Bản án số 39/2024/KDTM-PT ngày 29/08/2024 của TAND tỉnh Bình Dương về tranh chấp về xây dựng
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 39/2024/KDTM-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 39/2024/KDTM-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 39/2024/KDTM-PT
Tên Bản án: | Bản án số 39/2024/KDTM-PT ngày 29/08/2024 của TAND tỉnh Bình Dương về tranh chấp về xây dựng |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp về xây dựng |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Bình Dương |
Số hiệu: | 39/2024/KDTM-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 29/08/2024 |
Lĩnh vực: | Kinh doanh thương mại |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | tranh chấp hợp đồng xây dựng |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH BÌNH DƯƠNG
Bản án số: 39/2024/KDTM-PT
Ngày 29-8-2024
V/v tranh chấp hợp đồng xây dựng
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH DƯƠNG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa:
Các Thẩm phán:
Bà Trần Thị Thắm.
Ông Nguyễn Văn Tài;
Ông Phan Trí Dũng.
- Thư ký phiên tòa: Ông Đặng Hùng Cường - Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh Bình
Dương.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương tham gia phiên tòa:
Ông Nguyễn Thành Nhân – Kiểm sát viên.
Trong các ngày 26 và 29 tháng 8 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh
Bình Dương xét xử phúc thẩm công khai vụ án kinh doanh thương mại thụ lý số
31/2024/TLPT-KDTM ngày 28 tháng 7 năm 2024 về việc “Tranh chấp hợp đồng
xây dựng”.
Do Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 07/2024/KDTM-ST ngày
31/5/2024 của Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Bình Dương bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 16/2024/QĐXX-PT
ngày 26 tháng 7 năm 2024; Quyết định hoãn phiên tòa phúc thẩm số 30/2024/QĐ-
PT ngày 15 tháng 8 năm 2024, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Công ty Cổ phần Đ1 (viết tắt: Công ty Đ1); địa chỉ: Số A,
khu phố A, phường A, thành phố T, tỉnh Bình Dương.
Người đại diện hợp pháp: Ông Nguyễn Văn P, sinh năm 1984; địa chỉ liên
hệ: số B Đại lộ B, phường P, thành phố T, tỉnh Bình Dương là đại diện uỷ quyền
theo Giấy uỷ quyền số 36/2023/UQ-ĐP ngày 10/4/2023, có mặt.
- Bị đơn: Công ty Trách nhiệm hữu hạn S (viết tắt: Công ty S); địa chỉ: Lô
B-F-CN, đường D, khu công nghiệp M, phường T, thị xã (nay là thành phố ) B,
tỉnh Bình Dương.
Người đại diện hợp pháp: Ông Cao Văn Đ, sinh năm 1994 hoặc bà Võ Thị
H, sinh năm 1990; địa chỉ liên hệ: Lô B-6F2-CN, đường D, khu công nghiệp M,
2
phường T, thị xã (nay là thành phố ) B, tỉnh Bình Dương. Là đại diện theo uỷ
quyền theo Giấy uỷ quyền số 02/GUQ-SDVH ngày 13/8/2024, có mặt.
Người kháng cáo: Nguyên đơn Công ty Cổ phần Đ1.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Trong Đơn khởi kiện ngày 03/4/2023 và lời khai trong quá trình tham
gia tố tụng, người đại diện hợp pháp của nguyên đơn trình bày:
Công ty Cổ phần Đ1 và Công ty Trách nhiệm hữu hạn S có ký kết 2 Hợp
đồng, cụ thể:
Hợp đồng thứ nhất là Hợp đồng xây dựng số 02062019-QM/HĐXD ngày
02/6/2019, nội dung Công ty Đ1 thi công xây dựng nhà xưởng và công trình phụ
trợ [Điều 1 trang 3] cho Công ty S; giá trị thanh toán 13.350.000.000 đồng (đã
bao gồm 10% VAT).
Hợp đồng thứ hai là Hợp đồng xây dựng số
26022020/HĐXD/ĐP/SAMDUK ngày 26/02/2020, nội dung Công ty Đ1 thi công
xây lắp hạng mục phụ trợ đính kèm theo báo giá (nhà xe, công trình nhà nghỉ công
nhân, điện, điện lạnh và mua vật tư…cho bên Công ty S; giá trị 1.904.647.000
đồng (đã bao gồm 10% VAT).
Thời gian bảo hành công trình xây dựng (của hai hợp đồng) là 12 tháng kể
từ ngày bàn giao, nghiệm thu công trình.
Ngày 01/02/2020, hai bên nghiệm thu công trình xây dựng của cả 02 hợp
đồng xây dựng; sau khi nghiệm thu, Công ty S đưa công trình vào sử dụng.
Về việc thực hiện nghĩa vụ thanh toán:
- Hợp đồng thứ nhất, Công ty S đã thanh toán 95% giá trị (số tiền là
12.682.500.000 đồng); còn nợ lại 5% tiền bảo hành là 667.500.000 đồng (đã hết
thời gian bảo hành nhưng Công ty S không tự nguyện thanh toán);
- Hợp đồng thứ hai, Công ty S thanh toán được 927.097.000 đồng; còn nợ
lại 997.550.000 đồng (đã hết thời gian bảo hành nhưng Công ty S không tự nguyện
thanh toán).
Ngày 25/3/2021, hai bên thỏa thuận Công ty Đ1 giảm cho Công ty S số tiền
84.450.000 đồng, theo đó Công ty S còn nợ Công ty Đ1 số tiền 893.100.000 đồng
(đã bao gồm 10% VAT). Tổng cộng số tiền Công ty S1 còn nợ theo 02 hợp đồng
xây dựng là 1.560.600.000 đồng.
Ngoài ra, tại Biên bản làm việc ngày 25/3/2021, hai bên còn thỏa thuận:
Công ty Đ1 tiếp tục hoàn thành hồ sơ hoàn công theo đúng nội dung của giấy
phép xây dựng trong vòng 45 ngày, kể từ ngày ký biên bản này (từ ngày 25/3/2021
đến ngày 08/5/2021). Đến ngày 17/5/2021, Công ty Đ1 đã bàn giao cho Công ty
S gồm: Biên bản xác nhận hoàn công, giấy phép xây dựng và một số chứng từ
khác liên quan đến hồ sơ hoàn công. Như vậy, Công ty Đ1 đã hoàn thành các cam
kết trong Biên bản làm việc ngày 25/3/2021 cũng như đã hoàn thành đầy đủ các
nghĩa vụ trong hai hợp đồng xây dựng nói trên. Tuy nhiên, Công ty S không thanh
toán số tiền còn nợ là 1.560.600.000 đồng cho Công ty Đ1.
Do đó, ngày 14/02/2022, Công ty Đ1 nộp đơn khởi kiện đối với Công ty S
đến Tòa án nhân dân thị xã (nay là thành phố ) B, tỉnh Bình Dương và đã giải
3
quyết bằng Bản án số 07/2022/KDTM-ST ngày 26/8/2022, buộc Công ty S phải
có nghĩa vụ thanh toán cho Công ty Đ1 tổng số tiền là 1.560.600.000 đồng (chưa
tính/chưa khởi kiện tiền phạt vi phạm hợp đồng liên quan đến vi phạm nghĩa vụ
thanh toán của Công ty S).
Căn cứ yêu cầu khởi kiện và kết quả Bản án nêu trên và Điều VIII của Hợp
đồng thứ nhất liên quan đến phạt vi phạm nghĩa vụ thanh toán:“…Ngay sau khi
Bên A nhận được hóa đơn đỏ hoặc bản nghiệm thu công trình, trong vòng 10 ngày
làm việc, bên A phải thanh toán cho bên B. Nếu bên A không thanh toán cho bên
B theo đúng tiến độ của phương thức thanh toán trong hợp đồng, thì kể từ sau 10
ngày đó, bên A phải chịu phạt mỗi ngày 0,1% tổng giá trị hợp đồng…”. Vì vậy,
nay nguyên đơn Công ty Đ1 khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc Công ty S phải thanh
toán tiền phạt vi phạm của 02 hợp đồng tổng số tiền tạm tính từ ngày 17/5/2021
đến đến ngày 22/02/2023 (với mức phạt mỗi ngày 0,1%/tổng giá trị hợp đồng) là
8.969.732.436 đồng ngay sau khi Bản án có hiệu lực pháp luật; cụ thể: Hợp đồng
xây dựng số 02062019-QM/HĐXD ngày 02/6/2019 là 7.849.800.000 đồng và
Hợp đồng xây dựng số 26022020/HĐXD/ĐP/SAMDUK ngày 26/02/2020 là
1.119.932.436 đồng.
Tại Văn bản trình bày ý kiến đề ngày 02/6/2023 và lời khai trong quá trình
tham gia tố tụng, người đại diện hợp pháp của bị đơn trình bày:
Bị đơn thống nhất việc giữa Công ty Đ1 và Công ty S có ký kết 02 Hợp
đồng xây dựng số 02062019-QM/HĐXD ngày 02/6/2019 và số
26022020/HĐXD/ĐP/SAMDUK ngày 26/02/2020 và toàn bộ nội dung 02 hợp
đồng như phía nguyên đơn trình bày. Ngoài ra, ngày 25/3/2021, hai bên ký biên
bản làm việc thoả thuận: Công ty Đ1 tiếp tục hoàn thành hồ sơ hoàn công theo
đúng nội dung của giấy phép xây dựng trong vòng 45 ngày kể từ ngày ký biên
bản này (từ ngày 25/3/2021 đến ngày 08/5/2021). Tuy nhiên, đến ngày 17/5/2021,
Công ty Đ1 mới bàn giao cho Công ty S gồm: Biên bản xác nhận hoàn công, giấy
phép xây dựng và một số chứng từ khác liên quan đến hồ sơ hoàn công.
Trong quá trình thực hiện hợp đồng, hai bên có phát sinh tranh chấp về điều
khoản trách nhiệm hoàn thành thủ tục hoàn công nên Công ty S không thanh toán
khoản tiền còn lại cho Công ty Đ1. Tuy nhiên, việc này đã được Toà án nhân dân
tỉnh Bình Dương giải quyết bằng Bản án số 09/2023/KDTM-PT ngày 02/3/2023.
Sau đó, Công ty Đ1 đã làm đơn yêu cầu thi hành án và được Chi cục thi hành án
dân sự thị xã (nay là thành phố) B thi hành theo Quyết định số 1275/QĐ-
CCTHADS ngày 05/4/2023 và Công ty S cũng đã hoàn thành nghĩa vụ.
Tại đơn khởi kiện nguyên đơn căn cứ Điều VIII của Hợp đồng xây dựng số
02062019-QM/HĐXD ngày 02/6/2019:“…Ngay sau khi Bên A nhận được hóa
đơn đỏ hoặc bản nghiệm thu công trình, trong vòng 10 ngày làm việc, bên A phải
thanh toán cho bên B. Nếu bên A không thanh toán cho bên B theo đúng tiến độ
của phương thức thanh toán trong hợp đồng, thì kể từ sau 10 ngày đó, bên A phải
chịu phạt mỗi ngày 0,1% tổng giá trị hợp đồng…” để yêu cầu Công ty S trả tiền
phạt vi phạm hợp đồng. Mặc dù, hai bên thoả thuận phạt vi phạm hợp đồng nếu
thanh toán chậm là “mỗi ngày 0,1% tổng giá trị hợp đồng”. Tuy nhiên, việc thoả
thuận này không phù hợp với quy định pháp luật. Mặc khác, cả 02 hợp đồng do
4
Công ty Đ1 soạn thảo trong khi Công ty S là nhà đầu tư 100% vốn nước ngoài,
không phải là bên ở thế mạnh có quyền đưa ra các điều khoản để ký kết các hợp
đồng giao dịch với Công ty Đ1 có 100% vốn trong nước. Và Công ty Đ1 cũng là
người vi phạm hợp đồng không hoàn thành thủ tục nghiệm thu công trình theo
giấy phép xây dựng, trễ thời gian nghiệm thu theo thoả thuận làm ảnh hưởng đến
Công ty S không đăng ký xin giấy phép sở hữu công trình.
Do đó, trước yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, Công ty Trách nhiệm hữu
hạn S không đồng ý toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Lý do: Yêu cầu
khởi kiện của nguyên đơn đã được giải quyết bằng bản án có hiệu lực pháp luật.
Do đó, phía Công ty Trách nhiệm hữu hạn S đề nghị Toà án xem xét áp dụng điểm
g khoản 1 Điều 217 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 để đình chỉ giải quyết vụ
án dân sự nêu trên theo quy định pháp luật.
Tại phiên tòa sơ thẩm:
Đại diện nguyên đơn trình bày: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn
bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Căn cứ vào nội dung đơn khởi kiện, 02 hợp
đồng và Biên bản làm việc ngày 25/3/2021 mà các bên đã ký kết. Công ty Đ1 đã
thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ giao Biên bản xác nhận hoàn công, giấy phép
xây dựng và một số chứng từ khác liên quan đến hồ sơ hoàn công nhưng Công ty
S không thanh toán công nợ. Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm đã giải quyết vấn
đề công nợ nhưng chưa giải quyết tiền phạt vi phạm hợp đồng. Quá trình giải
quyết các bên cũng chưa thanh lý hợp đồng và Bản án cũng chưa tuyên chấm dứt
hợp đồng này nên hợp đồng còn hiệu lực và phát sinh quyền, nghĩa vụ của hai
bên. Theo điều khoản phạt vi phạm giữa hai bên quy định tại Điều VIII của Hợp
đồng xây dựng số 02062019-QM/HĐXD ngày 02/6/2019 thì phạt vi phạm hợp
đồng với mức phạt mỗi ngày 0,1%/tổng giá trị hợp đồng, tương đương 36,5%/năm
của tổng giá trị hợp đồng là không phù hợp với Luật Thương mại điều chỉnh (tức
tối đa phạt vi phạm là 8%). Do đó, Hội đồng xét xử có thể xem xét chấp nhận yêu
cầu khởi kiện của nguyên đơn với mức phạt vi phạm 8%/tổng giá trị hợp đồng thứ
nhất 13.350.000.000 đồng là hoàn toàn có căn cứ. Còn các vấn đề phát sinh liên
quan vốn điều lệ của Công ty S, đó là vấn đề của bị đơn, trong tình hình dịch bệnh
khó khăn Công ty Đ1 phải đi vay số tiền rất lớn, phải lo cho công nhân, tự bỏ tiền
ra xây dựng cho Công ty S. Ngoài ra, tại Biên bản làm việc 25/3/2021 các bên
không có thoả thuận nào thể hiện việc thay thế các điều khoản phạt vi phạm hợp
đồng. Nguyên đơn cũng đã chấp nhận mất đi số tiền 893.100.000 đồng theo Bản
án số 09/2023/KDTM-PT ngày 02/3/2023. Tuy nhiên, nguyên đơn vẫn xác định
giữ nguyên toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Đại diện bị đơn trình bày: Bị đơn xác định lại đối với phạt vi phạm hợp
đồng chưa được giải quyết. Tuy nhiên, mức phạt vi phạm hợp đồng mà nguyên
đơn yêu cầu là không phù hợp. Công ty S là nhà đầu tư 100% vốn nước ngoài với
vốn điều lệ khoảng 10 tỷ đồng, trong khi nguyên đơn yêu cầu tiền phạt vi phạm
hợp đồng gần 9 tỷ đồng, trường hợp Toà án chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn
thì bị đơn chỉ có thể giải thể, phá sản. Đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết theo
quy định pháp luật.
5
Thứ nhất, xét thỏa thuận của các bên tại 02 hợp đồng xây dựng đã ký kết
có các điều khoản vi phạm pháp luật. Ví dụ: Thỏa thuận thẩm quyền giải quyết
tranh chấp... Tại bản án sơ thẩm và phúc thẩm trước đây phạm vi khởi kiện ban
đầu chỉ là công nợ nên các nội dung khác chưa xem xét, chứ không phải công
nhận tất cả các điều khoản trong hợp đồng đều có hiệu lực. Xét nội dung hợp đồng
ký kết thì đây là một dạng hợp đồng thương mại. Mức phạt vi phạm được các bên
thỏa thuận là mỗi ngày 0,1%/tổng giá trị hợp đồng là không phù hợp với quy định
của pháp luật về mức phạt vi phạm quy định tại Điều 301 Luật Thương mại năm
2005, cụ thể là 8% trên phần nghĩa vụ vi phạm.
Thứ hai, xét về hành vi vi phạm nghĩa vụ và lỗi thì trong trường hợp này
Công ty S không vi phạm nghĩa vụ, Công ty Đ1 là bên vi phạm vì theo thỏa thuận
tại Biên bản làm việc ngày 25/3/2021, Công ty Đ1 có nghĩa vụ thực hiện hoàn
công trong thời gian 45 ngày (đến ngày 08/5/2021). Biên bản này do bên Công ty
Đ1 soạn thảo, nhưng đến ngày 17/5/2021, Công ty Đ1 mới bàn giao hồ sơ nghiệm
thu công trình cho Công ty S và chỉ hoàn thành 3/7 hạng mục công trình. Nguyên
đơn cho rằng kết quả nghiệm thu trễ hạn là do Văn bản số 314/PC07-CTPC ngày
02/6/2020 có thiếu sót so với giấy phép xây dựng, cần có thời gian điều chỉnh.
Tuy nhiên, theo thỏa thuận của hợp đồng thì việc lắp đặt thiết bị, nghiệm thu
phòng cháy và chữa cháy là của nguyên đơn, văn bản nghiệm thu phòng cháy và
chữa cháy thực hiện xong từ 02/6/2020 nhưng nguyên đơn không kiểm tra, đến
khi nộp để cơ quan có thẩm quyền nghiệm thu công trình xây dựng thì phát hiện
có sai sót phải điều chỉnh lại, vì lý do này mà nguyên đơn không thực hiện đúng
thời hạn khi ký cam kết với bị đơn là có lỗi nên không được miễn trách nhiệm.
Mặt khác, 02 hợp đồng do nguyên đơn soạn thảo đều có quy định về điều khoản
bất khả kháng, trường hợp chậm trễ trong việc thực hiện trách nhiệm của nguyên
đơn không nằm trong điều khoản bất khả kháng mà hai bên đã thỏa thuận. Do đó,
nguyên đơn Công ty Đ1 phải chịu mất số tiền 893.100.000 đồng. Sở dĩ, Bản án
phúc thẩm chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là do theo thỏa
thuận giữa các bên, nếu Công ty Đ1 vi phạm thời gian thực hiện nghĩa vụ thì Công
ty S có quyền dùng số tiền 667.500.000 đồng để thuê đơn vị khác thực hiện phần
công việc mà Công ty Đ1 vi phạm. Sau khi Công ty Đ1 có vi phạm, Công ty S đã
sử dụng biên bản nghiệm thu do Công ty Đ1 cung cấp để hoàn tất thủ tục hoàn
công. Do đó, Công ty S phải trả cho Công ty Đ1 số tiền 667.500.000 đồng xem
như tiền thuê đơn vị khác thực hiện. Việc chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện
không phải do Công ty S có lỗi. Sau khi Bản án số 09/2023/KDTM-PT ngày
02/3/2023 có hiệu lực. Công ty Đ1 đã làm đơn yêu cầu thi hành án và được Chi
cục thi hành án dân sự thị xã (nay là thành phố) B thi hành theo Quyết định số
1275/QĐ-CCTHADS ngày 05/4/2023 và Công ty S cũng đã hoàn thành nghĩa vụ
này.
Tại Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 07/2024/KDTM-ST ngày
31/5/2024, Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Bình Dương đã quyết định:
6
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Công ty Cổ phần
Đ1 đối với bị đơn Công ty Trách nhiệm hữu hạn S về việc: “Tranh chấp hợp đồng
xây dựng”.
Buộc Công ty Trách nhiệm hữu hạn S phải thanh toán cho Công ty Cổ phần
Đ1 số tiền là 53.400.000 đồng (năm mươi ba triệu bốn trăm nghìn đồng) ngay sau
khi bản án có hiệu lực pháp luật.
Kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án cho đến khi
thi hành xong, nếu người phải thi hành án chậm thi hành án thì còn phải trả tiền
lãi, theo mức lãi suất quy định tại Điều 357 và khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân
sự tương ứng với số tiền và thời gian chậm thi hành án.
2. Về án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm:
Công ty Cổ phần Đ1 phải chịu số tiền 116.916.332 đồng (một trăm mười
sáu triệu chín trăm mười sáu nghìn ba trăm ba mươi hai đồng), được khấu trừ vào
số tiền 58.484.866 đồng (năm mươi tám triệu bốn trăm tám mươi tư nghìn tám
trăm sáu mươi sáu đồng) tạm ứng án phí đã nộp tại Biên lai thu tạm ứng án phí,
lệ phí Tòa án số AA/2021/0011192 ngày 12/5/2023 của Chi cục Thi hành án dân
sự thị xã (nay là thành phố ) B, tỉnh Bình Dương. Công ty Cổ phần Đ1 còn phải
nộp thêm số tiền 58.431.466 đồng (năm mươi tám triệu bốn trăm ba mươi mốt
nghìn bốn trăm sáu mươi sáu đồng).
Công ty trách nhiệm hữu hạn S phải chịu số tiền 3.000.000 đồng (ba triệu
đồng).
Ngoài ra, bản án còn tuyên về trách nhiệm thi hành án và quyền kháng cáo
của các đương sự.
Ngày 10/6/2024, nguyên đơn Công ty Cổ phần Đ1 kháng cáo toàn bộ bản
án sơ thẩm, đề nghị sửa án sơ thẩm theo hướng chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi
kiện của nguyên đơn. Tại đơn trình bày ý kiến về việc kháng cáo ngày 21/8/2024,
người kháng cáo thay đổi nội dung kháng cáo và yêu cầu khởi kiện, chỉ yêu cầu
Toà án buộc bị đơn phải chịu phạt do vi phạm hợp đồng xây dựng số 02062019-
QM/HĐXD ngày 02/6/2019 với số tiền là 4.305.375.000 đồng.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
- Nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo, đề nghị sửa bản án sơ thẩm
theo hướng buộc bị đơn chịu khoản tiền phạt do vi phạm hợp đồng với số tiền là
4.305.375.000 đồng.
- Bị đơn mặc dù không đồng ý với phần quyết định của bản án sơ thẩm về
việc buộc bị đơn phải chịu phạt vi phạm với số tiền là 53.400.000 đồng nhưng do
số tiền không lớn nên chấp nhận để giảm một phần thiệt hại cho nguyên đơn.
Các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết toàn bộ
vụ án.
Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương phát biểu ý kiến:
7
Về tố tụng: Những người tiến hành tố tụng và tham gia tố tụng tại Tòa án
cấp phúc thẩm đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Về nội dung: Xét thấy, việc tranh chấp giữa nguyên đơn và bị đơn đã được
giải quyết tại Bản án số 09/2023/KDTM-PT ngày 02/3/2023 Toà án nhân dân tỉnh
Bình Dương. Bản án này đã có hiệu lực pháp luật và bị đơn đã thực hiện xong
nghĩa vụ theo biên lai thu tiền thi hành án số AA/2021/0005558 ngày 17/5/2023
của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã (nay là thành phố) B. Đây là tình tiết, sự
kiện không phải chứng minh theo quy định tại Điều 92 của Bộ luật Tố tụng dân
sự năm 2015.
Tuy nhiên, tại Bản án số 07/2022/KDTM-ST ngày 26/8/2022 của Toà án
nhân dân thị xã (nay là thành phố) B và Bản án số 09/2023/KDTM-PT ngày
02/3/2023 Toà án nhân dân tỉnh Bình Dương chưa xem xét, giải quyết số tiền phạt
vi phạm hợp đồng, điều này phù hợp với lời khai của đương sự trong quá trình
tham gia tố tụng nên có cơ sở xem xét yêu cầu của nguyên đơn về việc yêu cầu bị
đơn thanh toán tiền phạt vi phạm hợp đồng. Theo quy định tại khoản 1 Điều 146
Luật Xây dựng thì: “Thưởng, phạt hợp đồng xây dựng phải được các bên thoả
thuận và ghi trong hợp đồng” nhưng không quy định rõ mức phạt hợp đồng. Xét
các bên xảy ra tranh chấp về hợp đồng xây dựng phát sinh trong hoạt động kinh
doanh thương mại nên cấp sơ thẩm áp dụng mức phạt vi phạm 8% để buộc bị đơn
phải thanh toán cho nguyên đơn số tiền 53.400.000 đồng là phù hợp.
Từ những phân tích trên, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều
308 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015 không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn,
giữ nguyên bản án sơ thẩm. Về kiến nghị, khắc phục thiếu sót: Không.
Sau khi nghiên cứu tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại
phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, lời trình bày của các đương
sự và ý kiến của Kiểm sát viên,
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Thủ tục tố tụng: Đơn kháng cáo của nguyên đơn Công ty Cổ phần Đ1
trong thời hạn luật định, có nội dung, hình thức phù hợp với quy định tại các
Điều 272, 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự nên đủ điều kiện để thụ lý và xét xử
theo thủ tục phúc thẩm, quá trình xét xử phúc thẩm nguyên đơn có thay đổi yêu
cầu kháng cáo, xét việc thay đổi này không vượt quá phạm vi khởi kiện và kháng
cáo ban đầu, phù hợp quy định tại khoản 2 Điều 284 Bộ luật Tố tụng dân sự nên
chấp nhận.
[2] Về nội dung vụ án:
Nguyên đơn Công ty Cổ phần Đ1 khởi kiện yêu cầu bị đơn Công ty Trách
nhiệm hữu hạn S phải thanh toán tiền phạt vi phạm của Hợp đồng xây dựng số
02062019-QM/HĐXD ngày 02/6/2019 và Hợp đồng xây dựng số
26022020/HĐXD/ĐP/SAMDUK ngày 26/02/2020 với tổng số tiền tạm tính từ
ngày 17/5/2021 đến ngày 22/02/2023 là 8.969.732.436 đồng ngay sau khi Bản án
có hiệu lực pháp luật. Bị đơn Công ty trách nhiệm hữu hạn S không đồng ý với
8
yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn vì tại Bản án số 09/2023/KDTM-PT ngày
02/3/2023 của Toà án nhân dân tỉnh Bình Dương khi giải quyết tranh chấp liên
quan đến khoản tiền chưa thanh toán của hai hợp đồng nêu trên đã xác định bị
đơn không có lỗi khi chậm thực hiện nghĩa vụ thanh toán cho nguyên đơn. Hiện
nay, bị đơn đã thanh toán xong khoản tiền 5% còn lại của Hợp đồng xây dựng số
02062019-QM/HĐXD ngày 02/6/2019 sau khi có quyết định thi hành án.
[3] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và kháng cáo của nguyên đơn
Công ty Cổ phần Đ1 nhận thấy:
Nguyên đơn và bị đơn có ký Hợp đồng xây dựng số 02062019-QM/HĐXD
ngày 02/6/2019 và Hợp đồng xây dựng số 26022020/HĐXD/ĐP/SAMDUK ngày
26/02/2020, theo đó Bên A (bị đơn) thuê bên B (nguyên đơn) thi công xây dựng
nhà xưởng và công trình phụ trợ gồm nhà xe, công trình nhà nghỉ công nhân, điện,
điện lạnh và mua vật tư…cho bên A. Tổng giá trị 02 hợp đồng là 15.254.647.000
đồng. Ngày 01/3/2020, hai bên nghiệm thu công trình xây dựng của cả 02 hợp
đồng xây dựng; sau khi nghiệm thu, Công ty S đưa công trình vào xây dựng. Bên
A đã thanh toán cho bên B tổng số tiền 13.609.597.000 đồng, gồm: Hợp đồng số
02062019-QM/HĐXD là 12.682.500.000 đồng, còn nợ 667.500.000 đồng; Hợp
đồng 26022020/HĐXD/ĐP/SAMDUK là 927.097.000 đồng, còn nợ 977.550.000
đồng, tổng hai Hợp đồng còn nợ 1.645.050.000 đồng, bên B đồng ý giảm cho bên
A 84.450.000 đồng nên còn lại 1.560.600.000 đồng.
Theo thoả thuận tại hợp đồng thì nguyên đơn có trách nhiệm thực hiện các
thủ tục giấy tờ pháp lý liên quan đến công trình như: Đánh giá tác động môi
trường, Văn bản nghiệm thu về phòng cháy chữa cháy, hoàn thành thủ tục nghiệm
thu công trình (văn bản nghiệm thu công trình của cơ quan có thẩm quyền làm
căn cứ cho việc cấp quyền sở hữu công trình) nhưng tại thời điểm nghiệm thu
công trình đưa vào sử dụng thì nguyên đơn chưa hoàn thành thủ tục này. Ngày
25/3/2021, nguyên đơn và bị đơn ký biên bản làm việc thống nhất nội dung sau:
Công ty S còn nợ Công ty Đ1 số tiền của Hợp đồng số 02062019-QM/HĐXD là
667.500.000 đồng và số tiền 884.450.000 đồng (làm tròn số còn 800.000.000
đồng) và tiền bảo hành 93.100.000 đồng của Hợp đồng số
26022020/HĐXD/ĐP/SAMDUK. Trong thời hạn 45 ngày tính từ ngày 25/3/2021
đến hết ngày 08/5/2021, Công ty Đ1 “phải hoàn thành hồ sơ hoàn công” (tức là
phải có văn bản nghiệm thu công trình của cơ quan có thẩm quyền) và bàn giao
cho Công ty S, khi đó Công ty S sẽ thanh toán số tiền còn lại cho Công ty Đ1.
Nếu Công ty Đ1 vi phạm thời gian cam kết việc hoàn thành thủ tục hoàn công thì
phải chịu mất số tiền 884.450.000 đồng (làm tròn số còn 800.000.000 đồng) và
tiền bảo hành 93.100.000 đồng; số tiền 667.500.000 đồng Công ty S sẽ thuê đơn
vị khác làm giấy tờ hoàn công, sau khi trừ chi phí còn trả lại cho Công ty Đ1.
Ngày 14/02/2022, Công ty Đ1 khởi kiện yêu cầu Công ty Đ2 số tiền còn nợ của
hai Hợp đồng là 1.560.600.000 đồng. Vụ án đã được giải quyết tại Bản án kinh
doanh, thương mại sơ thẩm số 07/2022/KDTM-ST ngày 26/8/2022 của Tòa án
nhân dân thị xã (nay là thành phố ) B, tỉnh Bình Dương và Bản án Kinh doanh
thương mại phúc thẩm số 09/2023/KDTM-PT ngày 02/3/2023 của Toà án nhân
9
dân tỉnh Bình Dương. Đây là tình tiết, sự kiện không phải chứng minh theo quy
định tại Điều 92 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
Tại Bản án Kinh doanh thương mại phúc thẩm số 09/2023/KDTM-PT ngày
02/3/2023 của Toà án nhân dân tỉnh Bình Dương đã xác định: Biên bản làm việc
ngày 25/3/2021 được xem là một phần của 02 hợp đồng thi công xây dựng mà hai
bên đã ký; trong đó nêu rõ quyền và nghĩa vụ của hai bên về trách nhiệm hoàn
thành việc nghiệm thu công trình của cơ quan có thẩm quyền, thời hạn hoàn thành
và chế tài khi vi phạm thỏa thuận. Xét biên bản làm việc ngày 25/3/2021 giữa hai
bên có nội dung phù hợp với quy định về “hợp đồng dịch vụ” được quy định từ
Điều 513 đến 521 của Bộ luật Dân sự năm 2015; hai bên phải chịu trách nhiệm
do vi phạm thỏa thuận về phần dịch vụ trong hợp đồng xây dựng công trình mà
hai bên đã ký, do nguyên đơn không thực hiện đúng thời hạn khi ký cam kết với
bị đơn là có lỗi nên không được miễn trách nhiệm và trong 02 hợp đồng do nguyên
đơn soạn thảo đều có quy định về điều khoản bất khả kháng, trường hợp chậm trễ
trong việc thực hiện trách nhiệm của nguyên đơn không nằm trong điều khoản bất
khả kháng mà hai bên đã thỏa thuận nên nguyên đơn bị mất số tiền 893.100.000
đồng (số tiền còn lại của Hợp đồng xây dựng số 26022020/HĐXD/ĐP/SAMDUK
ngày 26/02/2020). Đối với số tiền 667.500.000 đồng thì mặc dù văn bản nghiệm
thu công trình không đầy đủ như giấy phép xây dựng nhưng thực tế Công ty S sử
dụng văn bản nghiệm thu công trình ngày 12/5/2021 để nộp hồ sơ đăng ký quyền
sở hữu công trình nên buộc bị đơn phải trả lại số tiền trên cho nguyên đơn.
Nguyên đơn cũng thừa nhận Biên bản làm việc ngày 25/3/2021 được xem
như là phụ lục của hợp đồng và tại đơn khởi kiện đề ngày 03/4/2023, nguyên đơn
chỉ yêu cầu Toà án giải quyết buộc bị đơn phải chịu phạt vi phạm do chậm thực
hiện nghĩa vụ thanh toán tính từ ngày 17/5/2021. Như vậy, dù Bản án số
07/2022/KDTM-ST ngày 26/8/2022 của Toà án nhân dân thị xã (nay là thành phố)
B và Bản án số 09/2023/KDTM-PT ngày 02/3/2023 Toà án nhân dân tỉnh Bình
Dương chưa xem xét, giải quyết về phạt vi phạm hợp đồng nhưng đã xác định bị
đơn không có lỗi khi không thanh toán khoản tiền còn lại cho nguyên đơn.
[4] Toà án sơ thẩm xác định tại Bản án số 07/2022/KDTM-ST ngày
26/8/2022 của Toà án nhân dân thị xã (nay là thành phố) B và Bản án số
09/2023/KDTM-PT ngày 02/3/2023 Toà án nhân dân tỉnh Bình Dương chưa xem
xét, giải quyết số tiền phạt vi phạm hợp đồng, điều này phù hợp với lời khai của
đương sự trong quá trình tham gia tố tụng nên chấp nhận một phần yêu cầu khởi
kiện của nguyên đơn và buộc bị đơn phải chịu phạt đối với số tiền 53.400.000
đồng (8% x 667.500.000 đồng = 53.400.000 đồng) là không phù hợp. Bởi lẽ, tại
Bản án số 09/2023/KDTM-PT ngày 02/3/2023 Toà án nhân dân tỉnh Bình Dương
đã xác định: nguyên đơn không thực hiện đúng thời hạn khi ký cam kết với bị đơn
là có lỗi nên không được miễn trách nhiệm. Tuy nhiên, Công ty S sử dụng văn
bản nghiệm thu công trình ngày 12/5/2021 để nộp hồ sơ đăng ký quyền sở hữu
công trình; do đó, Công ty S phải trả lại số tiền 667.500.000 đồng cho Công ty
Đ1.
10
Tuy nhiên, bị đơn không kháng cáo về phần này và tại phiên toà phúc thẩm
người đại diện hợp pháp của bị đơn đồng ý thanh toán khoản tiền này cho nguyên
đơn, xét đây là sự tự nguyện của đương sự nên Hội đồng xét xử ghi nhận.
[5] Từ những phân tích trên nhận thấy nguyên đơn kháng cáo nhưng không
cung cấp được chứng cứ nào chứng minh cho yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn
là có căn cứ nên kháng cáo của nguyên đơn không được chấp nhận. Quan điểm
của Kiểm sát viên tại phiên tòa về việc không chấp nhận kháng cáo của nguyên là
phù hợp.
Mặc dù cấp phúc thẩm không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn
nhưng tại phần Quyết định của bản án sơ thẩm chưa xác định rõ phần chấp nhận,
phần không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn nên Toà án cấp phúc
thẩm sửa lại phần này để việc thi hành án rõ ràng hơn.
[6] Về án phí:
[6.1] Án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm: Nguyên đơn phải chịu án phí
đối với yêu cầu khởi kiện không được chấp nhận sau khi khấu trừ số tiền bị đơn
đồng ý trả cho nguyên đơn. Bị đơn phải chịu án phí đối với số tiền phải trả cho
nguyên đơn, cụ thể:
Nguyên đơn phải chịu án phí đối với yêu cầu khởi kiện không được chấp
nhận là: 8.969.732.436 đồng – 53.400.000 đồng = 8.916.332.436 đồng.
Bị đơn phải chịu án phí đối với số tiền chấp nhận trả cho nguyên đơn là
53.400.000 đồng.
[6.2] Án phí kinh doanh thương mại phúc thẩm: Do không được chấp nhận
kháng cáo nên nguyên đơn phải chịu án phí kinh doanh thương mại phúc thẩm
theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 148, khoản 2 Điều 284; khoản 1 Điều 308, Điều 313
Bộ luật Tố tụng dân sự;
Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016
của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Khóa XIV quy định về mức thu, miễn, giảm,
thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
1. Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn Công ty Cổ phần
Đ1.
2. Sửa Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 07/2024/KDTM-ST
ngày 31/5/2024 của Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Bình Dương như sau:
2.1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Công ty Cổ
phần Đ1 đối với bị đơn Công ty Trách nhiệm hữu hạn S về việc: “Tranh chấp hợp
đồng xây dựng”.
11
Ghi nhận sự tự nguyện của Công ty Trách nhiệm hữu hạn S về việc thanh
toán cho Công ty Cổ phần Đ1 số tiền là 53.400.000 đồng (năm mươi ba triệu bốn
trăm nghìn đồng).
Kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án cho đến khi
thi hành xong, nếu người phải thi hành án chậm thi hành án thì còn phải trả tiền
lãi, theo mức lãi suất quy định tại Điều 357 và khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân
sự tương ứng với số tiền và thời gian chậm thi hành án.
2.2. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Công ty Cổ phần
Đ1 về việc buộc bị đơn Công ty trách nhiệm hữu hạn S thanh toán khoản tiền phạt
do vi phạm hợp đồng là 8.916.332.436 đồng (tám tỷ chín trăm mười sáu triệu ba
trăm ba mươi hai nghìn, bốn trăm ba mươi hai đồng).
2.3. Về án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm:
Công ty Cổ phần Đ1 phải chịu số tiền 116.916.332 đồng (một trăm mười sáu
triệu chín trăm mười sáu nghìn ba trăm ba mươi hai đồng), được khấu trừ vào số
tiền 58.484.866 đồng (năm mươi tám triệu bốn trăm tám mươi tư nghìn tám trăm
sáu mươi sáu đồng) tạm ứng án phí đã nộp tại Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí
Tòa án số AA/2021/0011192 ngày 12/5/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự thị
xã (nay là thành phố ) B, tỉnh Bình Dương. Công ty Cổ phần Đ1 còn phải nộp
thêm số tiền 58.431.466 đồng (năm mươi tám triệu bốn trăm ba mươi mốt nghìn
bốn trăm sáu mươi sáu đồng).
Công ty Trách nhiệm hữu hạn S phải chịu số tiền 3.000.000 đồng (ba triệu
đồng).
2.4. Án phí kinh doanh thương mại phúc thẩm:
Công ty Cổ phần Đ1 phải chịu 2.000.000 đồng, được khấu trừ tiền tạm ứng
án phí đã nộp 2.000.000 đồng theo Biên lai thu tiền số 0003373 ngày 18/6/2024
của Cục Thi hành án dân sự thành phố B, tỉnh Bình Dương, nguyên đơn đã nộp
đủ án phí phúc thẩm.
Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành
án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có
quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án
hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành
án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi
hành án dân sự./.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Bình Dương;
- Chi cục THADS thành phố B;
- TAND thành phố B;
- Các đương sự;
- Lưu: HCTP, HSVA.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
12
Trần Thị Thắm
HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
Thẩm phán thành viên T - Chủ Tọa Phiên Tòa
Tải về
Bản án số 39/2024/KDTM-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 39/2024/KDTM-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 07/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 30/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 30/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 27/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 27/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 20/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 11/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 11/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 11/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 10/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 10/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 06/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 24/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 23/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 19/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 18/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 11/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 08/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 01/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm