch 420m
2
, loại
đất cây ăn quả, tọa lạc tại ấp H, xã L, huyện C, tỉnh Trà Vinh.
Buộc ông Thạch T, Huỳnh Thị H hoàn trả cho ông Trần Minh Đ,
Thạch Thị Xuân M số tiền tôn tạo san lắp mặt bằng thửa đất số 291 bằng
60.261.600 đồng.
Ngoài ra, bản án thẩm còn tuyên về nghĩa vụ chịu án phí, chi phí thẩm
định, định giá và quyền kháng cáo của các đương sự theo quy định của pháp luật.
Ngày 13 tháng 11 năm 2024, bị đơn ông Trần Minh Đ, Thạch Thị Xuân
M kháng cáo bản án sơ thẩm, yêu cầu Tòa cấp phúc thẩm giải quyết theo hướng
công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối với thửa đất 291 giữa
ông Đ, bà M với ông T.
Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay, nguyên đơn không rút yêu cầu khởi kiện,
bị đơn giữa nguyên yêu cầu kháng cáo. Các đương sự không thỏa thuận được với
nhau về việc giải quyết vụ án.
Ý kiến của vị Kiểm sát viên:
Về tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký đã tiến hành đúng quy
định của Bộ luật tố tụng dân sự. Các đương sự đã thực hiện đúng quyền và nghĩa
vụ theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Về nội dung vụ án, vị Kiểm sát viên cho rằng: Mặc giấy tay mua bán
thửa đất 291 ông Đ, bà M không xuất trình được cho Tòa án nhưng xét trên thực
tế thửa đất này M, ông Đ đã sử dụng từ năm 2011 cho đến nay; quá trình sử
dụng gia đình ông Đ, M đã đcát san lấp, xây dựng các công trình trồng
cây trên đất, gia đình ông T kế bên không ngăn cản hay tranh chấp gì. Ông Lâm
4
Hiếu T2 cũng xác nhận, vào năm 2011 ông T2 có xác nhận vào giấy tay mua bán
đất giữa ông Đ, bà M với ông T, ông S1; khi nnước mrộng đường, ông T2
vận đồng gia đình ông Đ, bà M hiến đất làm đường, ông T cũng không có ý kiến
gì. Do đó, đủ cơ sở khẳng định thửa đất 291 là ông T đã chuyển nhượng cho ông
Đ, M vào năm 2011. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu kháng cáo
của ông Đ, bà M, sửa bản án sơ thẩm theo hướng không chấp nhận yêu cầu khởi
kiện của ông T, bà H.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ được xem xét tại
phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Nguyên đơn ông Thạch T cho rằng ông không có chuyển nhượng thửa
đất 291 cho vợ chồng ông Trần Minh Đ Thạch Thị Xuân M, việc ông Đ,
M sử dụng thửa đất 291 do ông Đ, bà M lấn chiếm. Còn bị đơn ông Trần Minh
Đ, bà Thạch Thị Xuân M cho rằng thửa đất 291 ông Đ, M nhận chuyển
nhượng của ông T cùng với phần đất của ông Thạch Ngọc S1 (em ông T) vào năm
2011, hai bên có làm giấy tay có sự chứng kiến của Thạch Thị Mai X; sau đó
M đem tờ giấy tay đến nhờ ông L Hiếu Thuận xác nhận, giấy tay mua bán
nay đã bị thất lạc.
[2] Theo lời khai của ông Lâm Hiếu T2 (lúc đó Thư, kiêm trưởng ban
N3) cho rằng vào năm 2011, bà Thạch Thị Xuân M đem giấy tay sang đất giữa
vợ chồng Xuân M với ông Thạch Ngọc S1, ông Thạch T với nội dung là ông
Thạch Ngọc S1, ông Thạch T chuyển nhượng cho vờ chồng M 03 công đất giá
mỗi công 80.000.000 đồng, tổng số tiền 240.000.000 đồng. Thời gian sau đó
thì ông có vận đồng gia đình bà M hiến đất làm lộ trong đó có phần đất gia đình
M nhận chuyển nhượng của ông Thạch Tông Thạch Ngọc S1. Còn gia đình
ông Thạch T về cất ngần phần đất chuyển nhượng cho vchồng M khoảng
năm 2009 cho đến nay (BL57, 346 - 347). Tại xác nhận của Công an L ngày
18/7/2023 xác nhận: Ông Thạch T cùng gia đình ngụ khóm H, phường F, thành
phố T tạm trú theo đất tại ấp H từ năm 2009 đến nay (BL 54). Theo lời khai
của Thạch Thị Mai X cho rằng, khi nhận chuyển nhượng thửa 290, thửa 291
của ông T, ông S1 thì ông Đ, bà M có mượn tiền của bà Thạch Thị Mai X số tiền
100.000.000 đồng, khi giao tiền cho ông T, ông S1 thì Mai X đi ng
chính bà giao 100.000.000 đồng cho ông T, ông S1, số tiền 140.000.000 đồng thì
bà M giao cho ông T, ông S1 (BL 59).
[3] Về quá trình sử dụng đất: Trên thực tế phần đất đang tranh chấp thửa
291 và thửa đất 290 (bà M, ông Đ nhận chuyển nhượng của ông Thạch Ngọc S1)
thì gia đình bà M sử dụng từ năm 2011 cho đến nay. Trước khi gia đình bà M sử
dụng thiện trạng hai thửa đất 290, thửa 291 đất a, trũng thấp, việc này được
5
người dân địa phương xác nhận (BL167 - 174). Trong quá trình sử dụng gia đình
M đổ cát sang lấp; xây hàng rào (trụ tông cốt thép, phía dưới xây tường,
phía trên gắn lưới B40); xây dựng các công trình như như học chứa phân bò; sân
láng xi măng, cống thoát nước…, trồng cây lây năm như xoài (trên 11 năm tuổi
05 cây), dừa… (BL 78 81). Theo lời khai của ông Trang Văn D xác nhận vào
khoảng năm 2012 2013 thì gia đình M kêu ông S2 lắp đất ruộng, đất ao
phần đất tọa lạc ấp H, xã L, ông đổ khoảng 300 xe, mỗi xe 5,5m
3
, trong quá trình
ông đổ cát san lấp không có ai ra ngăn cản hay tranh chấp phần đất gia đình
M nhận chuyển nhượng của ông Thạch T, ông Thạch Ngọc S1 (BL60).
[4] Xét về vtrí thửa đất 291: hướng Tây thửa đất 291 tiếp giáp với
thửa đất 295, thửa 296 của gia đình bà M, ông Đ; ở hướng Đông của thửa 291 là
thửa đất 290 của ông Thạch Ngọc S1 (thửa 290 gia đình M nhận chuyển
nhượng của ông S1). Nvậy, thửa đất 295, thửa 296 của gia đình M tiếp giáp
với thửa đất 291 của ông T rồi đến thửa đất 290 của ông S1. Điều này cho thấy,
khi bà M, ông Đ nhận chuyển nhượng thửa 290 của ông S1 thì phải nhận chuyển
nhượng thửa đất 291 của ông T mới sdụng đất liền canh, liền cư. Trên hiện
trạng, ông Đ, M đã xây dựng hàng rào chạy dài từ phần đất thửa 296 cho đến
thửa đất 290 trong đó có thửa đất 291 nằm giữa.
[5] Trong quá trình giải quyết vụ án tại phiên tòa thẩm phúc thẩm,
ông T cho rằng do ông không ngăn cản việc gia đình M, ông Đ đổ cát san
lấp, xây hàng rào, các công trình trồng cây trên thửa đất 291 của ông do ông
thất lạc giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nên ông không ngăn cản. Hội đồng
xét xử xét thấy lời nại ra này của ông T là không hợp lý nếu như thửa đất 291
ông T không chuyển nhượng cho ông Đ, M thì ông T thất lạc giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất thì ông T vẫn quyền ngăn cản việc ông Đ,
M sử dụng phần đất này của ông.
[6] Từ những chứng cứ và phân tích trên [1], 2], [3], [4], [5], Hội đồng xét
xử xét thấy: Mặc giấy tay nhận chuyển nhượng thửa đất 291, ông Đ, M
không xuất trình cho Tòa án được nhưng căn cứ vào quá trình sử dụng, cải tạo đất
của gia đình M, ông Đ; lời khai của người làm chứng ông Lâm Hiếu T2,
Thạch Thị Mai X, của người dân địa phương; việc gia đình ông T ở gần phần đất
tranh chấp nhưng không phản đối, ngăn cản việc gia đình M, ông Đ sử dụng
đất như đổ cát san lấp, xây hàng rào, các công trình trồng cây ..., đã đủ sở
khẳng định thửa đất 291 ông T đã chuyển nhượng cho M, ông Đ vào m
2011.
[7] Xét về hợp đồng chuyển nhượng phần đất này giữa bà M, ông Đ với
ông T: Như nhận định phần trên, đã đủ sở khẳng định ông T đã chuyển
nhượng thửa đất 291 cho ông Đ, M. Mặc dù hợp đồng chuyển nhượng quyền
sử dụng đất giữa M, ông Đ với ông T vi phạm vhình thức nhưng ông Đ,
6
M đã giao đủ tiền cho ông T ông T đã giao đất cho M, ông Đ sử dụng.
Do đó, căn cứ vào Điều 129 của Bộ luật dân snăm 2015 thì hợp đồng chuyển
nhượng quyền sdụng đất giữa M, ông Đ với ông T đối với thửa đất 291
hiệu lực pháp luật. Theo khoản 1, khoản 2 Điều 129 của Bộ luật dân sự năm 2015
quy định: “1. Giao dịch dân sự đã được xác lập theo quy định phải bằng văn bản
nhưng văn bản không đúng quy định của luật một bên hoặc c bên đã thực
hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch thì theo yêu cầu của một bên
hoặc các bên, Tòa án ra quyết định công nhận hiệu lực của giao dịch đó. 2. Giao
dịch dân sự đã được xác lập bằng văn bản nhưng vi phạm quy định bắt buộc về
công chứng, chứng thực một bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất hai phần
ba nghĩa vụ trong giao dịch thì theo yêu cầu của một bên hoặc các bên, Tòa án
ra quyết định ng nhận hiệu lực của giao dịch đó. Trong trường hợp này, các
bên không phải thực hiện việc công chứng, chứng thực”.
[8] Xét ý kiến của vị Kiểm sát viên, như phân tích phần trên, Hội đồng
xét xử xét thấy có cơ sở chấp nhận.
[9] Về chi phí thẩm định, định giá: Số tiền 5.442.598 đồng. Do ông T,
H nộp tạm ứng số tiền 10.000.000 đồng, ông T, H đã nhận lại stiền 6.557.402
đồng tại Tòa án nhân dân huyện Châu Thành. Ông Đ, bà M nộp tạm ứng số tiền
2.000.000 đồng nên buôc ông T, bà H nộp lại số tiền 2.000.000 đồng để trả lại
cho ông Đ, bà M.
[10] Về án phí dân sự thẩm: Miễn án toàn bộ phí dân sự thẩm cho ông
Thạch T, bà Huỳnh Thị H.
Thạch Thị Xuân M, ông Trần Minh Đ không phải chịu án phí dân sự
thẩm.
[11] Về án phí dân sự phúc thẩm: Thạch Thị Xuân M, ông Trần Minh
Đ không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào khoản 2 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
Sửa bản án dân sự thẩm số: 182/2024/DS - ST ngày 01 tháng 11 năm
2024 của Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Trà Vinh.
Căn cứ các Điều 129, 500 Bộ luật Dân sự năm 2015;
Căn cứ các Điều 100, 166, 167, 179 của Luật Đất đai năm 2013;
Căn cứ Nghị quyết: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản s
dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
7
1. Không chấp nhận yêu cầy khởi kiện của nguyên đơn ông Thạch T,
Huỳnh Thị H yêu cầu bị đơn ông Trần Minh Đ, Thạch Thị Xuân M di dời tài
sản trên đất trả lại diện tích đất 420m
2
, loại đất cây ăn quả, thuộc thửa số 291, tờ
bản đồ số 9, tọa lạc ấp H, xã L, huyện C, tỉnh Trà Vinh cho ông T, bà H.
Công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Trần
Minh Đ, Thạch Thị Xuân M với ông Thạch T đối với thửa số 291, diện tích đất
420m
2
[thực đo diện tích 521,2m
2
(phần ký hiệu A, B, F)], loại đất cây ăn quả, tờ
bản đồ số 9, tọa lạc ấp H, L, huyện C, tỉnh Trà Vinh hiệu lực pháp luật. Phần
diện tích đất 521,2m
2
(phần ký hiệu A, B, F) có vị trí, tứ cận theo Sơ đồ khu đất
kèm theo Công văn số: 237/CNHCT ngày 24/02/2025 của Văn phòng Đ1 Chi
nhánh huyện C.
Ông Trần Minh Đ, Thạch Thị Xuân M được quyền đến quan Nhà
nước có thẩm quyền để làm thủ tục cấp quyền sử dụng đất đối với phần diện tích
đất 521,2m
2
(phần hiệu A, B, F), loại đất cây ăn quả, thuộc thửa 291, tờ bản
đồ số 9, tọa lạc ấp H, L, huyện C, tỉnh Trà Vinh trên theo quyết định của Bản
án này sau khi hoàn thành nghĩa vụ tài chính (nếu có).
2. Về chi phí thẩm định, định giá: Buộc nguyên đơn ông Thạch T, Huỳnh
Thị H phải chịu số tiền 5.442.598 đồng. Do ông T, H nộp tạm ứng số tiền
3.442.598 đồng; ông Đ, bà M nộp tạm ứng số tiền 2.000.000 đồng nên buộc ông
T, bà H nộp lại số tiền 2.000.000 đồng để trả lại cho ông Đ, bà M.
3. Về án phí dân sự sơ thẩm: Miễn án toàn bộ phí dân sự sơ thẩm cho ông
Thạch T, bà Huỳnh Thị H.
Thạch Thị Xuân M, ông Trần Minh Đ không phải chịu án phí dân sự
thẩm.
4. Về án phí dân sự phúc thẩm: Ông Trần Minh Đ, Thạch Thị Xuân M
không phải chịu. Hoàn trả cho M 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí phúc thẩm
mà bà M đã nộp theo biên lai số 0009604 ngày 13/11/2024 của Chi cục Thi hành
án dân sự huyện Châu Thành, tỉnh Trà Vinh.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành án theo quy định tại Điều 2
Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành
án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện
thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, và 9
Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại
Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Trà Vinh;
- TAND huyện Châu Thành;
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
8
- Chi cục THADS H. Châu Thành;
- Các đương sự;
- Lưu: Hồ sơ vụ án, TDS.
Đặng Văn Hùng
Tải về
Bản án số 104/2025/DS-PT Bản án số 104/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 104/2025/DS-PT Bản án số 104/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất