Bản án số 37/2024/KDTM-PT ngày 11/09/2024 của TAND tỉnh Bình Dương về tranh chấp về xây dựng
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 37/2024/KDTM-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 37/2024/KDTM-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 37/2024/KDTM-PT
Tên Bản án: | Bản án số 37/2024/KDTM-PT ngày 11/09/2024 của TAND tỉnh Bình Dương về tranh chấp về xây dựng |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp về xây dựng |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Bình Dương |
Số hiệu: | 37/2024/KDTM-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 11/09/2024 |
Lĩnh vực: | Kinh doanh thương mại |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Tranh chấp hợp đồng xây dựng |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH BÌNH DƯƠNG
Bản án số: 37/2024/KDTM-PT
Ngày 05-8-2024
V/v Tranh chấp hợp đồng xây dựng
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH DƯƠNG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa:
Các Thẩm phán:
Bà Trần Thị Thắm.
Ông Nguyễn Văn Tài;
Ông Phan Trí Dũng.
- Thư ký phiên tòa: Ông Phan Hoàng Khang - Thư ký Tòa án nhân dân
tỉnh Bình Dương.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương tham gia phiên
tòa: Ông Trần Văn Bé – Kiểm sát viên.
Trong các ngày 29 tháng 7 và 05 tháng 8 năm 2024, tại trụ sở Tòa án
nhân dân tỉnh Bình Dương xét xử phúc thẩm công khai vụ án kinh doanh thương
mại thụ lý số 18/2024/TLPT-KDTM ngày 15 tháng 5 năm 2024 về việc “Tranh
chấp hợp đồng xây dựng”.
Do Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 07/2024/KDMT-ST ngày
25 tháng 3 năm 2024 của Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh Bình Dương bị kháng
cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 31/2024/QĐ-PT ngày
25 tháng 6 năm 2024, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Công ty TNHH X; địa chỉ: số I P, Tổ I, khu A, phường C,
thành phố T, tỉnh Bình Dương; Người đại diện theo pháp luật: Ông Đặng Hoàng
V – chức danh: Giám đốc, có mặt.
- Bị đơn: Công ty TNHH T2; địa chỉ: số I khu phố B, phường B, thành phố
T, tỉnh Bình Dương. Người đại diện theo pháp luật: Ông Trần Minh D – chức
danh: Giám đốc.
Người đại diện hợp pháp: Bà Nguyễn Anh P, sinh năm 2000; địa chỉ: số E,
đường N, phường P, thành phố T, tỉnh Bình Dương, là người đại diện theo ủy
quyền (theo văn bản ngày 23/7/2024), có mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
2
1. Công ty T2; địa chỉ: Số B đường C, phường P, thành phố T, tỉnh Bình
Dương. Người đại diện hợp pháp: Ông Lê Minh Quốc V1 – chức vụ: Giám đốc,
là người đại diện theo pháp luật; ông Phạm Minh T, sinh năm 1977; địa chỉ: Tổ
A, khu phố F, phường U, thành phố T, tỉnh Bình Dương, là người đại diện theo
ủy quyền (Văn bản ngày 29/12/2023), vắng mặt và có đơn yêu cầu xét xử vắng
mặt.
2. Công ty TNHH Đ; địa chỉ: Số I khu phố B, phường B, thành phố T, tỉnh
Bình Dương. Người đại diện hợp pháp: Ông Trần Minh D – chức danh: Giám đốc,
là người đại diện theo pháp luật.
Người đại diện hợp pháp: Bà Vũ Thị Kim Á, sinh năm 1989; địa chỉ: số E,
đường N, phường P, thành phố T, tỉnh Bình Dương, là người đại diện theo ủy
quyền (theo văn bản ngày 26/7/2024), có mặt.
- Người kháng cáo: bị đơn Công ty TNHH T2.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo nội dung bản án sơ thẩm:
Theo đơn khởi kiện, quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa người đại
diện hợp pháp của nguyên đơn trình bày:
Công ty TNHH X (Công ty X) và Công ty TNHH T2 (Công ty T2) có ký
hợp đồng kinh tế với nhau. Cụ thể, ngày 18/5/2020 ký hợp đồng số 45/HĐKT-20
về việc thi công Công trình đường dây trung hạ thế và 05 trạm biến áp III-400kva
+ 02 TBAIII-320kva + 02TBA III-50kVA khu nhà ở T - T tại đường T, khu phố
T, phường T, thành phố T, tỉnh Bình Dương. Tổng giá trị hợp đồng:
12.080.000.000 đồng, thanh toán thành 05 đợt:
Đợt 1: Công ty T2 ứng cho Công ty X 10% tổng giá trị hợp đồng với số tiền
là: 1.208.000.000 đồng ngay sau khi 02 bên ký kết hợp đồng kinh tế.
Đợt 2: Công ty T2 ứng cho Công ty X 20% tổng giá trị hợp đồng với số tiền
là: 2.416.000.000 đồng ngay sau khi bên B hoàn tất hạng mục hoàn thiện mặt
bằng lắp ống cáp ngầm trung thế, lắp ống cáp ngầm hạ thế, dựng trụ trung thế,
móng tủ hạ thế.
Đợt 3: Công ty T2 ứng cho Công ty X 25% tổng giá trị hợp đồng với số tiền
là: 3.020.000.000 đồng ngay sau khi Công ty T2 hoàn tất thi công trạm biến áp.
Đợt 4: Công ty T2 ứng cho Công ty X 25% tổng giá trị hợp đồng với số tiền
là: 3.020.000.000 đồng ngay sau khi Công ty T2 hoàn tất thi công đường dây trung
thế.
Đợt 5: Ngay sau khi nghiệm thu bàn giao hoàn tất công trình và Công ty T2
cung cấp hóa đơn tài chính, ký nghiệm thu 3 bên, bàn giao cho điện lực T2. Công
ty T2 thanh toán tiếp cho Công ty X 20% giá trị hợp đồng với số tiền là
2.416.000.000 đồng.
3
Công ty X đã hoàn thành công việc theo hợp đồng, công trình đã được
nghiệm thu, đưa vào vận hành ngày 28/01/2021, đã được Công ty T2 đưa vào hoạt
động ổn định cho đến nay.
Tuy nhiên Công ty T2 chỉ thanh toán số tiền đợt 1, đợt 2, đợt 3 và đợt 4,
riêng đợt 5 Công ty T2 chưa thanh toán cho Công ty X số tiền còn lại của hợp
đồng là 2.416.000.000 đồng. Việc chậm thanh toán của bị đơn ảnh hưởng nghiêm
trọng quyền lợi của Công ty X. Do vậy Công ty X khởi kiện yêu cầu buộc bị đơn
phải trả số tiền thanh toán đợt 5 là 2.416.000.000 đồng và tiền lãi chậm thanh toán
từ ngày 28/02/2021 số tiền 473.536.000 đồng (Lãi suất 7%/năm). Tại phiên tòa
nguyên đơn rút một phần yêu cầu khởi kiện về việc tính lãi, cụ thể yêu cầu tính
lãi chậm thanh toán từ ngày 27/7/2021 đến ngày xét xử với số tiền là 450.047.100
đồng.
Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, người đại diện hợp pháp của bị
đơn trình bày:
Thống nhất với trình bày của nguyên đơn về việc các bên có ký kết hợp đồng
kinh tế số 45/HĐKT-20 về việc thi công Công trình đường dây trung hạ thế và 05
trạm biến áp III-400kva + 02 TBAIII-320kva + 02TBA III-50kVA khu nhà ở T -
T tại đường T, khu phố T, phường T, thành phố T, tỉnh Bình Dương. Tổng giá trị
hợp đồng: 12.080.000.000 đồng, thanh toán thành 05 đợt như nguyên đơn trình
bày. Mục đích của công trình là để cung cấp điện sinh hoạt cho khu dân cư thuộc
dự án do Công ty TNHH Đ tại phường T, thành phố T, tỉnh Bình Dương.
Nguyên đơn đã hoàn thành công trình điện theo hợp đồng, công trình điện
đã được nghiệm thu, đưa vào vận hành ngày 28/01/2021, cung cấp điện sinh hoạt
cho khu dân cư ổn định cho đến nay. Quá trình vận hành, sử dụng chưa thấy có
vấn đề gì về chất lượng.
Theo thoản thuận thanh toán của hợp đồng thì bị đơn đã thanh toán đầy đủ
số tiền của đợt 1, đợt 2, đợt 3 và đợt 4. Riêng số tiền đợt 5 là 2.416.000.000 đồng
còn lại thì bị đơn chưa thanh toán với lý do là đến nay Công ty T2 chưa tiếp nhận
bàn giao công trình điện trên.
Trước yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, bị đơn xác định chưa thanh toán
số tiền đợt 5 là 2.416.000.000 đồng, bị đơn đồng ý tiếp tục thanh toán sau khi
Điện lực T2 tiếp nhận bàn giao công trình điện. Về yêu cầu tính lãi chậm thanh
toán thì bị đơn không đồng ý.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Công ty T2 trình bày:
Ngày 29/6/2022, Công ty T2 có nhận được văn bản số 2906/TB-2022 ngày
29/6/2022 của Công ty Đ về việc xem xét tiếp nhận bàn giao lưới điện trung hạ
thế công trình đường dây trung hạ thế và 05 trạm biến áp III-400kva + 02 TBAIII-
320kva + 02TBA III-50kVA khu nhà ở T - T. Công ty T2 đã có văn bản phúc đáp
số 3691/PCBD-KT ngày 14/7/2022 nội dung phúc đáp tạm thời chưa thể thực hiện
tiếp nhận tài sản lưới điện Khu nhà ở T - T. Việc giao nhận tài sản sẽ được Công
ty T2 triển khai ngay khi có hướng dẫn của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và
hướng dẫn của đơn vị chủ quản cấp trên. Về việc thỏa thuận đấu nối công trình
4
điện và nghiệm thu công trình điện, đây là thủ tục quy định theo pháp luật đối với
khách hàng sử dụng trạm điện riêng đấu nối vào lưới điện quốc gia được quy định
tại khoản 2 Điều 45 và khoản 2 Điều 51 của Thông tư số 39/2015/TT-BCT ngày
18/11/2015 của Bộ C. Tại Văn bản số 3486/EVN SPC-TCKT ngày 06/5/2022 của
Tổng Công ty Đ1 ghi rõ kể từ năm 2022, các đơn vị không thực hiện tiếp nhận tài
sản từ nguồn vốn ngoài ngân sách Nhà nước cho đến khi có văn bản hướng dẫn
của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Tại thời điểm trước năm 2022 thì Công ty
T2 vẫn tiếp nhận tài sản lưới điện từ nguồn vốn ngoài ngân sách Nhà nước bình
thường theo đúng quy định.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Công ty TNHH Đ, người đại diện
ông Trần Minh D trình bày:
Công ty Đ và Công ty T2 đều do ông Trần Minh D đại diện theo pháp luật.
Hiện hệ thống lưới điện đang sử dụng ổn định, an toàn. Công ty Đ không có ý
kiến, yêu cầu gì.
Tại Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 07/2024/KDTM-ST ngày
25/3/2024, Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh Bình Dương đã quyết định:
1. Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Công ty TNHH X
về việc tính lãi chậm thanh toán từ ngày 28/02/2021 đến ngày 27/7/2021 số tiền
23.488.900 đồng.
2. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Công ty TNHH X về việc
“Tranh chấp hợp đồng thi công” với bị đơn Công ty TNHH T2.
Buộc Công ty TNHH T2 phải thanh toán cho Công ty TNHH X
2.866.047.100 đồng (Hai tỷ tám trăm sáu mươi sáu triệu không trăm bốn mươi
bảy nghìn một trăm đồng), gồm nợ gốc 2.416.000.000 đồng và tiền lãi chậm thanh
toán từ ngày 27/7/2021 đến ngày 26/3/2024 số tiền 450.047.100 đồng.
Ngoài ra, bản án còn tuyên về án phí, trách nhiệm thi hành án và quyền
kháng cáo của các đương sự.
Ngày 08/4/2024, bị đơn Công ty TNHH T2 kháng cáo toàn bộ bản án sơ
thẩm, đề nghị cấp phúc thẩm sửa án theo hướng không chấp nhận yêu cầu khởi
kiện của nguyên đơn.
Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương phát biểu quan điểm:
Về tố tụng: Những người tiến hành tố tụng và tham gia tố tụng đã thực
hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự tại Tòa án cấp phúc thẩm.
Về nội dung: Công ty X và Công ty T2 chỉ tranh chấp khoản thanh toán
đợt 5 với số tiền 2.461.000.000 đồng tương đương 20% giá trị hợp đồng kinh tế
số 45/HĐKT-20 ngày 18/5/2020 đã ký kết. Bị đơn xác định chưa thanh toán tiền
đợt 5 vì nguyên đơn chưa thực hiện thủ tục bàn giao lưới điện cho điện lực T2.
Căn cứ quy định tại Điều 3 Hợp đồng nêu trên thể hiện: “Ngay sau khi nghiệm thu
bàn giao hoàn tất công trình và bên B (tức Công ty X) sẽ cung cấp hóa đơn tài
chính, ký nghiệm thu 3 bên, bàn giao cho Điện lực T2. Bên A (tức Công ty T2) sẽ
thanh toán cho bên B 20% giá trị hợp đồng với số tiền 2.416.000.000 đồng”. Quá
5
trình tố tụng, bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan xác nhận: Ngày
25/8/2020, các bên gồm Công ty Đ, Công ty X và đại diện đơn vị quản lý vận
hành Điện lực T, đơn vị giám sát thi công điện lực T2 và Công ty T2 đã ký biên
bản nghiệm thu đóng điện vận hành và kết luận công trình đạt yêu cầu kỹ thuật
cho phép đóng điện nghiệm thu. Như vậy, đối chiếu điểm c khoản 2 Điều 2 Thỏa
thuận đấu nối ngày 25/8/2020 giữa Công ty T2 với Công ty Đ thì: “Sau khi công
trình hoàn thành nghiệm thu đưa vào sử dụng thì bên B (tức Công ty Đ) sẽ bàn
giao không yêu cầu hoàn vốn đầu tư toàn bộ tài sản và các thiết bị đi kèm cho bên
A (tức Công ty T2). Biên bản bàn giao sẽ được hai bên ký ngay sau khi nghiệm
thu đóng điện đưa công trình vào vận hành”. Như vậy, trách nhiệm bàn giao công
trình là của chủ đầu tư Công ty Đ với Điện lực T2. Do đó, bị đơn căn cứ Điều 5
của Hợp đồng cho rằng công trình chưa được Điện lực Bình Dương tiếp nhận
thuộc nghĩa vụ của Công ty X để từ chối thanh toán tiền đợt 5 là không phù hợp.
Cấp sơ thẩm chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ.
Bị đơn kháng cáo nhưng không cung cấp được tài liệu, chứng cứ chứng minh nên
không có căn cứ xem xét.
Từ những phân tích trên, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 308
Bộ luật Tố tụng dân sự, đề nghị Hội đồng xét xử giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Sau khi nghiên cứu tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại
phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, lời trình bày của các đương
sự và ý kiến của Kiểm sát viên,
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Về thủ tục tố tụng:
[1] Về tính hợp pháp của đơn kháng cáo: Ngày 25/3/2024, Tòa án nhân dân
thành phố T xét xử sơ thẩm vụ án. Ngày 08/4/2024, Công ty TNHH T2 kháng cáo
là trong hạn luật định; đơn kháng cáo có nội dung hình thức phù hợp với quy định
của pháp luật nên đủ điều kiện để thụ lý và xét xử theo thủ tục phúc thẩm.
[2] Tại đơn kháng cáo của bị đơn ngày 25/3/2024, Công ty TNHH T2 chỉ
kháng cáo đối với phần quyết định của bản án sơ thẩm về việc buộc Công ty
TNHH T2 phải thanh toán cho Công ty TNHH X 2.866.047.100 đồng (Hai tỷ tám
trăm sáu mươi sáu triệu không trăm bốn mươi bảy nghìn một trăm đồng), gồm
nợ gốc 2.416.000.000 đồng và tiền lãi chậm thanh toán từ ngày 27/7/2021 đến
ngày 26/3/2024 số tiền 450.047.100 đồng. Các phần còn lại của bản án sơ thẩm
Công ty TNHH T2 không kháng cáo, các đương sự còn lại không ai kháng cáo,
Viện Kiểm sát không kháng nghị nên đã phát sinh hiệu lực pháp luật. Căn cứ
Điều 293 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án cấp phúc thẩm chỉ xem xét giải quyết
trong phạm vi nội dung kháng cáo của Công ty TNHH T2.
[3] Về nội dung: Công ty TNHH T2 và Công ty TNHH Đ là hai pháp
nhân độc lập nhưng cùng chủ đầu tư. Trong quá trình đầu tư Dự án Khu nhà ở T
- T thì Công ty TNHH Đ có ký hợp đồng thuê Công ty TNHH T2 thực hiện xây
dựng cơ sở hạ tầng cho Dự án.
6
Ngày 18/5/2020, Công ty TNHH T2 đã ký Hợp đồng cung cấp vật tư thiết
bị và thi công công trình số 45/HĐKT-20 với Công ty TNHH X để Công ty TNHH
X thi công Công trình đường dây trung hạ thế và 05 trạm biến áp III-400kva + 02
TBAIII-320kva + 02TBA III-50kVA khu nhà ở T - T tại đường T, khu phố T,
phường T, thành phố T, tỉnh Bình Dương. Tổng giá trị công trình là
12.080.000.000 đồng, thời gian thi công là 90 ngày, kể từ ngày Công ty TNHH
T2 bàn giao mặt bằng. Về phương thức thanh toán được chia thành 05 đợt, tương
ứng với tiến độ thực hiện công việc của Công ty TNHH X.
Ngày 25/8/2020, Công ty TNHH Đ ký Thoả thuận đấu nối số 111/BB-
PCBD với Công ty T2 về việc đấu nối lưới điện của Công ty TNHH Đ vào lưới
điện phân phối đối với Công trình: Đường dây trung hạ thế và 05 TBA III-
400kVA+02 TBA III-320kVA+02 TBA III-50kVA khu nhà ở T - T.
Ngày 28/01/2021, Công trình hoàn thành, được nghiệm thu đóng điện vận
hành cho đến nay. Căn cứ thoả thuận của Hợp đồng đã ký nên Công ty TNHH X
yêu cầu Công ty TNHH T2 thanh toán tiền đợt 5 của Hợp đồng cung cấp vật tư
thiết bị và thi công công trình số 45/HĐKT-20 ngày 18/5/2020 với số tiền
2.416.000.000 đồng và tiền lãi chậm thanh toán từ ngày 27/7/2021 đến ngày
26/3/2024 số tiền 450.047.100 đồng. Công ty TNHH T2 xác nhận chưa thanh toán
số tiền đợt 5 là 2.416.000.000 đồng nhưng chỉ đồng ý tiếp tục thanh toán sau khi
Điện lực T2 tiếp nhận bàn giao công trình điện mà Công ty TNHH X đã thi công,
không đồng ý tính lãi.
[4] Xét kháng cáo của Công ty TNHH T2 nhận thấy: Tại mục 3.4 Điều 3
Hợp đồng cung cấp vật tư thiết bị và thi công công trình số 45/HĐKT-20 ngày
18/5/2020 quy định: “Đợt 5: Ngay sau khi nghiệm thu bàn giao hoàn tất công
trình và bên B (Công ty X) cung cấp hóa đơn tài chính, ký nghiệm thu 3 bên, bàn
giao cho điện lực T2. Công ty T2 thanh toán tiếp cho Công ty X 20% giá trị hợp
đồng với số tiền là 2.416.000.000 đồng”. Tại mục 5.2 Điều 5 của Hợp đồng cũng
chỉ quy định “ Bên B (Công ty X) có trách nhiệm lập thủ tục tiếp nhận bàn giao
lưới diện cho Điện lực T”, không có điều khoản ràng buộc về việc phải có biên
bản bàn giao công trình với Công ty T2. Đồng thời, tại điểm c khoản 2 Điều 2 của
bản Thoả thuận đấu nối số 111/BB-PCBD ký giữa Công ty TNHH Đ và Công ty
T2 cũng nêu “Sau khi công trình hoàn thành nghiệm thu đưa vào sử dụng: phần
đường dây trung áp 22kV dài 827m, đường dây hạ áp 0,4kV dài 3.150m,
05TBAIII-400kVA+02TBAIII-320kvA (cấp điện cho phụ tải nhà liên kế): Bên B
(Công ty Đ) sẽ bàn giao không yêu cầu hoàn vốn đầu tư toàn bộ tài sản và các
thiết bị đi kèm cho bên A (Công ty T2). Biên bản bàn giao sẽ được hai bên ký kết
ngay khi nghiệm thu đóng điện đưa công trình vào vận hành”. Như vậy, việc ký
biên bản bàn giao Công ty TNHH Đ và Công ty T2 liên quan đến công trình do
nguyên đơn thi công không thuộc trách nhiệm của nguyên đơn. Quá trình tố tụng,
bị đơn thừa nhận, công trình đã được nghiệm thu 04 bên gồm: Công ty TNHH Đ;
Công ty TNHH X; Công ty T2, đã đấu nối vào hệ thống lưới điện do Công ty T2
quản lý, Điện lực T2 đã trực tiếp bán điện cho dân thuộc dự án khu nhà ở T - T sử
dụng từ ngày 28/01/2021 đến nay, nguyên đơn đã xuất hoá đơn. Do đó, bị đơn
cho rằng chưa có biên bản bàn giao giữa Công ty TNHH Đ và Công ty T2 nên
7
chưa thanh toán tiền đợt 5 cho nguyên đơn là không có căn cứ. Cấp sơ thẩm xác
định nguyên đơn đã hoàn thành nghĩa vụ theo thoả thuận tại Hợp đồng nên buộc
bị đơn phải thanh toán tiền đợt 5 với số tiền 2.416.000.000 đồng là có cơ sở chấp
nhận.
Tại Hợp đồng cung cấp vật tư thiết bị và thi công công trình số 45/HĐKT-
20 ngày 18/5/2020 các bên không quy định về phạt vi phạm do chậm thực hiện
nghĩa vụ thanh toán. Ngày 27/7/2021, nguyên đơn đã xuất hoá đơn cho bị đơn
nhưng bị đơn chưa thanh toán tiền cho nguyên đơn nên phải chịu mức lãi suất nợ
quá hạn trung bình trên thị trường của ít nhất 03 (ba) ngân hàng thương mại (Ngân
hàng thương mại cổ phần N, Ngân hàng thương mại cổ phần C1, Ngân hàng N1,...)
tại thời điểm thanh toán theo quy định tại Điều 306 của Luật Thương mại và khoản
11 Điều 10 Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11/01/2019 của Hội đồng
Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp
luật về lãi, lãi suất, phạt vi phạm. Căn cứ vào mức lãi suất do 03 ngân hàng trên
cung cấp tại thời điểm xét xử sơ thẩm thì mức lãi suất bình quân là 10%/năm
nhưng nguyên đơn chỉ yêu cầu bị đơn thanh toán lãi chậm thanh toán với lãi suất
7%/năm là phù hợp quy định của pháp luật, có lợi cho bị đơn, cấp sơ thẩm chấp
nhận yêu cầu này của nguyên đơn là phù hợp.
Tại cấp phúc thẩm, bị đơn kháng cáo nhưng không cung cấp được chứng
cứ nào chứng minh cho yêu cầu kháng cáo của mình là có căn cứ nên kháng cáo
của bị đơn không được chấp nhận. Ý kiến của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân
tỉnh Bình Dương tại phiên tòa đề nghị không chấp nhận kháng cáo của bị đơn, giữ
nguyên bản án sơ thẩm là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp
nhận.
[5] Về án phí:
[5.1] Về án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm: Các đương sự phải chịu
theo quy định của pháp luật
[5.2] Về án phí kinh doanh thương mại phúc thẩm: Người kháng cáo phải
chịu theo quy định.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ Điều 148, khoản 1 Điều 308, Điều 313 của Bộ luật Tố tụng dân sự,
Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị đơn Công ty TNHH T2.
Giữ nguyên Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 07/2024/KDTM-
ST ngày 25/3/2024 của Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh Bình Dương như sau:
1. Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Công ty TNHH X
về việc tính lãi chậm thanh toán từ ngày 28/02/2021 đến ngày 27/7/2021 số tiền
23.488.900 đồng.
2. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Công ty TNHH X về việc
“Tranh chấp hợp đồng thi công” với bị đơn Công ty TNHH T2.
8
Buộc Công ty TNHH T2 phải thanh toán cho Công ty TNHH X số tiền
2.866.047.100 đồng (Hai tỷ tám trăm sáu mươi sáu triệu không trăm bốn mươi
bảy nghìn một trăm đồng), gồm nợ gốc 2.416.000.000 đồng và tiền lãi chậm thanh
toán từ ngày 27/7/2021 đến ngày 26/3/2024 số tiền 450.047.100 đồng.
Kể từ ngày 26/3/2024 cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án
còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy
định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.
3. Về án phí sơ thẩm:
- Buộc Công ty TNHH T2 phải chịu 89.320.942 đồng (T1 mươi chín triệu
ba trăm hai mươi nghìn chín trăm bốn mươi hai đồng) án phí kinh doanh thương
mại sơ thẩm.
- Trả lại cho Công ty TNHH X tạm ứng án phí 51.631.000 đồng đã nộp
theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0001752 ngày 13/12/2023 và
0001861 ngày 12/01/2024 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố T.
4. Về án phí phúc thẩm: Công ty TNHH T2 phải chịu số tiền 2.000.000
đồng (hai triệu đồng), được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp theo Biên
lai thu tạm ứng số 0001274 ngày 10/4/2024 của Chi cục Thi hành án dân sự
thành phố T, tỉnh Bình Dương.
Theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành
án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền
yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy
định tại các Điều 6, 7A và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được
thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Bình Dương;
- Chi cục THADS thành phố T;
- TAND thành phố T;
- Các đương sự;
- Lưu: HCTP, HSVA.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Trần Thị Thắm
Hội đồng xét xử sơ thẩm
Thành viên Hội đồng xét xử Thẩm phán- Chủ toạ phiên toà
Tải về
Bản án số 37/2024/KDTM-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 37/2024/KDTM-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 07/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 30/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 30/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 27/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 27/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 20/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 11/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 11/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 10/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 10/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 06/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 29/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 24/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 23/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 19/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 18/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 11/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 08/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 01/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm