Bản án số 92/2024/DS-PT ngày 28/06/2024 của TAND tỉnh Lâm Đồng về tranh chấp hợp đồng thuê khoán tài sản

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 92/2024/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 92/2024/DS-PT ngày 28/06/2024 của TAND tỉnh Lâm Đồng về tranh chấp hợp đồng thuê khoán tài sản
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng thuê khoán tài sản
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Lâm Đồng
Số hiệu: 92/2024/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 28/06/2024
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Chấp nhận kháng cáo của ông Phan Phước Đ.
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH LÂM ĐỒNG
Bản án số: 92/2024/DS-PT
Ngày: 28-6-2024
V/v: “Tranh chấp hợp đồng giao
khoán”.
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH LÂM ĐỒNG
- Thành phn Hội đng xét x phúc thm gm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên tòa: Ông Huỳnh Châu Thạch
Các Thẩm phán: Ông Nguyễn Văn Đức
Bà Nguyễn Thị Bích Thảo
- Thư phiên toà: Ông Nguyễn Đạt Nguyên Thư Tòa án, Toà án nhân
dân tỉnh Lâm Đồng.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lâm Đồng: Thị Kim Anh
Kiểm sát viên tham gia phiên tòa.
Ngày 28 tháng 6 năm 2024 tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Lâm Đồng; xét xử
phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 72/2024/TLPT-DS ngày 27 tháng 5 năm 2024
về tranh chấp: “Hợp đồng giao khoán”.
Do Bn án Dân s thẩm s 102/2023/DS-ST ngày 14/12/2023 của Tòa án
nhân dân huyện Di Linh, tỉnh Lâm Đồng bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa ván ra xét xử phúc thẩm số 178/2024/QĐ-PT ngày 31
tháng 5 năm 2024, Quyết định hoãn phiên tòa phúc thẩm s96/2024/QĐ-PT ngày
21 tháng 6 năm 2024 giữa các đương sự:
-Nguyên đơn: Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh L. Địa chỉ: sC, đường T, Phường B,
thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng.
Người đại diện hợp pháp:
+ Ông Nguyễn Bình S, là người đại diện theo pháp luật (Chỉ huy trưởng);
+ Ông Nguyễn Quốc T, người đại diện theo ủy quyền (Văn bản y quyền
số 3346/UQ-BCH ngày 22/11/2022); có mặt.
- Bị đơn: Ông Phan Phước Đ, sinh năm: 1970; trú tại số C, thôn N, L,
huyện D, Lâm Đồng; vắng mặt.
2
Người đại diện hợp pháp: Ông Phan Phước V, sinh năm: 1973; trú tại số
D, thôn N, L, huyện D, Lâm Đồng, là người đại diện theo ủy quyền (Văn bản
ủy quyền số 950, quyển số 01/2024 TP/CC-SCC/HĐGD do Văn phòng công
chứng Nguyễn Thị Kim L chứng nhận ngày 26/3/2024); có mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Bà Nguyễn Thị T1, sinh năm: 1980; cư trú tại số C, thôn N, xã L, huyện D,
tỉnh Lâm Đồng; vắng mặt.
Người đại diện hợp pháp: ông Phan Phước V, sinh năm: 1973. Địa chỉ: số D,
thôn N, L, huyện D, m Đồng, người đại diện theo ủy quyền (Văn bản ủy
quyền số 950, quyển số 01/2024 TP/CC-SCC/HĐGD do Văn phòng công chứng
Nguyễn Thị Kim L chứng nhận ngày 26/3/2024); có mặt.
2. Cháu Phan Thị Kiều M, sinh năm: 2001; trú tại thôn N, xã L, huyện D,
tỉnh Lâm Đồng; vắng mặt.
3. Cháu Phan Thị Kiều N, sinh ngày 01/6/2005; cư trú tại thôn N, xã L, huyện
D, tỉnh Lâm Đồng; vắng mặt.
4. Cháu Phan Phước Nguyên K, sinh năm: 2013; trú tại thôn N, L,
huyện D, Lâm Đồng; vắng mặt.
5. Vợ chồng ông Phan Phước V, sinh năm: 1973; Thị M1, sinh năm:
1984; cư trú tại số D, thôn N, xã L, huyện D, tỉnh Lâm Đồng; ông V có mặt, bà M1
vắng mặt.
- Người kháng cáo: Ông Phan Phước Đ Bị đơn.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
- Theo nội dung đơn khởi kiện ghi ngày 14/3/2019 của Bộ Chỉ huy quân s
tỉnh L, lời trình bày tại các bản tự khai và trong quá trình tham gia tố tụng tại giai
đoạn sơ thẩm của ông Nguyễn Quốc T, người đại diện hợp pháp của Bộ Chỉ huy
quân sự tỉnh L, thì: Trước năm 1975 tại xã L, huyện D, tỉnh Lâm Đồng có đồn điền
trồng trà, phê của người Pháp, sau khi Pháp rút khỏi Việt Nam, đồn điền được
chế độ sử dụng làm căn cứ đóng quân, năm 1975 Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh tiếp
quản khu vực trên để tiếp tục sản xuất.
Năm 1976 Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh L được giao quản sử dụng đất quốc
phòng tại L, huyện D, tỉnh Lâm Đồng theo Quyết định số 407/TTg-CP ngày
13/6/1997 của Thủ tướng Chính phủ. Sau khi xóa bỏ chế tập trung, bao cấp Bộ
Chỉ huy quân sự tỉnh L giao Phòng hậu cần, Đội sản xuất 22/12 tổ chức sản xuất.
Đơn vị đã tiến hành kết hợp đồng giao khoán đất vườn cây với các hộ gia
đình nhận khoán tại thôn N, L, huyện D, tỉnh Lâm Đồng, trong đó hộ gia
đình ông Phan Phước Đ. Hộ gia đình ông Đ đã 02 hợp đồng giao nhận khoán
3
với Đội sản xuất 22/12 nay Đội Bảo vệ CCHC-KT/Phòng Hậu cần/BChỉ huy
quân sự tỉnh Lâm Đồng. Cụ thể gồm các hợp đồng với các lô, thửa đất, sản lượng
phải nộp như sau:
Hợp đồng số 139/HĐ-GK ngày 01/01/2006: tổng diện tích 4.635m
2
đất quốc
phòng thuộc L, huyện D, tỉnh Lâm Đồng; thời hạn của hợp đồng 10 năm k
từ ngày 01/01/2006 đến ngày 31/12/2015, một năm hộ gia đình ông (bà) Phan
Phước Đ phải nộp sản lượng 115,8kg phê nhân tương ứng với 579kg phê
quả tươi. Ngày 24/01/2014 giữa hộ nhận khoán đơn vị tiến hành lập phụ
kiện hợp đồng hợp tác sản xuất số 139/BKHĐ (phụ kiện là văn bản không ch rời
hợp đồng số 139/HĐ-GK ngày 01/01/2006) theo đó diện tích nhận khoán là
5.321,7m
2
gồm 02 thửa: thửa số 15, tờ bản đồ số 84 có diện tích 3.104,1m
2
và thửa
số 16, tờ bản đsố 84, diện tích 2.217,6m
2
. Sản lượng hộ ông (bà) Phan Phước Đ
phải nộp từ năm 2014 đến năm 2022 là: 629kg phê nhân ứng với 3.145kg quả
tươi.
Hợp đồng số 105/HĐ-GK ngày 01/06/2011: tổng diện tích 11.407,8m
2
đất
quốc phòng thuộc các thửa số 53, 62, 61, tờ bản đồ số 84, xã L, huyện D, tỉnh Lâm
Đồng; thời hạn hợp đồng 10 năm kể từ ngày 01/01/2011 đến ngày 31/12/2020;
tổng sản lượng hộ gia đình ông Phan Phước Đ phải nộp từ năm 2014 đến năm
2022 là 2.322,8kg cà phê nhân ứng với 11.614kg cà phê quả tươi.
Quá trình thực hiện 02 hợp đồng nêu trên hộ gia đình ông (bà) Phan Phước Đ
không nộp sản lượng theo hợp đồng đã kết từ niên vụ 2014 đến hết niên vụ
2023 nên đã vi phạm nghiêm trọng các điều khoản đã ký kết trong hợp đồng. Đồng
thời thời hạn của hai hợp đồng nêu trên đã hết. Để thu hồi đất sử dụng cho mục
đích quốc phòng; Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh L đề nghị Tòa án giải quyết:
1. Tuyên bố chấm dứt hợp đồng số 139/HĐ-GK ngày 01/01/2006 giữa bên
giao khoán là Nông trường 22/12 với bên nhận khoán là hộ cá thể ông Phan Phước
Đ, phụ kiện hợp đồng hợp tác sản xuất số 139/BKHĐ ngày 24/01/2014 giữa đơn vị
sản xuất 22/12 Phòng hậu cần với hộ nhận khoán ông Phan Phước Đ; chấm dứt
hợp đồng giao khoán đầu tư chămc vườn cà phê số 105/HĐ-GK ngày 01/6/2011
giữa đơn vị sản xuất 22/12 – Phòng hậu cần với hộ nhận khoán ông Phan Phước Đ.
2. Yêu cầu giải quyết hậu quả của việc chấm dứt hợp đồng thuê khoán như
sau:
+ Buộc hộ ông Phan Phước Đ trả lại diện tích đất nhận khoán theo hợp đồng
số 139/HĐ-GK ngày 01/01/2006 giữa bên giao khoán Nông trường 22/12 với bên
nhận khoán hộ thể ông Phan Phước Đ, phụ kiện hợp đồng hợp tác sản xuất số
139/PKHĐ ngày 24/01/2014 giữa đơn vị sản xuất 22/12 Phòng hậu cần với hộ
nhận khoán ông Phan Phước Đ hợp đồng giao khoán đầu chăm sóc vườn
phê số 105/HĐ-GK ngày 01/6/2011 giữa đơn vị sản xuất 22/12 Phòng hậu cần
4
với hộ nhận khoán ông Phan Phước Đ. Đối với các thửa đất số 15, 16, 53, 61, 62 tờ
bản đồ 84 xã L, (Nông trường 22/12) thuộc đất quốc phòng. Trong đó:
- Thửa đất số 15, tờ bản đồ số 84, diện tích 3.104,1m
2
;
- Thửa đất số 16, tờ bản đồ số 84, diện tích 2.217,6m
2
;
- Thửa đất số 53 tờ bản đồ 84, diện tích 4.478,9m
2
;
- Thửa đất số 61, tờ bản đồ 84, diện tích 4.928,8m
2
;
- Thửa đất 62 tờ bản đồ số 84, diện tích 2.000,1m
2
.
+ Buộc hộ ông Phan Phước Đ tháo dỡ toàn bộ công trình xây dựng trên đất
(nhà tạm, chuồng trại,...) trả lại như hiện trạng ban đầu cho Bộ Chỉ huy quân sự
tỉnh L; Buộc hộ ông Phan Phước Đ bàn giao lại cây trồng trên đất tại các thửa đất
số 53, 61, 62 tờ bản đồ 84 xã L (N) theo hợp đồng giao khoán số 105/HĐ-GK ngày
01/06/2011; bàn giao lại cây trồng trên đất tại các thửa đất số 15, 16 tờ bản đồ 84
xã L (N) theo hợp đồng giao khoán số 139/HĐ-GK ngày 01/01/2006 giữa bên giao
khoán Nông trường 22/12 với bên nhận khoán hộ thể ông Phan Phước Đ, phụ
kiện hợp đồng hợp tác sản xuất số 139/ PKHĐ ngày 24/01/2014 giữa đơn vị sản
xuất 22/12 – Phòng hậu cần với hộ nhận khoán ông Phan Phước Đ cho Bộ Chỉ huy
quân sự tỉnh L.
+ Buộc hộ gia đình ông (bà) Phan Phước Đ giao nộp đủ sản lượng là
15.844kg cà phê quả tươi cho Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh L từ niên vụ 2014 đến 2023
theo hợp đồng đã kết (đã trừ 500kg phê năm 2018 gia đình ông Đ đã nộp)
quy ra thành tiền cụ thể: 15.844kg x 11.800đ = 186.959.200đ.
Trong đó:
a) Hợp đồng số 139/HĐ-GK ngày 01/01/2006 phụ kiện hợp đồng hợp tác
sản xuất số 139/BKHĐ (phụ kiện văn bản không tách rời hợp đồng số 139/HĐ-
GK ngày 01/01/2006): 3.479kg phê quả tươi nhân với giá phê tươi tại thời
điểm xét xử là 11.800đ/kg thành tiền là 41.052.000đ.
b) Hợp đồng số 105/HĐ-GK ngày 01/06/2011: 12.365kg cà phê quả tươi nhân
với giá cà phê tươi tại thời điểm xét xử là 11.800đ/kg thành tiền là 145.907.000đ.
Đối với diện tích 400m
2
thuộc thửa 428 tờ bản đồ 44, L theo Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất số vào sổ cấp 1773/QSDĐ cấp ngày 10 tháng 12 năm
1997 cho Hộ ông Phan Phước Đ nằm trong diện tích giao khoán thì Bộ Chỉ huy
quân sự tỉnh L không yêu cầu giải quyết trong vụ án này. Khi cần thiết Bộ Chỉ huy
quân sự tỉnh L sẽ khởi kiện trong vụ án khác.
- Theo lời trình bày của ông Phan Phước Đ thì ông không chấp nhận yêu cầu
khởi kiện của nguyên đơn vì các lý do sau:
5
Các hợp đồng trên của nguyên đơn vừa nêu không đúng quy định của pháp
luật (thời điểm ký hợp đồng thuê khoán 139/HĐ-GK ngày 01/01/2006 và 105/HĐ-
GK ngày 01/6/2011 bị đơn chưa hiểu biết về pháp luật nên theo hợp đồng 139
ngày 01/1/2006 phía cuối hợp đồng thì bên B tức ông Phan Phước Đ ghi đất
tự khai phá năm 1992 được các bên thống nhất xác nhận.
Đối với hợp đồng số 105/HĐ-GK khi gia đình ông đến sinh sống thấy 04 năm
liền không người canh tác (1987-1991) nên gia đình ông đã phục hóa để trồng
cây phê thì đến tháng 3 năm 1992 Bộ Chỉ huy quân sự đến thừa nhận đất
quốc phòng; buộc gia đình ông có giấy nhận đất mới được canh tác.
Thời điểm đó ông có nhờ bà Phan Thị L1, địa chỉ: thôn A, xã L, huyện D, tỉnh
Lâm Đồng viết giấy xin nhận đất của Nông trường 22/12 với diện tích 8.000m
2
, đất
còn trống không cây trồng. Diện tích đất còn lại trong hợp đồng trên đất của
gia đình ông tự khai phá.
Từ khi được biết Thông tư số 35/2009/TT-BQP ngày 20/7/2009 của Bộ Q; cụ
thể tại khoản 4 Điều 4 Tất cả trường hợp giao đất quốc phòng cho Doanh
nghiệp đơn vị sử dụng vào mục đích quốc phòng kinh tế đều phải thực hiện
bằng quyết định giao đất quyết định phê duyệt phương án sử dụng đất quốc
phòng vào mục đích kinh tế của Bộ Q; doanh nghiệp Q1 cổ phần hóa doanh
nghiệp Q1 sử dụng đất quốc phòng đều phải thực hiện hợp đồng thuê đât, bên cho
thuê là Bộ Q”.
Theo quy định tại khoản 3 Điều 9 của Thông tư 35/2009/TT-BQP ngày
20/7/2009 thì Nghiêm cấm các hành vi cho thuê lại; chuyển mục đích sử dụng
(trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 1 quy chế này); mua bán, cầm cố, thế
chấp hoặc chuyển nhượng quyền sử dụng đất”.
hai diện tích trong hai hợp đồng số 139/HĐ-GK số 105/HĐ-GK trên
không cây trồng trên đất nên theo Thông 35/2009/TT-BQP thì Bộ Chỉ huy
quân sự tỉnh L không quyền cho thuê lại nên hai hợp đồng này trái với quy định
của pháp luật. Mặt khác Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh L chưa chứng minh được diện
tích đất trong hai hợp đồng trên là đất quốc phòng.
Việc Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh L chưa xuất trình được Quyết định giao đất
theo đó phương án sản xuất tBộ Q nên đó cũng do phía ông không tiếp
tục thực hiện hợp đồng.
Đối với nhà công trình phụ, sân phơi nằm trên diện tích đất gia đình ông
khai phá năm 1992 không nằm trong diện tích của hai hợp đồng thuê khoán 139 và
105 nêu trên.
Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh L đến nay vẫn không chứng minh được là chủ sở
hữu thửa đất trước khi gia đình ông khai thác năm 1992. Năm 1997 Bộ Chỉ huy
quân sự tỉnh L cho rằng diện tích đất này là đất quốc phòng nhưng hộ gia đình ông
6
không nhận được quyết định thu hồi và đền theo luật định. Năm 2013 Ủy ban
nhân dân tỉnh L cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất BQ 044674 cho Bộ Chỉ
huy quân sự tỉnh L thì gia đình ông vẫn không được đền bù theo quy định của pháp
luật.
Về hợp đồng giao khoán: ngoài tiêu đề sai thực tế như đã nêu (có trong biên
bản làm việc) thì phương án giao khoán dựa theo phương án 175 của Bộ Chỉ huy
quân stỉnh L là áp đặt không dựa theo điều khoản nào trong Luật đất đai.
Theo phần 3 của Quyết định 5528 thì diện tích đất gia đình ông đang canh tác
không phương án của Bộ Q thì diện tích đất trên không phải đất quốc phòng.
Điều này Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Lâm Đồng chưa chứng minh một cách rõ ràng.
Hợp đồng số 105/HĐ-GK thời hạn đến 31/12/2020 chưa hết hạn nên Bộ
Chỉ huy quân sự tỉnh L khởi kiện khi hợp đồng chưa thanh không đúng. Hợp
đồng 139/HĐ-GK đã hết hạn 31/12/2010 Bộ Chỉ huy quân stỉnh L không thực
hiện các điều khoản sau hợp đồng mà vẫn tính nợ đến 2018 là không có cơ sở. Hơn
nữa, tài sản trên đất gồm nhà ở, công trình phụ sân phơi nằm trên diện tích đất
gia đình ông Đ khai phá năm 1992 không nằm trong diện tích 16.729,5m
2
phía
nguyên đơn khởi kiện, đất này đủ điều kiện để quan thẩm quyền cấp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất tại thời điểm sdụng. Tuy nhiên Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất BQ044674 của Bộ chỉ huy quân sự tỉnh L chồng lên diện tích
đất mà gia đình ông đang sử dụng không di đời, đền bù, gây thiệt hại cho gia
đình ông. Việc nguyên đơn buộc gia đình ông phải tháo dỡ toàn bộ công trình
tài sản trên đất để trả lại hiện trạng cho Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh L không đúng
quy định của pháp luật.
Đối với diện tích 400m
2
đất thuộc thửa số 428 tờ bản đồ số 44, L được
cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số L102991 do Ủy ban nhân dân huyện D
cấp năm 1997 nằm trong diện tích đất ông tự khai phá trong hợp đồng số 105/HĐ-
GK ngày 01/6/2011. Đến năm 2013 diện tích đất này nằm trong Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất số BQ044674 do Ủy ban nhân dân tỉnh L cấp cho Bộ Chỉ huy
quân sự tỉnh L mà không di dời và đền bù là gây thiệt hại cho bị đơn.
- Theo lời trình bày của ông Phan Phước V thì: Tổng diện tích đất trong hai
hợp đồng 139 105 do hai anh em gồm ông Phan Phước Đ ông canh tác
chung, xuyên suốt từ năm 1992 cho đến nay. Số cây trồng trong diện tích này do
anh em của ông tự trồng. Ông không đồng ý với việc khởi kiện của Bộ chỉ huy
quân sự tỉnh L vì: sử dụng không đúng cơ chế của đất quốc phòng.
Vợ ông Thị M1 không liên quan đến diện tích đất này, không canh
tác cây trồng trên đất.
- Bà Vũ Thị M1 trình bày bà không có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến tài
sản nêu trên nên xin phép được vắng mặt không khiếu kiện đối với tài sản
trong vụ án này.
7
- Nguyễn Thị T1, cháu Phan Thị Kiều M, cháu Phan Thị Kiều N, cháu
Phan Phước Nguyên K đã được Tòa án triệu tập nhiều lần nhưng không đến làm
việc nên không ghi nhận được ý kiến.
Tòa án đã tiến hành hòa giải nhưng không thành.
Tại Bản án s 102/2023/DS-ST ngày 14/12/2023; Tòa án nhân dân huyện Di
Linh, tỉnh Lâm Đồng đã xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh
Lâm Đồng với bị đơn ông Phan Phước Đ về việc “Tranh chấp Hợp đồng giao
khoán”.
1.1. Tuyên bố chấm dứt hợp đồng số 139/HĐ-GK ngày 01/01/2006 giữa bên
giao khoán là Nông trường 22/12 với bên nhận khoán hộ cá thể ông Phan Phước Đ,
phụ kiện hợp đồng hợp tác sản xuất số 139/BKHĐ ngày 24/01/2014 giữa đơn vị
sản xuất 22/12 Phòng hậu cần với hộ nhận khoán ông Phan Phước Đ. Chấm dứt
hợp đồng giao khoán đầu tư chăm sóc vườn cà phê số 105/HĐ-GK ngày 01/6/2011
giữa đơn vị sản xuất 22/12 Phòng Hậu cần với hộ nhận khoán ông Phan Phước
Đ.
1.2. Buộc ông Phan Phước Đ và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
Thị M1, cháu Phan Thị Kiều M, cháu Phan Thị Kiều N, cháu Phan Phước
Nguyên K, ông Phan Phước V, Nguyễn Thị T1 giao trả lại đất và cây trồng trên
đất, tháo dỡ toàn bộ công trình xây dựng trên đất nhận khoán theo hợp đồng số
139/HĐ-GK ngày 01/01/2006 giữa bên giao khoán Nông trường 22/12 với bên
nhận khoán hộ thể ông Phan Phước Đ, phụ kiện hợp đồng hợp tác sản xuất số
139/ PKHĐ ngày 24/01/2014 giữa đơn vị sản xuất 22/12 Phòng Hậu cần với hộ
nhận khoán ông Phan Phước Đ Hợp đồng giao khoán đầu chăm sóc vườn
phê số 105/HĐ-GK ngày 01/6/2011 giữa đơn vị sản xuất 22/12 Phòng Hậu cần
với hộ nhận khoán ông Phan Phước Đ trên các thửa đất số 15,16, 53, 61, 62 tờ bản
đồ 84 xã L (N) giao trả cho Bộ chỉ huy quân sự tỉnh L.
(Ban hành kèm theo họa đồ đo đạc của Chi nhánh Văn phòng đăng đất đai
huyện D phát hành ngày 14/7/2022).
1.3. Riêng phần diện tích 400m
2
tại thửa đất số 428 tờ bản đồ số 44, L do
Ủy ban nhân dân huyện D cấp theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo số vào
sổ cấp 1773 cho hộ ông Phan Phước Đ, nằm trong diện tích giao khoán tuy nhiên
Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh L không yêu cầu giải quyết trong vụ án này nên không
xem xét giải quyết, sau này nếu phát sinh tranh chấp sẽ giải quyết trong vụ án
khác (Ban hành kèm theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do Ủy ban nhân dân
huyện D cấp theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số vào sổ cấp 1773 cho hộ
ông Phan Phước Đ).
8
1.4. Buộc ông Phan Phước Đ phải thanh toán tiền sản lượng với số tiền
186.959.200đ.
1.5. Bộ Chỉ huy quân sự trách nhiệm thanh toán cho ông Phan Phước Đa s
tiền hỗ trợ đối với diện tích trồng cà phê với số tiền là 188.142.750đ.
Ngoài ra, Bản án còn tuyên vchi phí tố tụng, án phí, quyền kháng cáo
trách nhiệm thi hành án của các đương sự.
Ngày 01/3/2024 ông Phan Phước Đ kháng cáo đề nghị cấp phúc thẩm sửa Bản
án sơ thẩm theo hướng không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên
đơn.
Tại phiên tòa,
Ông Phan Phước V, người đại diện hợp pháp của ông Phan Phước Đ, đồng ý
chấm dứt hợp đồng giao khoán với Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh L tuy nhiên yêu cầu
phải giải quyết hậu quả của việc chấm dứt hợp đồng nói trên.
Ông Nguyễn Quốc T, người đại diện theo ủy quyền của Bộ Chỉ huy quân sự
tỉnh L, không đồng ý với kháng cáo của bị đơn đề nghị giải quyết như Bản án
thẩm.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lâm Đồng phát biểu về việc tuân theo
pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử các
đương sự tại giai đoạn phúc thẩm cũng như phiên tòa hôm nay: đã chấp hành đúng
quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự. Về nội dung: đề nghị hủy toàn bộ Bản án
thẩm; giao hồ sơ cho Tòa án nhân dân huyện Di Linh, tỉnh Lâm Đồng giải quyết lại
theo thủ tục chung.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Quan hệ tranh chấp giữa các bên đã được Tòa án cấp sơ thẩm xác định
đúng quy định của pháp luật; đơn kháng cáo của ông Phan Phước Đ, thủ tục kháng
cáo được thực hiện đúng theo quy định tại các Điều 271, 273, 278 Bộ luật Tố tụng
Dân sự nên đủ điều kiện để Hội đồng xét xử xem xét giải quyết theo thủ tục phúc
thẩm.
[2] Qua xem xét kháng cáo của ông Phan Phước Đ thì thấy rằng:
[2.1] Theo hồ vụ án thể hiện: Diện tích đất giao khoán trước đây nguồn
gốc đồn điền Pháp, sau năm 1975 Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh tiếp quản khu vực
nêu trên để tiếp tục sản xuất trên diện tích trà, phê đã sẵn. Năm 1976 Nông
trường 22/12 đơn vị kinh tế thuộc Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh được giao quản
đất đai tại khu vực này. Năm 1982 Nông trường có hợp đồng với một số thân nhân
là con em của cán bộ, chiến sỹ trong đơn vị để chăm sóc trà, cà phê. Đến năm 1990
Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh lập hồ sơ doanh trại đơn vị N D có họa đồ vị trí được thiết
9
lập ngày 17/8/1990 và họa đồ khối doanh trại Nông Trường 22-12 có xác nhận của
Tư lệnh Quân khu E.
Ngày 13/6/1997 Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 407/QĐ-TTg
phê duyệt quy hoạch đất quốc phòng do quân đội quản trên địa bàn Quân khu 5
kèm theo danh mục vị trí đất quốc phòng do quân đội quản sử dụng trên địa bàn
tỉnh Lâm Đồng trong đó Nông trường 22/12 Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh L với diện
tích 3.178.837m
2
. Năm 2003 Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh tiến hành đo đạc lập bản đồ
đối với Nông trường 22-12 với tổng diện tích 2.821.301m
2
; năm 2008 Bộ Chỉ huy
quân sự tỉnh đã thuê đơn vị vấn đo đạc lại diện tích đất thực tế của Nông trường
22/12 với tổng diện tích 2.783.882,5m
2
. Ngày 31/7/2013 Bộ văn bản số
706/BCH –HC đnghị Quân khu G thống nhất diện tích thực tế còn lại của đơn vị
quản lý sử dụng là 2.456.146,3m
2
.
Ngày 29/8/2013 Bộ G ban hành Quyết định số 1487/QĐBTL cho phép Đội
sản xuất 22/12 đóng quân thực hiện nhiệm v tại L trên diện tích
2.456.146,3m
2
. Ngày 10/12/2013 Ủy ban nhân dân tỉnh L ban hành Quyết định số
2535/QĐ- UBND giao đất theo hiện trạng cho Bộ Chỉ huy quân stỉnh vào mục
đích quốc phòng.
Ngày 24/12/2013 Ủy ban nhân dân tỉnh L đã cấp Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất cho Bộ Chỉ huy quân stỉnh L với diện tích 2.456.146m
2
theo Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà tài sản gắn liền với đất số
BQ 044674; trong đó các thửa đất 15, 16, 53, 61 62 thuộc tờ bản đồ số 84
(281521- 9) L (N) Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh L cho ông Phan Phước Đ nhận
khoán.
Do đó về nguồn gốc và quá trình sử dụng thì diện tích 2.456.146m
2
trong đó
có các thửa đất 15, 16, 53, 61 và 62 là đất quốc phòng do quân đội quản lý.
[2.2] Bị đơn cho rằng toàn bộ diện tích có các thửa đất 15, 16, 53, 61 và 62
do gia đình khai hoang. Tuy nhiên, quá trình giải quyết vụ án không cung cấp được
các chứng cứ chứng minh cho lời trình bày của mình. Đồng thời, theo các tài liệu
nguyên đơn cung cấp là tờ khai “Đơn xin mượn đất” ngày 29/02/1992 của bà Phan
Thị L1 (là ruột của bị đơn) trình bày: “Nay tôi làm đơn này xin ban giám đốc
cho cháu tôi là Phan Phước Đ được nhận số đất hiện còn thừa của nông trường để
trực tiếp canh tác nuôi sống gia đình" “Đơn xin nhận khoán” ngày 01/3/1992
cũng của L1 thể hiện “Nguyên tôi đứa cháu tên Phan Phước Đ thường trú
tại B, huyện H, Quảng Nam Đ. Vì hoàn cảnh quá khổ sở, làm ăn không đủ nuôi
sống gia đình trong khi cha già, em nhỏ. Nay tôi m đơn này đến xin Ban giám
đốc xét cho tôi được nhận số đất còn trống để nhận khoán canh tác. Cháu tôi hứa
sẽ thực hiện đúng theo hợp đồng sau khi đã được ký kết".
Đến ngày 15/11/1998 ông Phan H (là cha của ông Đ) cũng “Bản khai
trình” có nội dung thể hiện năm 1992 ông Phan Phước Đ có nhận của Nông trường
10
8.000 thước vuông đất để sản xuất trồng phê. Sau khi nhận đất thì giữa Nông
trường 22/12 ông Đ cũng đã kết hợp đồng hợp tác sản xuất số 139/HĐ-GK
ngày 01/01/2006, phụ kiện hợp đồng hợp tác sản xuất số 139 hợp đồng giao
khoán chăm c vườn phê ngày 01/6/2011 đối với toàn bộ diện tích nêu trên
theo đó nông trường 22/12 giao khoán đất và cây trồng cho ông Đ nhận khoán thực
hiện đầu tư, chăm sóc vườn cây giao nộp sản phẩm cho nông trường. Đến năm
2009 ông Đ “Đơn xin xác nhận đất” với nội dung: “Hiện tôi đang hợp đồng
nhận khoán diện tích đất canh tác phê của đơn vị 22/12 Bộ Chỉ huy quân sự
tỉnh L (thuộc diện đất quốc phòng, quân đội quản lý) diện tích 17.594,5 m
2
gửi
cho Nông trường 22/12 xác nhận, mục đích xin xác nhận để vay vốn ngân hàng”.
Từ năm 2006 đến năm 2013 phía ông Đ đều đóng sản lượng đầy đủ cho nông
trường theo như các hợp đồng giao khoán đã ký kết (biên bản quyết toán hợp đồng
năm 2008, 2009, 2010, 2011, 2012, 2013). Như vậy, căn cứ vào các chứng cứ trên
thì đều thể hiện nguồn gốc đất ông Đ đang sử dụng đều thuộc quyền quản lý
của nông trường. Bên cạnh đó, quá trình sử dụng đấy thì ông Đ liên tiếp các
hợp đồng giao khoán với Nông trường 22/12 thực hiện nghĩa vụ thanh toán,
giao nộp sản lượng theo như hợp đồng (từ năm 2002- 2013) không tranh
chấp, khiếu nại về diện tích đất khoán từ khi hợp đồng cho đến năm 2013; điều
này thể hiện bị đơn thừa nhận diện tích đất nêu trên thuộc quyền sử dụng hợp pháp
của Nông trường 22/12 nên nay ông Đ cho rằng đất do ông khai hoang là không có
cơ sở.
[2.3] Về quá trình thực hiện hợp đồng giao khoán thì thấy rằng:
Đối với hợp đồng số 139/HD-GK phụ kiện hợp đồng hợp tác sản xuất số
139/PKHĐ thì thời hạn của hợp đồng 10 năm kể từ ngày 01/01/2006 đến ngày
31/12/2015. Do đó, hợp đồng đã hết thời hạn từ 2015 nhưng từ năm 2014 hộ ông Đ
không đóng sản lượng, không xin gia hạn hợp đồng không bàn giao lại tài sản
giao khoán cho nguyên đơn nên việc bị đơn vẫn tiếp tục canh tác, thu sản phẩm t
khi hết hạn hợp đồng đến nay không căn cứ. Đối với hợp đồng số 105/HĐ-
GK ngày 01/6/2011 tthời hạn của hợp đồng 10 năm kể từ ngày 01/01/2011
đến 31/12/2020. Tuy nhiên, cũng từ năm 2014 thì hộ ông Đ không thực hiện theo
hợp đồng giao khoán đã kết, không đóng sản lượng, từ năm 2020 ông Đ cũng
không xin gia hạn hợp đồng không bàn giao lại tài sản giao khoán cho nguyên
đơn mà cho rằng đất tự khai phá là không có cơ sở.
Do bị đơn vi phạm nghĩa vụ theo hợp đồng giao khoán đã ký kết, chiếm dụng
trái phép tài sản thuộc quyền quản của phía nguyên đơn trên thực tế các hợp
đồng này cũng đã hết hạn nên nguyên đơn khởi kiện yêu cầu chấm dứt các hợp
đồng giao khoán trên là có cơ sở chấp nhận.
[2.4] Về hậu quả pháp của việc chấm dứt hợp đồng giao khoán thì thấy
rằng:
11
Đối cây trồng trên các thửa đất 15, 16, 53, 61, 62, tờ bản đồ 84, L (N): Tòa
án cấp thẩm buộc nguyên đơn thanh toán cho bị đơn 25% giá trị của 2.445 cây
cà phê trên đất; trong khi đó các cây trồng khác bao gồm cây bơ, cây sầu riêng, cây
tiêu, cây mít, cây i, cây mận do bị đơn trồng cấp thẩm lại không xem xét; giải
quyết khi buộc gia đình ông Đ trả lại đất cho nguyên đơn chưa phù hợp; không
giải quyết triệt để vụ án.
[3] Từ những phân tích trên, Tòa án cấp thẩm chưa đánh giá đúng chưa
giải quyết toàn diện vụ án nên cần chấp nhận kháng cáo của ông Phan Phước Đ,
hủy toàn bộ Bản án sơ thẩm để giao hồ sơ cho Tòa án nhân dân huyện Di Linh giải
quyết lại theo quy định của pháp luật.
[4] Chi phí tố tụng sẽ được xem xét, giải quyết khi cấp thẩm giải quyết lại
vụ án.
[5] Về án phí: Do kháng cáo được chấp nhận nên ông Phan Phước Đ không
phải chịu án phí Dân sự phúc thẩm. Án pDân sự thẩm sđược xem xét, giải
quyết khi cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
- Căn cứ khoản 3 Điều 308 Bộ luật tố tụng Dân sự năm 2015;
- Căn cứ khoản 3 Điều 29 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm,
thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Chấp nhận kháng cáo của ông Phan Phước Đ.
Tuyên xử:
1. Hủy toàn bộ Bản án Dân s thm s 102/2023/DS-ST ngày 14/12/2023
của Tòa án nhân dân huyện Di Linh, tỉnh Lâm Đồng về việc “Tranh chấp hợp
đồng giao khoán” giữa Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Lâm Đồng và ông Phan Phước Đ;
người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan gồm Nguyễn Thị T1, cháu Phan Thị
Kiều M, cháu Phan Thị Kiều N, cháu Phan Phước Nguyên K, vợ chồng ông Phan
Phước V, bà Vũ Thị M1.
Giao hồ vụ án cho Tòa án nhân dân huyện Di Linh, tỉnh Lâm Đồng giải
quyết lại vụ án theo thủ tục chung.
2. Về án phí: ông Phan Phước Đ không phải chịu án phí Dân sphúc thẩm;
ông Đ được nhận lại stiền 300.000đ tạm ứng án phí Dân sự phúc thẩm đã nộp
theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0013057 ngày 19/10/2023 của
Chi cục Thi hành án Dân sự huyện huyện Di Linh, tỉnh Lâm Đồng.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
12
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Lâm Đồng (01);
- Phòng KT-NV & THA (01);
- TAND huyện Di Linh (01);
- Chi cục THADS huyện Di Linh (01);
- Các đương sự (07);
- Lưu: bộ phận lưu trữ, hồ sơ vụ án (03).
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Huỳnh Châu Thạch
Tải về
Bản án số 92/2024/DS-PT Bản án số 92/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 92/2024/DS-PT Bản án số 92/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất