Bản án số 393/2024/DS-PT ngày 07/05/2024 của TAND TP. Hồ Chí Minh về tranh chấp hợp đồng thuê khoán tài sản

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 393/2024/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 393/2024/DS-PT ngày 07/05/2024 của TAND TP. Hồ Chí Minh về tranh chấp hợp đồng thuê khoán tài sản
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng thuê khoán tài sản
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND TP. Hồ Chí Minh
Số hiệu: 393/2024/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 07/05/2024
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Tranh chấp hợp đồng thuê khoán khách sạn
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
THÀNH PH H CHÍ MINH
CNG HÒA XÃ HI CH NGHĨA VIỆT NAM
Độc lp T do Hnh phúc
Bn án s: 393/2024/DS-PT
Ngày: 07-5-2024
V/v: Tranh chấp hợp đồng thuê khoán
khách sn”.
NHÂN DANH
C CNG HÒA XÃ HI CH NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PH H CHÍ MINH
- Thành phn Hội đồng xét x phúc thm gm có:
Thm phán Ch ta phiên tòa: Ông Uông Văn Tuấn
Các Thm phán: Ông Trương Việt Hồng
Bà Lê Thị Ngọc Hương
- Thư phiên tòa: Dương Thị Huyn Trang Thư Tòa án nhân
dân Thành ph H Chí Minh.
- Đại din Vin Kim sát nhân dân Thành ph H Chí Minh:
Nguyễn Thị Mộng Linh Kim sát viên tham gia phiên tòa.
Trong hai ngày 24 tháng 4 và 07 tháng 5 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân
dân Thành Phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ số
81/2024/TLPT-DS ngày 16 tháng 01 năm 2024 về việc “Tranh chấp hợp đồng
thuê khoán khách sạn”. Do Bản án dân sự thẩm s752/2023/DS-ST ngày 13
tháng 9 năm 2023 của a án nhân dân quận Phú Nhuận bị kháng cáo. Theo
Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 1046/2024/QĐ-PT ngày 29 tháng 02 năm
2024 Quyết định hoãn phiên tòa phúc thẩm số 3748/2024/QĐ-HPT ngày
26/3/2024, giữa:
Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Như Y, sinh năm 1975.
Địa chỉ: 7 Đ, Phường A, Quận C, Thành phố Hồ Chí Minh.
Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Luật
Đăng L, thuộc Văn phòng L3, thuộc Đoàn Luật sư Thành phố H.
Bị đơn: Công ty TNHH K
Địa chỉ: 5 Lô C đường H, Phường G, quận P, Thành phố Hồ Chí Minh.
Người đại diện theo pháp luật:Cao Thị H, sinh năm 1979.
Địa chỉ: 1.05 Chung TDH Đường F, phường P, thành phố T, Thành
phố Hồ Chí Minh.
(Văn bản ủy quyền ngày 06/4/2024).
Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Phí Thị Bích T, sinh năm
1969 (vắng mặt).
2
Địa chỉ: B N, Phường A, quận P, Thành phố Hồ Chí Minh.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Tại Đơn khởi kiện đề ngày 22/02/2019 quá trình giải quyết vụ án,
nguyên đơn - bà Nguyễn Thị Như Y trình bày:
Ngày 02/8/2016 bà Nguyễn Thị Như Y và Công ty TNHH K (sau đây gọi
tắt Công ty K) hợp đồng thuê khoán khách sạn tại địa chỉ số E T, phường T,
Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh ; thời hạn thuê là 03 năm kể từ ngày
01/8/2016 đến ngày 01/7/2019, giá thuê mỗi tháng 2.500 USD. Theo hợp
đồng, bà Nguyễn Thị Như Y đặt cọc cho Công ty K stiền 15.000 USD,
tương đương 334.500.000 đồng. Đến ngày 13/3/2017, hai bên Phụ lục Hợp
đồng thay đổi về nội dung đối với số tiền đặt cọc 15.000 USD thành tiền thế
chân và sẽ trả lại cho bên nhận khoán khi bên nhận thuê khoán chấm dứt hợp
đồng thuê khoán. Tuy nhiên, sau khi kinh doanh được vài tháng thì lực lượng
chức năng kiểm tra lập biên bản vi phạm do chưa đủ điều kiện kinh doanh
khách sạn. Ngày 14/3/2017, Nguyễn Thị Như Y thông báo chấm dứt hợp
đồng thuê trước hạn do đang gặp khó khăn về kinh tế.
Nay bà Nguyễn ThNhư Y yêu cầu Công ty K hoàn trả số tiền thế chân
15.000 USD (tương đương 334.500.000 đồng) ng với lãi chậm trả từ ngày
bàn giao khách sạn 23/5/2017 theo lãi suất do pháp luật quy định với mức lãi
suất 10%/năm.
Tại phiên tòa thẩm, người đại diện theo y quyền của Như Y xin
rút lại yêu cầu buộc Công ty K trả lãi chậm thanh toán, chỉ yêu cầu Công ty K
trả lại tiền cọc là 334.500.000 đồng.
Bị đơn Công ty TNHH K trình bày:
Hợp đồng thuê khoán khách sạn giữa Nguyễn Thị Như Y Công ty
K được kết vào năm 2016, thời điểm đó PThị Bích T là người đại diện
theo pháp luật của Công ty K. Các giao dịch giữa Nguyễn Thị Như Y
Công ty K không được T hạch toán vào sổ sách của Công ty K T cũng
không thông báo các giao dịch liên quan khi bàn giao Công ty K. Do đó,
Công ty K không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Như Y.
Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã triệu tập người quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan Phí Thị Bích T nhiều lần nhưng T đều vắng mặt. Do đó a
án đã tiến hành thủ tục tống đạt giấy triệu tập đối với bà T theo quy định.
Tại Bản án dân sự thẩm số 752/2023/DS-ST ngày 13 tháng 9 năm
2023 của Tòa án nhân dân quận Phú Nhuận, quyết định:
Chấp nhận toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn Nguyễn Thị Như Y:
Buộc Công ty TNHH K hoàn trả cho bà Nguyễn Thị Như Y số tiền 334.500.000
đồng.
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí, lãi suất chậm trả
và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
3
Ngày 22/9/2023, Công ty K kháng cáo cho rằng Hợp đồng thuê khoán
khách sạn ngày 02/8/2016 giữa Công ty K với Nguyễn Thị Như Y là giao
dịch giữa nhân T với Như Y, không liên quan đến Công ty K. Đề nghị
Tòa án cấp phúc thẩm xem xét không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Như
Y.
Tại phiên ta phúc thẩm:
- Ý kiến của Cao Thị H đại diện Công ty K: Hợp đồng thuê khoán
khách sạn ngày 02/8/2016 giữa Công ty K với Nguyễn Thị Như Y là giao
dịch giữa nhân T với Như Y, không liên quan đến Công ty K. Số tiền
15.000 USD (tương đương 334.500.000 đồng) do cá nhân bà T nhận không hạch
toán vào sổ sách Công ty K. Đề nghị Hội đồng xét xử sửa bản án thẩm theo
hướng không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Như Y.
- Ý kiến của Luật Đăng L1 Như Y: Hợp đồng thuê khoán
khách sạn ngày 02/8/2016 do bà Phí Thị Bích T ký tên đóng dấu của Công ty K.
Tòa án cấp sơ thẩm buộc hoàn trả cho bà Như Y số tiền 334.500.000 đồng là có
căn cứ. Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của Công
ty K, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
- Ý kiến của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh:
Về tố tụng: Tòa án cấp phúc thẩm đã thực hiện đúng các quy định Bộ luật
Tố tụng dân sự từ khi thụ đến khi xét xử. Tại phiên tòa phúc thẩm, Hội đồng
xét xử thực hiện đúng trình tự, thủ tục tố tụng.
Về nội dung: Hợp đồng thuê khoán khách sạn ngày 02/8/2016 giữa Công
ty K với Nguyễn Thị Như Y do bà T tên đóng dấu Công ty K nhưng trên
thực tế Khách sạn Thanh Hằng không thuộc quyền quản của Công ty K, T
nhận số tiền 15.000 USD (tương đương 334.500.000 đồng) nhưng không hạch
toán vào sổ sách của Công ty K. Khi chuyển nhượng Công ty K cho ông Huỳnh
C hai bên không có thỏa thuận về nghĩa vụ trả số tiền 15.000 USD (tương đương
334.500.000 đồng). Như vậy, trên thực tế Hợp đồng thuê khoán khách sạn ngày
02/8/2016 giao dịch giữa nhân T với Như Y, không liên quan đến
Công ty K. Đề nghị Hội đồng xét xử sửa bản án sơ thẩm theo hướng không chấp
nhận yêu cầu khởi kiện của bà Như Y.
Tại phiên tòa thẩm, người đại diện theo ủy quyền của Nguyễn Thị
Như Y rút yêu cầu buộc Công ty TNHH K thanh toán tiền lãi. Tòa án cấp
thẩm không đình chỉ thiếu sót. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 289 của Bộ luật
Tố tụng dân sự năm 2015, đề nghị Hội đồng xét xđình chỉ yêu cầu của
Nguyễn Thị Như Y về việc yêu cầu Công ty TNHH K thanh toán tiền lãi.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu trong hồ vụ án, được thẩm tra tại
phiên tòa căn cứ o kết quả tranh tụng tại phiên tòa, sau khi nghe đại diện
Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh phát biểu quan điểm, sau khi
nghị án, Hội đồng xét xử nhận định:
4
[1] Về sự vắng mặt của đương sự:
Người quyền lợi nghĩa vụ liên quan T được Tòa án triệu tập hợp lệ
lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không do. Căn cứ khoản 2 Điều 227 Bộ
luật Tố tụng dân sự Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án.
[2] Giấy chứng nhận đăng doanh nghiệp số 0305435171 đăng lần đầu
ngày 19 tháng 10 năm 2007, đăng thay đồi lần thứ 1, ngày 05 tháng 02 năm
2015, Công ty TNHH K 02 thành viên, gồm Phí Thị Bích T ông
Nguyễn Tuấn A. Bà T là người đại diện theo pháp luật.
[3] Giấy chứng nhận đăng doanh nghiệp số 0305435171 đăng ln đầu
ngày 19 tháng 10 năm 2007, đăng thay đồi lần thứ 5, ngày 12 tháng 4 năm
2024, Công ty TNHH K 03 thành viên, gồm ông Huỳnh T1, Nguyễn Thị
Bạch L2 và bà Phạm Thị Bạch S. Ông Huỳnh T1 người đại diện theo pháp luật.
[4] Theo Hợp đồng thuê khoán khách sạn ngày 02/8/2016, Công ty K
khoán cho bà Nguyễn Thị Như Y quản lý điều hành Khách sạn T3 tại đại chỉ số
5 T, phường T, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh, với giá thuê
2.500USD/tháng. Nguyễn Thị Như Y đặt cọc 06 tháng tiền thuê nvới số
tiền là 15.000 USD.
Ngày 13/3/2017 Nguyễn Thị Như Y Công ty K Phụ lục Hợp
đồng thuê khoán khách sạn thay đổi nội dung thỏa thuận về khoản tiền đã đặt
cọc như sau: “Trong thời gian bên nhận thuê khoán không được đơn phương
chấm dứt hợp đồng thuê khoán khách sạn (ngoại trừ trong các trường hợp bất
khả kháng). Trong trường hợp bên B đơn phương chấm dứt hp đồng thuê
khoán khách sạn thì phải báo trước cho bên giao khoán khách sạn ba tháng (03
tháng) để bên giao khoán khách sạn có thời gian sắp xếp, giao khoán cho người
khác trả lại tiền thế chân (chứ không phải tiền đặt cọc) mà bên nhận khoán
đã giao số tiền cho bên giao khoán là 15.000 USD (Mười lăm ngàn đô la Mỹ)”.
[4] Ngày 14/3/2017 Nguyễn ThNhư Y thông báo chấm dứt hợp đồng
thuê trước hạn do đang gặp khó khăn về kinh tế. Mặc dù, chưa hết thời hạn báo
trước 03 tháng nhưng phía Công ty K đã tự ý lấy lại Khách sạn T3 bàn giao
nhà số E T, phường T, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh cho chủ sở hữu vào
ngày 23/5/2017.
[5] Theo Công văn trả lời của Phòng Tài chính Kế hoạch Ủy ban nhân
dân Quận A1 thì Khách sạn T3 tại địa chỉ số E T, phường T, Quận A, Thành
phố Hồ Chí Minh đăng hoạt động theo Giấy chứng đăng hộ kinh doanh
với chủ hộ Bùi Minh T2. Trong khi căn nhà số E T, phường T, Quận A,
Thành phố HCMinh do PThị Bích T thuê của ông Trần Quốc H1
Lê Thị N theo Hợp đồng thuê nhà ngày 02/7/2014 và Hợp đồng thanh lý hợp
đồng thuê nhà ngày 22/5/2017. Như vậy, Khách sạn T3 không phải sở kinh
doanh của Công ty K, điều này phù hợp với lời thừa nhận của đại diện Công ty
K.
[6] Do đó, Hợp đồng thuê khoán khách sạn ngày 02/8/2016 giữa Công ty
K với Nguyễn Thị Như Y hiệu do vi phạm điều cấm của luật theo quy
5
định tại Điều 117, Điều 122 và Điều 123 Bộ luật Dân sự 2015.
[7] Xét, Hợp đồng thuê khoán khách sạn ngày 02/8/2016 do Phí Thị
Bích T tên đóng dấu của Công ty K. Tuy nhiên, trên thực tế Khách sạn T3
không phải sở kinh doanh của Công ty K do nhân bà T thuê của ông
Trần Quốc H1 Thị N. Quá trình thực hiện hợp đồng, nhân bà T đã
nhận của bà Như Y số tiền 15.000 USD nhưng không hạch toán vào sổ sách của
Công ty K, Công ty K không xuất phiếu thu tiền.
Ngày 30/01/2019 Phí Thị Bích T Hợp đồng sang nhượng Công ty K
cho ông Huỳnh C. Hợp đồng không thỏa thuận nào liên quan đến quyền lợi
và nghĩa vụ liên quan đối với Khách Sạn T3. Phía bà T không bàn giao cho ông
Huỳnh C số tiền 15.000 USD (tương đương 334.500.000 đồng).
Do Công ty K không phải bên chiếm hữu, sử dụng số tiền 334.500.000
đồng nên không nghĩa vụ phải hoàn trả cho Nguyễn Thị Như Y theo quy
định tại Điều 579 của Bộ luật Dân sự năm 2015.
Tòa án cấp thẩm buộc Công ty K hoàn trả cho Nguyễn Thị Như Y
số tiền 334.500.000 đồng không phù hợp với các tình tiết khách quan trong
vụ án.
[8] Tại phiên tòa sơ thẩm, người đại diện theo ủy quyền của bà Nguyễn Thị
Như Y rút yêu cầu buộc Công ty TNHH K thanh toán tiền lãi. Tòa án cấp
thẩm không đình chỉ thiếu sót. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 289 của Bộ luật
Tố tụng dân sự năm 2015 Hội đồng xét xđình chỉ yêu cầu của Nguyễn Thị
Như Y về việc yêu cầu Công ty TNHH K thanh toán tiền lãi.
[9 Từ nhận định trên, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu kháng cáo của b
đơn, sửa bản án sơ thẩm theo hướng bác yêu cầu khởi kiện của Nguyễn Thị
Như Y về việc yêu cầu Công ty K hoàn trả số tiền 334.500.000 đồng.
[10] Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh
phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.
[11] Về án phí: Căn cứ Điều 27 Điều 29 của Nghị quyết
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy
định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản sử dụng án phí lệ phí a
án.
Do yêu cầu khởi kiện không được chấp nhận nên Nguyễn Thị Như Y
phải chịu án phí sơ thẩm là 16.725.000 đồng;
Công ty K không phải chịu án phí dân sự thẩm án phí phúc thẩm.
Hoàn trả chong ty K số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
- Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 289 khoản 2 Điều 308 của Bộ luật Tố
tụng dân sự năm 2015;
6
- Căn cứ Điều 579 của Bộ luật Dân sự 2015;
- Căn cứ Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (đã được sửa đổi, bổ sung
năm 2014).
- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy
ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và
sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu kháng o của Công ty TNHH K, sửa bản
án sơ thẩm như sau:
1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn - Nguyễn Thị
Như Y về việc yêu cầu Công ty TNHH K hoàn trả cho bà Nguyễn Thị Như Y số
tiền 334.500.000 đồng.
2. Đình chỉ yêu cầu của Nguyễn Thị Như Y về việc yêu cầu Công ty
TNHH K thanh toán tiền lãi.
3. Về án phí:
Nguyễn Thị Như Y phải chịu án phí dân sự thẩm 16.725.000
đồng. trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 9.617.000 đồng theo Biên lai thu
tiền số AA/2017/0041616 ngày 04 tháng 3 năm 2019 của Chi cục Thi nh án
dân sự quận Phú Nhuận, bà Như Y phải nộp thêm 7.108.000 đồng.
Hoàn trả cho Công ty K số tiền tạm ứng án phí phúc thẩm đã nộp
300.000 đồng theo Biên lai thu tiền số AA/2023/0022288 ngày 26/9/2023 của
Chi cục Thi hành án dân sự quận Phú Nhuận, Thành phố Hồ Chí Minh.
4. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2
Luật Thi hành án dân sự, người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án
dân sự quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện
yêu cầu thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại c điều 6,
7a, 7b 9 luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo
quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
5. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- TAND ti cao;
- TAND cp cao ti TP.HCM;
- VKSND cp cao ti TP.HCM;
- VKSND TP.HCM;
- TAND qun Phú Nhun;
- Cc THADS TP.HCM;
- Chi cc THADS qun
Phú Nhun;
- Các đương sự;
- Lưu.
TM. HI ĐỒNG XÉT X PHÚC THM
THM PHÁN CH TA PHIÊN TÒA
(Đã ký)
Uông Văn Tuấn
Tải về
Bản án số 393/2024/DS-PT Bản án số 393/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 393/2024/DS-PT Bản án số 393/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất