Bản án số 41/2024/DS-ST ngày 07/08/2024 của TAND huyện Phú Xuyên, TP. Hà Nội về tranh chấp giữa cá nhân với cá nhân về quốc tịch việt nam

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 41/2024/DS-ST

Tên Bản án: Bản án số 41/2024/DS-ST ngày 07/08/2024 của TAND huyện Phú Xuyên, TP. Hà Nội về tranh chấp giữa cá nhân với cá nhân về quốc tịch việt nam
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp giữa cá nhân với cá nhân về quốc tịch Việt Nam
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND huyện Phú Xuyên (TAND TP. Hà Nội)
Số hiệu: 41/2024/DS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 07/08/2024
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Phạm Văn Th tranh chấp HĐ chuyền nhượng QSD đất nguyễn Quang th
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
T ÁN NHÂN DÂN CỘNG HOÀ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
HUYỆN P XUYÊN Độc lp - T do - Hnh phúc
THÀNH PHỐ NỘI
Bn án s: 41/2024/DSST
Ngày 07/8/2024
V/v:“Tranh chấp hợp đồng
chuyển nhượng QSD đất
NHÂN DANH
NƢỚC CỘNG HOÀ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
T ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÚ XUYÊN
Vi thành phn hi đồng xét x sơ thm gm:
Thm phán - Ch to phiên tòa: Ông Nguyn Văn Quang
Hi thm nhân dân: Ông Vũ Minh Đoanbà Bùi Thị Vân Ngọc
Ghi biên bản phiên toà: Bà Nguyễn Thị Dung Thư ký Tòa án.
Đại din Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Xuyên tham gia phiên tòa: Ông
Hoàng Đức Thịnh - Kiểm sát viên.
M phiên tòa ngày 07 tháng 8 năm 2024 ti tr s Tòa án nhân dân huyn
Phú Xuyên, Thành phố Nội t x công khai v án th s: 59/2023/TLST -
DS ngµy 28/11/2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 28/2024/QĐXXST-
DS ngày 10 tháng 7 năm 2024,vÒ viÖc kiÖn Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng
QSD đất”, giữa:
Nguyên đơn: Anh Phạm Văn Th; Sinh năm 1970
HKTT tại: Thôn Phù Bật, xã Hồng Minh , huyện Phú Xuyên, TP Hà Nội.
Người được anh Th ủy quyền, ông Chúc Kim D, sinh năm 1988
HKTT: Ấp 5, xã Tân Hưng, huyện Bàu Bàng, tỉnh Bình Dương.
Bị đơn: Anh Nguyễn Quang Th; Sinh m 1962 chị Đỗ Thị Ng, Sinh
năm 1967
Đều địa chỉ thường trú tại: Thôn Phù Bật, Hồng Minh, huyện Phú
Xuyên, TP Hà Nội.
Chị Ngần ủy quyền cho anh Th.
Những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
1 - Bà Nguyễn Thị B, sinh năm 1942.
2 - Chị Đặng Thị Kh, sinh năm 1975.
3 - Chị Lương Thị Ng, sinh năm 1995.
4. Anh Phạm Tuấn A, sinh năm 1994
4 - Anh Phạm Thành T, sinh năm 2001.
5 - Chị Nguyễn Thị C, sinh năm 2002.
6 - Cháu Phạm Tùng A - Sinh ngày 27/11/2018; cháu Phạm Nam H Sinh
ngày 18/8/2020 và cháu Phạm Lương Khánh A - Sinh ngày 03/3/2023. Anh T, chị
Cúc, anh Tuấn A, chị Ng người đại diện theo pháp luật của các cháu Anh, cháu
H, cháu A.
2
Bà Bé, chị Kh, chị Ng, anh T, chị Cúc ủy quyền cho anh Th và anh T A.
HKTT: Thôn Phù Bật, xã Hồng Minh , huyện Phú Xuyên, TP Hà Nội.
7 - Anh Nguyễn Quang Tr, sinh năm 1988
Anh Trường ủy quyền cho anh Thh
8 - Chị Phạm Thị Th sinh năm 1966.
HKTT: Thôn Phù Bật, xã Hồng Minh, huyện Phú Xuyên, TP Hà Nội.
Chị Thêu ủy quyền cho chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1975
HKTT: Ngõ 14, phố Pháo Đài Láng, phường Láng Thượng, quận Đống Đa,
TP Hà Nội. Có mặt
- Ủy ban nhân dân xã Hồng Minh, huyện Phú Xuyên, TP Hà Nội.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Đặng Quang D - Chủ tịch Ủy ban nhân
n xã.
Người đại diện theo y quyền: Ông Đình Th - Công chức pháp
ông Lê Việt C - Công chức Địa chính.
Địa chỉ: Xã Hồng Minh, huyện Phú Xuyên, TP Hà Nội.
Anh Th, anh D, chKhánh, anh Tuấn A, anh T, chị H, ông Th, ông C, có
mặt. Anh Thg vắng mặt.
NHẬN THẤY.
Theo đơn khởi kiện nhng li khai ti Tòa, nguyên đơn ông Phạm Văn
Thắng trình bày:
Năm 1996, giữa anh Th anh Nguyễn Quang Th thực hiện hợp đồng
chuyển nhượng QSD đất đối với 01 phần của thửa đất số 196, diện tích 144 m
2
,
thôn Phù Bật, xã Hồng Minh, thuộc quyền sử dụng của anh Th. Theo đó, phía anh
Th chuyển nhượng cho anh Th 94 m
2
/144 m
2
, với cạnh chiều ngang giáp đường
thôn 09 m và chiều dài hết ranh giới của thửa đất, cùng tài sản trên đất 01
ngôi nhà cấp 04 của anh Th xây dựng trước đó. Tổng giá trị cả đất nhà
19.000.000 đồng. Ngày 20/11/1996, các bên đã lập n bản Giấy bàn giao nhà
đất”, đồng thời phía anh Th cũng giao toàn bộ 94 m
2
đất ở trên cho anh Thắng sử
dụng từ năm 1996 đến nay. Tại phần diện tích được chuyển nhượng, anh Th cũng
đã xây dựng các công trình kiến trúc khác như: Sửa chữa, đổ mái bằng tầng 2 ngôi
nhà cũ, xây mới nngang, nhà ăn, bếp, sân vv... trong suốt thời gian qua chỉ
đến năm 2020 thì mới phát sinh tranh chấp. Nay anh Th đề nghị Tòa án Công
nhận Hợp đồng chuyển nhượng QSD đất hiệu lực Công nhận anh Th được
quyền sử dụng hợp pháp đối với diện tích 94 m
2
của thửa đất số 196 nói trên.
Phía bị đơn, anh Nguyễn Quang Th, đồng thời là người được chị Nguyễn Thị
Ng đồng bị đơn ủy quyền trình bày:
Anh Th xác nhận, anh là chủ sử dụng thửa đất số 196, diện tích 144 m
2
tờ
bản đồ số 03, thôn Phù Bật, Hồng Minh, huyện Phú Xuyên, được Chủ tịch
UBND huyện Phú Xuyên cấp giấy chứng nhận QSD đất vào ngày 20/6/1991, có
số sê ri 657113 mang tên anh.
3
Xác nhận năm 1995, các bên thực hiện việc chuyển chuyển nhượng 01
phần QSD thửa đất số 196 nói trên, nhưng không phải 94 m
2
mà ch36 m
2
mà thôi (chiều ngang 09 m x chiều sâu 04 m), cùng 01 ngôi nhà cấp bốn lợp ngói,
diện tích 28 m
2
, với giá 19.000.000 đồng, trong đó anh Th trả cho anh12 triệu
đồng tiền mặt 01 thửa đất khác, diện tích 180 m
2
khu Vôi, ng thôn
trị giá 7.000.000 đồng. Anh Th đã sdụng diện tích 36 m
2
trên từ năm 1996.
Phần 58 m
2
liền kề phía trong phần đất chuyển nhượng thì anh cho anh Thành
mượn m máy xay xát. Đến năm 2014, c bên xảy ra tranh chấp do anh Thắng
xây dựng các công trình lấn chiếm sang phần đất ngoài diện tích chuyển nhượng
(36 m
2
). Do đó, anh Thành chỉ đồng ý giao trả anh Thắng diện tích 36 m
2
đã
chuyển nhượng, phần diện ch còn lại 58 m
2
vẫn thuộc quyền sử dụng của anh
Thành. Đối với các tài sản trên đất anh Thắng đã xây dựng trên diện tích 58
m
2
cho mượn, anh yêu cầu anh Thắng phải tháo dỡ để trả lại mặt bằng cho anh.
Những người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan,người đại diện theo pháp
luật, đứng về phía nguyên đơn:Nguyễn Thị B (Mẹ đẻ anh Th), Chị Đặng Th
Kh (vợ anh Th), chị Lương Thị Ng, anh Phạm Tuấn A, anh Phạm Thành T, chị
Nguyễn Thị C, anh Phạm Tùng A, thống nhất nội dung khởi kiện của nguyên đơn
và ủy quyền cho anh Th, anh Tuấn A tham gia tố tụng.
Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan khác đứng về phía bị đơn, anh
Nguyễn Quang Trường, chị Phạm Thị Thêu, thống nhất yêu cầu của anh Thành ,
và ủy quyền cho anh và bà Nguyễn Thị Huệ tham gia tố tụng.
Người đại diện theo ủy quyền của UBND Hồng Minh, các ông Đình
Th và ông Lê Việt C đề nghị: Vtranh chấp QSD đất giữa các bên đương sự, đ
nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật. Riêng về phần đất công mà cả
phía nguyên đơn, bị đơn lấn chiếm sử dụng với tổng diện ch 488 m
2
, đây
quan hệ pháp luật khác UBND xã không yêu cầu Tòa xét trong vụ án này.
Tại phiên tòa:
Các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án
giữ nguyên quan điểm của mình.
Phía nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, đề nghị Toà án công nhận
Hợp đồng chuyển nhượng QSD đất, giữa các n vào ngày 20/11/1996 là hiệu
lực pháp luật công nhận QSD đất của ông Phạm Văn Thắng 94 m
2
, của
thửa đất số 196, tờ bản đồ số 03, thôn Phù Bật Hồng Minh ông Thành
người đứng tên chủ sử dụng đất.
Phía bị đơn đề nghị bác yêu cầu của nguyên đơn, chỉ công nhận 01 phần
của Hợp đồng chuyển nhượng QSD đất là 36 m
2
của thửa đất nêu trên, phần diện
tích còn lại 58 m
2
là thuộc QSD đất của bị đơn.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyn Phú Xuyên tham gia phiên toà phát biu:
Về tố tụng: Thm phán, Thư ký đã tuân th đúng, đủ các quy định v th
tc t tng ca Pháp luật Tố tụng dân sự trong quá trình gii quyết v án. Nguyên
đơn, bị đơn những người tham gia tố tụng khác đã chp nh đầy đủ nghĩa v
4
t tng ca nh. Đề ngh Hội đồng xét xử tiếp tc xét x v án theo qui định ca
pháp lut.
Về nội dung: Đề nghị Tòa chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Phạm Văn
Thắng. Công nhận hợp đồng chuyển nhượng QSD đất giữa anh Phạm Văn Thắng
với anh Nguyễn Quang Th ch Đỗ Thị Ng có hiệu lực pháp luật. Xác định
Quyền sử dụng đất ranh giới phân chia quyền sử dụng đất giữa phần diện tích
94 m
2
thuộc quyền sử dụng của anh Phạm Văn Th với phần còn lại 50 m
2
, thuộc
quyền sử dụng của anh Nguyễn Quang Th, tại thửa đất 196 nêu trên. Kiến nghị
UBND Hồng minh các cơ quan liên quan xử đối với việc anh Phạm Văn
Th, anh Nguyễn Quang Th có hành vi lấn chiếm đất ng giáp thửa đất 196 nêu
trên.
Ngoài ra còn đề nghịa tun phần án phí n sự thẩm theo qui định của
pháp luật.
XÉT THẤY
Sau khi nghiên cu các tài liu trong h sơ v án được thm tra ti
phiên toà. Trên cơ s li trình bày ca các n đương s quan đim ca Đại
diện Viện kiểm sát. Hi đồng xét x nhn định:
[1]. V t tng:
[1.1]. Về thẩm quyền: Đây tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền
sử dụng đất, nên theo quy định của Điều 26, Điều 35 BLTTDS 2015, thì thẩm
quyền giải quyết của Tòa án.
Về sự tham gia tố tụng của các đương sự: Quá trình giải quyết vụ kiện, các
đương sự trong vụ án đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tham gia tố tụng của
mình theo quy định của pháp luật, n Tòa án tiến hành giải quyết xét xử vụ án
theo thủ tục chung.
[1.2].Về quan hệ pháp luật:
Đây vụ án tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Quyền sdụng đất, thửa đất có tranh chấp đã được cấp GCN QSD đất theo quy
định của pháp luật, các bên không có yêu cầu về tính hợp pháp của GCN QSD
đất này, theo điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án.
[1.3].Về thời hiệu: Trong vụ án này, ngoài việc phía nguyên đơn yêu cầu
được công nhận Hợp đồng chuyển nhượng QSD đất các bên thực hiện vào
ngày 20/11/1996 thì phía các bên đương sự còn tranh chấp QSD đối với 58 m
2
/94
m
2
, do đó theo quy định của khoản 3 điều 155 BLDS điều 184 BLTTDS, thì
trong trường hợp này không áp dụng thời hiệu, việc Tòa án thgiải quyết là
căn cứ.
[2].Về nội dung việc kiện:
5
Xét yêu cầu khởi kiện của của anh Phạm Văn Th đề nghị công nhận hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối với diện tích 94 m
2
. Hội đồng xét
xử nhận thấy:
[2.1]. Về nguồn gốc và diện tích đất 94
m
2
các bên tranh chấp thì:
Diện tích đất 94
m
2
các bên tranh chấp là một phần của diện tích 144 m
2
đất của Thửa đất s196 -1, tờ bản đồ s3, thôn Phù Bật, Hồng Minh, huyện
Phú Xuyên, thành phố Nội, thuộc quyền sử dụng của anh Nguyễn Quang
Thành, được nnước giao từ ngày 20/01/1991, theo Giấy chứng nhận QSĐ đất
s A 657113, ngày 20/6/1991 của Chtch UBND huyện Phú Xuyên, tỉnh
Sơn Bình (). n thời điểm năm 1996, các bên quyền thực hiện quan hệ
chuyển nhượng một phần tài sản hợp pháp của họ. thời điểm hiện tại, theo
UBND xã Hồng Minh là cơ quan quản lý đất đai tại địa phương, thì thửa đất tranh
chấp nêu trên đất thổ cư, không nằm trong diện quy hoạch c công trình công
ích, an ninh quốc phòng của nhà nước hay của địa phương, do đó, việc các bên
tranh chấp, được Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.
[2.2].Về quan hệ chuyển nhượng QSD đất có diện tích 94 m
2
, thì:
Quá trình giải quyết vụ án, các đương sự, đều xác nhận, có việc vợ chồng
anh Th, chị Ng (ChNg anh Th, đã ly hôn năm 2014) chuyển nhượng cho anh
Th một phần thửa đất số 196, tờ bản đồ số 03, thôn Phù Bật, Hồng Minh, thời
điểm chuyển nhượng năm 1996 hợp đồng đã thực hiện xong trên thực tế,
được thể hiện bằng 02 việc:
Thứ nhất: Đó việc phía anh Th bàn giao nhà, đất cho anh Th anh Th
đã trả đủ tiền theo giá trị hợp đồng 19.000.000 đồng vào ngày 20/11/1996, mặc
theo anh Thành số tiền 19.000.000 đồng này, trên thực tế được anh Thắng trả
cho anh Th bằng tiền mặt là 12.000.000 đồng và cộng thêm 01 mảnh đất khác của
anh Th diện tích đất 180 m
2
khu vực Ao Vôi, Hồng Minh, lúc đó tính trị
giá bằng 7.000.000 đồng. Song, các bên thống nhất một điểm là không còn nợ
nần gì về tiền nong nữa.
Thứ hai: Các bên đã bàn giao cho nhau tài sản chuyển nhượng bao gồm
tiền, nhà, đất và Giấy bàn giao nhà đất chính là hành vi thể hiện việc này, theo
đó, sau khi bàn giao nhà đất, thì anh Th đã sử dụng toàn bộ phần đất ngôi n
ngói + tôngđược chuyển nhượng từ anh Thành chiều ngang 09 m bám
theo mặt đường xóm, phía anh Th cũng chỉ còn sdụng phần đất còn lại chiều
ngang đo theo hiện trạng và GCN QSD đất là 4,15 m.
Thế nhưng tranh chấp phát sinh từ việc tại biên bản bàn giao nđất mà
các bên thiết lập, (do ông Tùng người cùng thôn viết hộ) nội dung không đầy
đủ, ràng, cụ thể, tại văn bản này ghi: Chiều ngang bám theo đường tông
09m, kẻ vuông theo ngõ (viết sai chính tả gõ) đã lấy được mốc đằng giáp sông,
đóng mốc về phía đông”. Về chiều ngang 09 m, các bên không có tranh chấp gì và
trên thực địa, diện tích 09 m này rộng đúng bằng chiều ngang ngôi nhà anh Th
chuyển nhượng cho anh Thhiện tại gia đình anh Th vẫn đang sử dụng.
6
Tranh cãi với chiều dài của thửa đất, khi phía anh Th cho rằng, chiều dài
của thửa đất tại các cạnh phía bắc phía nam thì phải tính hết ranh giới của
thửa đất (chạy từ đông sang tây), đối chiếu trên bản đồ thực địa, t02 cạnh
này lần lượt kích thước 10,72 m 10,15 m và tổng diện tích đúng bằng 94
m
2
. Trong khi phía anh Th chỉ đồng ý giao trả anh Thắng diện tích 36 m
2
, theo đó
chiều i được xác định tcả hai cạnh (Bắc Nam) đều 04 m (hình chữ nhật
09 m x 04m), phần còn lại phía trong 58 m
2
vẫn thuộc quyền sử dụng của anh
Thành.
HĐXX nhận thấy: Đúng là trong giấy bàn giao nhà đất không ghi chiều
dài các bên chuyển nhượng cho nhau bao nhiêu m, mà chỉ ghi kẻ vuông theo ngõ
đã lấy được mốc về đằng giáp sông, đóng mốc về phía đằng anh Nguyễn Quang
Công” (anh Côngem ruột anh Thành và gia đình anh Công ở nhờ trên phần còn
lại của thửa 196 của anh Thành), xét trong đoạn văn nêu trên, thì phải được hiểu
thời điểm đó, các bên đã lấy đường ranh giới chiều ngang 09 m (giáp
đường bê tông xóm) làm chuẩn, từ đó, kẻ đường thẳng vuông góc từ đây (từ đông
sang tây) được kéo xuống hết ranh giới của thửa đất 196, là phần giáp ranh với đất
hành lang sôngtức kênh Vân Đình nằm phía tây của thửa đất, nên trong văn
bản này mới ghi kẻ vuông theo ngõ (viết sai chính tả từ ngõ gõ) đã lấy được
mốc đằng giáp sông, đóng mốc về phía đông anh Nguyễn Quang Công”. Theo
anh Thắng trình bày khi đó, các bên đóng cọc mốc bằng tre các góc, song
quá trình sdụng đất bồi lấp nên không còn nhìn thấy trên thực địa, tuy nhiên,
cần phải hiểu cụm từ “lấy mốc đằng giáp sông” dù không ghi kích thước, thì được
hiểu theo nghĩa giáp sônggiáp ranh giữa đất của thửa 196 với đất hành
lang sông (kênh Vân Đình), còn nếu như anh Thành chỉ chuyển nhượng 04 m
chiều dài thôi, thì văn bản bàn giao nhà đất phải thể hiện nội dung là phần đất của
anh Thắng (mới được chuyển nhượng) phải giáp với phần đất còn lại của anh
Thành mới đúng.
Điều này cũng được thể hiện trong việc thực hiện nghĩa vụ đóng thuế sử
dụng đất, cả chính quyền địa phương các n xác nhận kể từ khi thực hiện
xong việc chuyển nhượng, phía anh Thắng là người nộp thuế sử dụng đối với diện
tích 94 m
2
của thửa 196 không có bên nào băn khoăn, thắc mắc gì về việc thực
hiện nghĩa vụ nộp thuế s dụng đất, cho việc nộp thuế sử dụng đất không
đương nhiên nghĩa QSD đất của người nộp thuế sẽ thuộc về họ theo diện
tích đất và số tiền thuế phải nộp, song nó cũng phản ánh phần nào về sự thừa nhận
của các bên đối với hợp đồng đã thực hiện.
Thứ ba, về việc sử dụng đất trên thực tế: Quá trình giải quyết vụ án, sau khi
Tòa án thực hiện thủ tục xem xét, thẩm định, đo đạc trên thực địa, thì kết quả đo
đạc trên thực địa cũng trùng khớp với yêu cầu của phía nguyên đơn, khi lấy
đường ranh giới phía đông giáp với đường xóm chiều ngang 09 m làm chuẩn
và kéo thẳng 02 đường ranh giới ở các phía bắc và nam đến hết chiều dài của thửa
đất, tương ứng với kích thước của nó sẽ là 10,72 m và 10,15 m, phần đt này sẽ có
diện tích là 9,0 m - 8,98 m - 10,72 m - 10,15 m = 94 m
2
.
Hơn nữa, việc các bên xây dựng các ng trình kiến trúc trên đất dọc theo
phần đường ranh giới phân định giữa 02 phần đất đã chuyển nhượng cho nhau,
cũng thể hiện rõ điều này, khi mà, tại phần đất 94 m
2
, thì ở phía giáp ranh bắc nhà
7
anh Thắng cũng đồng thời là phía nam nanh Th, thì công trình xây dựng trên
đất của nhà anh Thắng nhà (cũ được chuyển nhượng theo đất), nhà ngang
(phòng ngủ, bếp, nhà tắm, nhà vệ sinh, khu xay sát...), được xây thẳng và gần như
trùng khớp với đường gianh giới giữa hai bên. Nhất khi phía anh Thành thuyết
minh rằng chỉ bán cho nhà anh Thắng ngôi nhà có chiều sâu 04 m, nhưng trên
thực tế, chiều dọc của ngôi nhà 03 gian trước đây, anh Thành xây từ năm
1991, được nhượng bán theo đất cho anh Thắng được anh Thắng cơi nới đổ
mái bằng xây lên tầng 2, trên nền móng, tường của tầng 1 (cũ), không phải
kích thước là 04 m mà trên thực tế, nó có kích thước là 5,44 m.
Tiếp theo đó, tại phần ranh giới còn lại, năm 2020, anh Thắng xây thêm nhà
ngang làm phòng ngủ, bếp, nhà tắm, nhà vệ sinh, theo anh Thành khi anh Thắng
xây tường nhà ngang chồng lên tường bao cũ anh Thắng đã xây từ những năm
2011 2014, trong khoảng thời gian giữa 02 bên chưa có tranh chấp gì, kể cả
trong trường hợp như anh Thành nói, các bên tranh chấp từ năm 2014 phải
nhờ chính quyền can thiệp, thế nhưng, sau đó thì anh Thành vẫn để cho anh
Thắng xây dựng các ng trình trên đất, như một sự thừa nhận QSD của anh
Thắng với diện tích 94 m
2
này mà đáng lẽ ra, anh phải quyết liệt ngăn chặn việc
xây dựng của anh Thắng theo các thủ tục được pháp luật quy định.
Tương tự, bên phần đất 50 m
2
, còn lại, phía anh Thành cũng xây dựng các
công trình kiến trúc dọc theo đường gianh giới trên với việc m sân, dựng lán
tôn, xây dựng khu phụ trên phần đất còn lại mà không có tranh cãi gì với phía bên
kia.
Nhìn trên đồ hiện trạng, các công trình kiến trúc của hai bên, xây dọc
trên phần đường ranh giới trên thực địa, kéo dài gần như một đường thẳng ra
tới tận hành lang kênh Vân Đình, chiều i lên tới 28,76 m. Đây nmt sự
thừa nhận mang tính mặc định ràng nữa trên thực tế của các đương sự đối với
diện tích 94 m
2
mà anh Thành đã chuyển nhượng cho anh Thắng.
Thứ : Tại hthể hiện, ngày 13/6/2014, tại hồ kỹ thuật thửa đất”,
do Công ty cổ phần đo đạc bản đồ và thiết kế xây dựng CHK Việt Nam thực hiện,
tại cột các chủ sử dụng tiếp giáp, chính anh Nguyễn Quang Th là người đã xác
nhận, vừa với cách hộ liền kphía bắc của thửa 196 (Các phía nam, đông,
tây đều giáp đất công), vừa với cách là tham gia hợp đồng chuyển nhượng, tại
đồ đo đạc này, thể hiện phần đất anh Thành chuyển nhượng cho anh Thắng
là 94 m
2
, với các mốc được đánh số 1,2,3,4 và với các cạnh, phía bắc dài 10,72 m,
phía nam, dài 10,15 m, phía đông rộng 09 m, phía tây, rộng 8,98 m.
Thứ 5: Về lý do anh Th cho rằng, anh chỉ chuyển nhượng 36 m
2
, còn 58 m
2
,
anh Th cho anh Th mượn để làm xay xát, phía anh Th phủ nhận việc này, trong
khi phía anh Th không xuất trình được bất cứ chứng cứ chứng minh nào thể hiện
việc anh Thh cho anh Th mượn 58 m
2
ngoài do, lúc đó các n hoàn toàn tin
tưởng nhau nên chỉ thỏa thuận miệng. Hơn nữa, trong suốt một thời gian dài, anh
Th lại đcho anh Th xây dựng một loạt các công trình kiến trúc kiên cố trên đất,
như n ngang, bếp, nhà tắm nhà vệ sinh, lán sân vv....mà với cách chủ sử
dụng thực s anh Th không tranh chấp hoặc tranh chấp, nhưng sau đó lại
cho qua như đã nói ở trên, cho nên Tòa án không chấp nhận lý lẽ này của anh Th.
8
[2.3]. Về thời điểm có hiệu lực của hợp đồng:
Về thời điểm giao dịch của hợp đồng chuyển nhượng QSD đất giữa các bên
là ngày 20/11/1996, là ngày các bên thiết lập “Giấy bàn giao nhà đất”, còn phía bị
đơn cho rằng việc chuyển nhượng xảy ra trước thời điểm này, nhưng không nhớ
chính xác thời điểm các bên thỏa thuận, nên văn bản bàn giao nhà đất, về mặt
nội dung đúng chỉ ghi nhận việc bàn giao i sản, tiền nong, đã thỏa thuận
như các bên thừa nhận, tại thời điểm đó, các bên đã thanh toán tiền và bàn giao tài
sản xong, nên Tòa vẫn xác định đây là thời điểm hợp đồng hiệu lực và yêu cầu
các bên thực hiện.
[2.4]. Về hình thức của hợp đồng:
Thực tế, thời điểm chuyển nhượng QSD năm 1996, các bên không làm
hợp đồng chuyển nhượng quyền sdụng đất theo đúng quy định, chlập biên
bản tên Giấy n giao nhà đấtcoi như hợp đồng chuyển nhượng lấy
văn bản này làm căn cứ để thực hiện các thủ tục pháp về sau, như tại trang 2
của biên bản anh Th có ghi “Ngày giao nhà kể từ hôm giao tiền là ngày 20/11 đến
ngày 10/1/1996 hai bên phải thực hiện thủ tục”. Theo phía anh Thành giải,
khi đó các bên thỏa thuận (bằng miệng), anh Th phải có trách nhiệm tiến hành các
thủ tục sang tên chước bạ, nhưng phía anh Th không làm. Đến năm 2014, các bên
mới tiến hành đo đạc, tách thửa, anh Thành đã giao Giấy chứng nhận QSD đất
(bản gốc) để anh Thắng hoàn thiện h pháp . Tuy nhiên, anh Thắng không
những không thực hiện thủ tục tách bìa, làm sang tên trước bạ vv...mà còn làm giả
GCN QSD đất đưa cho anh, sau đó thì dẫn đến tranh chấp.
HĐXX nhận thấy, mặc dù, việc giao dịch của c bên không tuân thủ đầy
đủ quy định của pháp luật về hình thức được quy định tại điều 689 BLDS 2005
cũn như khoản 1 điều 502 của BLDS năm 2015, nhưng trên thực tế, các bên đã
thực hiện xong việc chuyển nhượng (Giao trả đầy đủ tiền, tài sản), phía bị đơn đã
giao quyền sử đất cho nguyên đơn, nên giao dịch của các bên được pháp luật công
nhận phù hợp với Quy định tại mục 54, điều 2, Nghị định số 01/2017/NĐ-CP,
sửa đổi bsung một số quy định chi tiết thi hành luật đất đai, cụ thể đối với các
trường hợp sử dụng đất do nhận chuyển nhượng trước ngày 01/01/2008 mà chỉ
giấy viết tay, thì được xét ng nhận QSD đất. Quy định này cũng phù hợp với
tinh thần của án lệ số 55/2022/AL ngày 07/9/2022 của Hội đồng Thẩm phán Tòa
án nhân dân Tối cao, vì vậy, Tòa không tuyên giao dịch bị vô hiệu về hình thức.
Từ những do trên, XX nhận thấy cần chấp nhận yêu cầu công nhận
giao dịch chuyển nhượng QSD đất đồng thời công nhận QSD 74 m
2
đất của
thửa đất số 196-1, tờ bản đồ số 03, thôn Phù Bật, xã Hồng Minh, huyện Phú
Xuyên, TP Hà Nội cho nguyên đơn.
Đkhắc phục việc phân chia ranh giới không ràng ntrước đây để
giải quyết triệt để tranh chấp của các bên, HĐXX quyết định phân chia ranh giới
QSD đất giữa các bên, Tòa quyết định:
Lấy điểm góc ngoài cùng của bức tường hồi về phía Đông Bắc nhà anh
Thắng (đồng thời góc phía Đông Nam nhà anh Th, trên bản đồ trên Giấy
chứng nhận QSD đất làm chuẩn, đặt tên điểm A, từ đây, kẻ 01 đường thẳng từ
9
bắc xuống nam (giáp với đường tông thôn Phù Bật) chiều dài 09 m, gọi
điểm B, làm thành đường ranh giới phía đông QSD đất của anh Thắng.
Tiếp theo, từ điểm A làm, kẻ 01 đường thẳng dọc theo GCN trên bản đồ
kéo dài 10,72 m, từ đông sang tây lấy tên điểm C, hình thành đường ranh giới
phân chia thửa đất 196-1, thành hai phần, phn phía bắc thuộc QSD của anh
Thành và phần phía nam thuộc QSD của anh Th.
Tại điểm C, ktiếp một đường thẳng vuông góc, theo GCN trên bản đồ
kéo dài 8,98 m, từ Bắc xuống Nam, gọi điểm D, làm thành đường ranh giới
phía tây, giữa phần đất thuộc QSD của anh Th với phần đất công (Hành lang kênh
Vân Đình)
Cuối cùng, nối điểm D với điểm B, từ Tây sang Đông trên GCN QSD đất
và trên bản đồ có kích thước 10,15 m, hình thành đường ranh giới phía Nam, giữa
thửa 196 với đất công.
Như vậy phần đất này có các cạnh và diện tích như sau:
Phía Đông giáp đường thôn (Điểm A, B), rộng 09 m
Phía Bắc giáp phần còn lại thửa đất số 196, của anh Thành (Điểm B, C), dài
10,72 m
Phía Tây giáp đất công (Điểm C,D), rộng, 8,98 m.
Phía Nam giáp đất công (Điểm D, A), dài 10,15 m
Tổng diện tích 94 m
2
, giá trị 1.692.000.000 đồng được giao cho
anh Phạm Văn Thắng sử dụng.
Đối với c tài sản trên đất như nhà ngang, lán, sân nằm trên diện tích này
do anh Thắng vẫn thuộc QSD của anh Th, nên Tòa không xét.
Ngoài ra, quá trình giải quyết vụ án, phía anh Thành còn cho rằng một phần
nguyên nhân tranh chấp là bắt nguồn từ việc, phía anh Thắng không thực hiện thủ
tục chuyển QSD đất diện tích 180 m
2
, thuộc QSD của anh Th tại khu vực Ao Vôi,
Hồng Minh, được anh Th chuyển trả vào 01 phần của hợp đồng chuyển
nhượng 94 m
2
đang tranh chấp trên, anh Th ý định chiếm đoạt lại thửa đất
Ao Vôi. Hơn nữa, tại diện tích 180 m
2
này, chính quyền địa phương cũng đang
thực hiện giải quyết khiếu nại, vướng mc, liên quan đến thủ tục thu hồi giải
phóng mặt bằng 01 phần để thi công đường giao thồng Cienco 5 anh Thành sẽ
yêu cầu Tòa án giải quyết trong mt vụ kiện khác (nếu có).
Đối với phần diện tích 218,5 m
2
đất công phía anh Thành lấn chiếm
269,5 m
2
đất công phía anh Thắng lấn chiếm, phía UBND Hồng Minh không
đề nghị Tòa xem xét giải quyết đây quan hpháp luật khác nên Tòa không
xét. Tuy nhiên, cần kiến nghị các Cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét xử lý
hành vi này theo quy định của pháp luật.
[4] Về án phí: Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận, trong
khi phía anh Th chỉ chấp nhận một phần 36 m
2
, nên phía anh Th phải chịu án
phí n sự thẩm đối với 58 m
2
đất giá trị 1.044.000 đồng, với số tiền án
phí 43.200.000 đồng. Tuy nhiên, xét anh Thành đã trên 60 tuổi đơn đề
nghị được miễn án phí, nên theo quy định của pháp luật, anh Th được miễn án phí
dân sự sơ thẩm. Chị Ngần hoàn cảnh khó khăn được UBND xã Hồng Minh
xác nhận, nên giảm ½ án phí cho chị Ngần, do vậy, chị Ngần còn phải chịu
10.830.000 đồng. Hoàn lại trả lại anh Phạm Văn Th, số tiền tạm ứng án phí
10
300.000 đồng, anh Th đã nộp tại Chi cc Thi hành án dân sự huyện Phú Xuyên,
thành phố Hà Ni.
Bi nhng nhn định trên,
QUYẾT ĐỊNH
Áp dng các Điu 697, 698, 699, 700, 701, 702 BLDS 2005. Điều 50, 136,
Luật Đất đai 2003; Khoản 3 Điều 155 BLDS 2015, điều 227, 228; khon 1 Điu
199, điều 131, Điều 184 B lut TTDS 2015 Nghị quyết s 326/2016/
UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định vthu,
miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, x:
1. Chấp nhn yêu cu khi kin ca anh Phạm Văn Th.
2. Công nhận giao dịch chuyển nng quyn s dng đt giữa anh Phạm Văn
Th với anh Nguyn Quang Th và chị ĐThị Ng, đưc các bên thỏa thun ký kết ti
Giấy n giao n đt ny 22 tháng 11 năm 1996
Công nhận quyn sử dng của anh Phạmn Th, đối vi diệnch 94 m
2
đất ở,
thửa đt 196-1, t bn đsố 03, thôn Phù Bt, xã Hng Minh, huyn Phú Xuyên, tnh
phố Hà Ni, được Ch tch UBND huyn Phú Xuyên, cp giấy chứng nhn QSD đt số
A 657113, ngày 20 tháng 6 năm 1996, đứng tên ch s dng Nguyn Quang Thành.
3. Xác định Quyền sdụng đất ranh giới phân chia quyền sử dụng đất
giữa phần diện tích 94 m
2
thuộc quyền sdụng của anh Phạm Văn Th với phần
còn lại 50 m
2
, thuộc quyền sử dụng của anh Nguyễn Quang Th, tại thửa đất 196-1
nêu trên, cụ thể như sau:
Lấy điểm góc ngoài cùng của bức tường hồi về phía Đông Bắc nhà anh
Thắng (đồng thời góc phía Đông Nam nhà anh Th, trên bản đồ trên Giấy
chứng nhận QSD đất làm chuẩn, đặt tên điểm A, từ đây, kẻ 01 đường thẳng từ
Bắc xuống Nam (giáp với đường thôn) chiều dài 09 m, gọi điểm B, làm
thành đường ranh giới phía đông QSD đất của anh Thng.
Tiếp theo, từ điểm A, kẻ 01 đường thẳng dọc theo GCN trên bản đồ kéo
dài 10,72 m, từ Đông sang Tây lấy tên điểm C, hình thành đường ranh giới
phân chia thửa đất 196-1 thành hai phần, phần phía bắc thuộc QSD của anh
Thành và phần phía nam thuộc QSD của anh Thắng.
Tại điểm C, kẻ tiếp một đường thẳng, theo GCN trên bản đồ, kéo dài
8,98 m, từ Bắc xuống Nam, gọi điểm D, làm thành đường ranh giới phía tây
giữa phần đất thuộc QSD của anh Th với phần đất công (Hành lang kênh Vân
Đình).
Cuối cùng, nối điểm D với điểm B, từ Tây sang Đông, trên GCN QSD đất
trên bản đồ có kích thước 10,15 m, hình thành đường ranh giới phía Nam giữa
thửa 196-1 với đất công.
Phần đất này có các cạnh và diện tích như sau:
Phía Đông giáp đường thôn (Điểm A, B), rộng 09 m
Phía Bắc giáp phần còn lại thửa đất số 196-1 của anh Thành (Điểm A, C),
dài 10,72 m
Phía Tây giáp đất công (Điểm C,D), rộng, 8,98 m.
Phía Nam giáp đất công (Điểm D, B), dài 10,15 m
Tổng diện tích 94 m
2
, giá trị 1.692.000.000 đồng được giao cho
anh Phạm Văn Thắng sử dụng.
11
Sau khi bản án hiệu lực pháp luật, các bên đương sự có trách nhiệm đến
cơ quan nhà nước cấp có thẩm quyền đăng ký để điều chỉnh lại quyền sử dụng đất
theo quyết định của Tòa án.
(Có sơ đồ kèm theo)
4. Kiến nghị UBND cấp có thẩm quyền các quan hữu quan xử đối
với diện tích 269,5 m
2
đất công bị lấn chiếm, nằm giáp ranh giữa phần đất của anh
Phạm Văn Th với đất hành lang kênh Vân Đình diện tích 218,5 m
2
đất công bị
lấn chiếm nằm giáp ranh giữa phần đất của anh Nguyễn Quang Th với đất nh
lang kênh Vân Đình theo quy định của pháp luật
5.Về án phí: Miễn án phí cho anh Nguyễn Quang Th. Giảm 50% án phí cho
chị Đỗ Thị Ngần, chị Ng còn chịu 10.830.000 đồng. Hoàn trả anh Phạm Văn
Thắng số tiền 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng)anh Th đã nộp tại phiếu thu
số 0015301, ngày 28 tháng 11 năm 2023 tại Chi cục Thi hành án dân shuyện
Phú Xuyên.
Án xử công khai sơ thẩm, đương sự có mặt được quyền kháng cáo trong hạn
15 ngày kể từ ngày tun án. Các đương sự vắng mặt được quyền kháng o trong
hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết tại nơi cư trú.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng o về phần
quyết định của bản án liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong hạn 15
ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết tại nơi cư trú.
Nơi nhận:
- TAND TP Hà Nội;
- VKSND huyện Phú Xuyên;
- VKSND TP Hà Nội;
- Chi cục THADS huyện Phú Xuyên;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TOÀ
( đã ký)
Nguyễn Văn Quang
Tải về
Bản án số 41/2024/DS-ST Bản án số 41/2024/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 41/2024/DS-ST Bản án số 41/2024/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất