Bản án số 190/2025/DS-PT ngày 18/03/2025 của TAND tỉnh Long An về tranh chấp hợp đồng tín dụng

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 190/2025/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 190/2025/DS-PT ngày 18/03/2025 của TAND tỉnh Long An về tranh chấp hợp đồng tín dụng
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng tín dụng
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Long An
Số hiệu: 190/2025/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 18/03/2025
Lĩnh vực: Kinh doanh thương mại
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Ngân hàng TMCP S "Tranh chấp hợp đồng tín dụng" Nguyễn Thị Ngọc B
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH LONG AN
Bản án số: 190/2025/DS-PT
Ngày: 18-03-2025
V/v tranh chấp hợp đồng tín dụng
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH LONG AN
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: bà Phan Ngọc Hoàng Đình Thục
Các Thẩm phán: bà Huỳnh Thị Hồng Vân
ông Đinh Tiền Phương
- Thư phiên tòa: Phạm Thùy Dương Thư Tòa án nhân dân tỉnh
Long An.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Long An tham gia phiên tòa:
Nguyễn Thị Tho - Kiểm sát viên.
Ngày 18 tháng 03 m 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Long An xét x
phúc thẩm công khai ván thụ lý số 108/2025/TLPT-DS ngày 10 tháng 02 năm
2025 về việc “Tranh chấp hợp đồng tín dụng”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 140/2024/DS-ST ngày 24 tháng 12 năm 2024
của Tòa án nhân dân huyện Bến Lức, tỉnh Long An bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 68/2025/QĐ-PT ngày 25 tháng 02
năm 2025, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ngân hàng TMCP S (S1); địa chỉ trụ sở chính: Số B N,
Phường V, Quận C, Thành phố Hồ Chí Minh.
Người đại diện theo pháp luật: Nguyễn Đức Thạch D (Tổng Giám đốc)
Người đại diện theo ủy quyền: ông Ngô Vĩnh P (Chuyên viên quản tín
dụng và kiểm soát rủi ro – theo văn bản ủy quyền ngày 21/6/2024).
Địa chỉ liên hệ: 18A Nguyễn Hữu T, Khu phố C, thị trấn B, huyện B, tỉnh
Long An.
- Bị đơn: bà Nguyễn Thị Ngọc B, sinh năm 1976; địa chỉ: p G, xã N, huyện
B, tỉnh Long An.
- Người kháng cáo: bị đơn, bà Nguyễn Thị Ngọc B.
(Ông Ngô Vĩnh P, bà Nguyễn Thị Ngọc B có mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện ghi ngày 21/6/2024 trong quá trình giải quyết vụ án
tại cấp sơ thẩm, nguyên đơn Ngân hàng TMCP S (sau đây viết tắt là Ngân hàng)
do ông Ngô Vĩnh P đại diện theo y quyền trình bày:
Năm 2022, Nguyễn Thị Ngọc B với Ngân hàng 01 hợp đồng sử
dụng thẻ tín dụng (bao gồm giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng ngày,
điều khoản điều kiện phát hành sử dụng thẻ tín dụng nhân của Ngân
hàng các tài liệu này được gọi chung hợp đồng). Căn cứ thu nhập của
Nguyễn Thị Ngọc B, Ngân hàng đã đồng ý cấp thtín dụng như sau: hạn mức sử
dụng là: 30.000.000 đồng; mục đích: tiêu dùng cá nhân; lãi suất thẻ: 2,6%/tháng
(=31,2%/năm); phương thức thanh toán: chủ thẻ sẽ chịu trách nhiệm thanh toán
tổng số tiền đến hạn và/hoặc trước ngày đến hạn như được nêu trong thông báo
hàng tháng gửi cho chủ thẻ. Tuy nhiên, chủ thẻ sẽ có quyền chọn lựa thanh toán
tổng số tiền đến hạn, số tiền tối thiểu hoặc một khoản tiền trong khoảng giữa của
tổng số tiền đến hạn và số tiền tối thiểu để thanh toán cho đơn vị phát hành thẻ.
Ngân hàng đã giải ngân cho B số tiền 20.000.000 đồng (nhận tiền mặt
tại quầy giao dịch của Ngân hàng) theo Giấy rút tiền số TT22179XZW29 ngày
28/6/2022 cấp phát thẻ tín dụng, số thẻ 356480-0796, số CardCode
3646261242 theo Phiếu yêu cầu ngày 27/6/2022.
Sau khi được cấp thẻ n dụng, Nguyễn Thị Ngọc B đã thực hiện các
giao dịch với tổng số tiền 13.430.000 đồng, bảng sao số thẻ 356480-
0796. Ngân hàng đã thông báo biến động số trên thẻ về số điện thoại
B đã đăng ký là 0354498960.
Trong quá trình sử dụng thẻ, từ ngày kích hoạt thẻ đến nay bà Nguyễn Thị
Ngọc B đã thanh toán cho Ngân hàng số tiền 20.308.338 đồng thì ngưng không
thanh toán nữa. Riêng giấy nộp tiền ngày 11/10/2022 do bà B cung cấp thể hiện
số tiền đã nộp 1.804.000 đồng, tuy nhiên nội dung chuyển tiền là nạp điện
tử “napvidientu” nên hiện tại số tiền này vẫn còn trên ví điện tử của bà B, Ngân
hàng không thu khoản tiền này. Do đó, B thể ra quầy giao dịch của Ngân
hàng rút tiền về hoặc chuyển trả nợ cho Ngân hàng.
Qua nhiều lần làm việc, nhắc nhở nhưng Nguyễn Thị Ngọc B vẫn không
có thiện chí trả nợ. Do bà Nguyễn Thị Ngọc B vi phạm nghĩa vụ thanh toán, căn
cứ Điều 20, Điều 24 của điều khoản điều kiện phát hành sử dụng thẻ tín
dụng nhân của Ngân hàng, Ngân hàng đã chuyển toàn bộ nợ còn thiếu sang
nợ quá hạn. Theo quy định tại mục 24.4 của bản điều khoản và điều kiện phát
hành và sử dụng thẻ tín dụng cá nhân của Ngân hàng, thì khi có vi phạm xảy ra
Ngân hàng được quyền Tiến hành các biện pháp cần thiết để thu hồi nợ … khởi
kiện chủ thẻ”. Do B vi phạm nghĩa vụ thanh toán nên Ngân hàng khởi kiện để
thu hồi nợ trước hạn.
Nay, Ngân hàng yêu cầu Nguyễn Thị Ngọc B phải hoàn trả cho Ngân
hàng tổng cộng số tiền tạm tính đến hết ngày 20/6/2024, Nguyễn Thị Ngọc B
còn nợ các khoản sau: nợ gốc: 15.966.791 đồng; lãi vay: 12.749.193 đồng; tổng
cộng: 28.715.984 đồng; yêu cầu bà B phải tiếp tục chịu tiền lãi phát sinh từ ngày
21/6/2024 theo mức lãi suất quy định tại hợp đồng cho đến khi thanh toán hết
toàn bộ số tiền trên.
Bị đơn bà Nguyễn Thị Ngọc B trình bày:
Ngày 28/6/2022, bà vay của Ngân hàng số tiền 20.000.000 đồng, thời
hạn 12 tháng, mỗi tháng trả số tiền 1.844.000 đồng. Cùng ngày 28/6/2022, bà đã
nhận tiền mặt tại quầy giao dịch của Ngân hàng số tiền 20.000.000 đồng, theo
Giấy rút tiền số TT22179XZW29.
đã trả cho Ngân hàng A kỳ, được tổng cộng số tiền 22.112.338 đồng,
theo phương thức nộp tiền trực tiếp tại quầy giao dịch của Ngân hàng, cụ thể:
- Ngày 11/7/2022 trả số tiền 1.850.000đồng;
- Ngày 10/8/2022 trả số tiền 1.843.340đồng;
- Ngày 12/9/2022 trả số tiền 1.847.000đồng;
- Ngày 11/10/2022 trả số tiền 1.804.000đồng;
- Ngày 11/11/2022 trả số tiền 1.846.332đồng;
- Ngày 12/12/2022 trả số tiền 1.846.666đồng;
- Ngày 11/01/2023 trả số tiền 1.850.000đồng;
- Ngày 13/02/2023 trả số tiền 1.850.000đồng;
- Ngày 13/3/2023 trả số tiền 1.841.000đồng;
- Ngày 11/4/2023 trả số tiền 1.846.000đồng;
- Ngày 11/5/2023 trả số tiền 1.844.000đồng;
- Ngày 12/6/2023 trả số tiền 1.844.000đồng;
Ngoài ra, giữa bà và Ngân hàng không còn giao dịch nào khác.
xác định chữ ký “Bé” chviết Nguyễn Thị Ngọc B” tại mục chữ
họ tên của chủ thẻ chính tại Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm Hợp đồng
ngày 13/6/2022 là chữ ký và chữ viết của bà. Mặc dù, bà có mở thẻ tín dụng tại
Ngân hàng, nhưng chỉ vay của Ngân hàng số tiền 20.000.000 đồng, không
vay số tiền 30.000.000 đồng. hoàn toàn không rút tiền trong thẻ. Bà sử
dụng đăng báo biến động số dư qua số điện thoại 0354498960, nhận
thông báo tin nhắn biến động s dư, nhưng xác định bà không sdụng stiền
trong thẻ tín dụng như Ngân hàng đã trình bày nên không đồng ý yêu cầu khởi
kiện của Ngân hàng.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 140/2024/DS-ST ngày 24 tháng 12 năm 2024
của Tòa án nhân dân huyện Bến Lức, tỉnh Long An đã xử (tóm tắt):
“Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng TMCP S đối với Nguyễn
Thị Ngọc B v vic tranh chấp hợp đồng tín dụng.
Buộc bà Nguyễn Thị Ngọc B trách nhiệm hoàn trả cho Ngân hàng TMCP
S tổng cộng số tiền tạm tính đến ngày 20/6/2024 là 28.715.984 đồng, trong đó nợ
gốc là 15.966.791đồng, nợ lãi là: 12.749.193 đồng.
Kể từ ngày 21/6/2024, Nguyễn Thị Ngọc B còn phải tiếp tục chịu khoản
tiền lãi phát sinh trên số nợ gốc theo mức lãi suất thỏa thuận quy định tại “Giấy
đề ngh cấp thẻ tín dụng kiêm Hợp đồng ngày 13/6/2022” cho đến khi thanh toán
xong hết nợ.”
Ngoài ra, bản án thẩm còn tuyên về nghĩa vchịu lãi nếu chậm thi hành
án, án phí, quyền, thời hạn kháng cáo, quyền nghĩa vụ thi hành án của các
đương sự.
Ngày 09/01/2025, bà Nguyễn Thị Ngọc B kháng cáo.
Tại phiên tòa phúc thẩm,
Nguyễn Thị Ngọc B trình bày: mặc con của sử dụng điện thoại
của bà, nhưng sử dụng để chơi trò chơi trên điện thoại; còn thẻ tín dụng vẫn
trực tiếp quản lý, nhưng không sử dụng để t tiền hay chuyển tiền, nên bà không
đồng ý yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng.
Ông Ngô Vĩnh P trình bày: Ngân hàng đều thông báo biến động số trên
thẻ đến số điện thoại B đã đăng ký. Việc B nạp tiền mặt, số tiền 1.804.000
đồng vào ngày 11/10/2022 tại quầy giao dịch của Ngân hàng nội dung nạp
điện tử “napvidientu”, Ngân hàng đã nhiều lần giải thích đnghị B cho
chuyển khoản tiền này sang đthanh toán nợ thẻ nhưng B không hợp tác, không
nghe giải thích của nhân viên Ngân hàng nên đến nay số tiền này vẫn còn nằm
trong tài khoản ví điện tử của bà B.
Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Long An phát biểu ý kiến:
Về tố tụng: Tòa án cấp phúc thẩm và các đương sự chấp hành đúng quy định
của Bộ luật Tố tụng dân sự. Kháng cáo của bị đơn, Nguyễn Thị Ngọc B đủ
điu kiện đ xem xét theo trình t phúc thm.
Về nội dung kháng cáo: B kháng cáo, nhưng không cung cấp được chứng
cứ gì mới để chứng minh, trong khi theo bảng sao kê do Ngân hàng cung cấp thì
bà B có thực hiện các giao dịch chuyển tiền qua thẻ tín dụng. Do đó, đề nghị Hội
đồng xét xử phúc thẩm căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự,
không chấp nhận kháng cáo ca bà B, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Kháng cáo của bị đơn, Nguyễn Thị Ngọc B thực hiện đúng theo quy
định tại Điều 271, Điều 272, Điều 273 Điều 276 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Người khởi kiện vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện. Người kháng cáo giữ nguyên
yêu cầu kháng cáo. Các đương skhông tự thỏa thuận được vviệc giải quyết
toàn bộ vụ án. Vụ án được xét xử theo thủ tục phúc thm.
[2] Về xác định quan hệ pháp luật tranh chấp: theo đơn khởi kiện quá trình
giải quyết vụ án, các đương stranh chấp về hợp đồng tín dụng. Tòa án cấp
thẩm xác định quan hệ pháp luật tranh chấp trong vụ án là: “Tranh chấp hợp đồng
tín dụng” là đúng quy định tại khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm
a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[3] Theo trình bày của các đương sự tại phiên tòa phúc thẩm tài liệu
trong hvụ án thể hiện, tcác tình tiết, skiện sau đây không phải chứng
minh theo quy định tại khoản 2 Điều 92 của Bộ luật Tố tụng dân sự: Ngân hàng
Nguyễn Thị Ngọc B kết giao dịch vay tiền, theo “Giấy đề nghị cấp
thẻ tín dụng kiêm Hợp đồng ngày 13/6/2022” (các bút lục từ số B, 71); Ngân hàng
đã cấp phát thẻ tín dụng, số th356480-0796, số CardCode 3646261242 cho
B, theo Phiếu yêu cầu ngày 27/6/2022 (bút lục số 47); số điện thoại di động của
B đăng nhận thông báo từ Ngân hàng số 0354498960 (bút lục số 36);
Ngân hàng đã giải ngân cho B số tiền 20.000.000 đồng bằng hình thức B
nhận tiền mặt tại quầy giao dịch của Ngân ng, theo Giấy rút tiền số
TT22179XZW29 ngày 28/6/2022 (bút lục số 59); B đã đóng tiền gốc và lãi cho
Ngân hàng được tổng cộng số tiền 20.308.338 đồng (các bút lục số 59-65).
[4] Các đương scòn tranh chấp stiền 13.430.000 đồng Ngân hàng cho
rằng B đã sử dụng thẻ tín dụng đthanh toán mục đích số tiền 1.804.000
đồng bà B đã nộp cho Ngân hàng vào ngày 11/10/2022.
[5] Xét kháng cáo của bà Nguyễn Thị Ngọc B cho rằng không rút tiền từ thẻ
tín dụng, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận thấy: theo bảng sao chi tiết số thẻ
356480-0796 do Ngân hàng cung cấp (các bút lục số 50, 54-57), thể hiện bà B
đã giao dịch với tổng stiền 13.430.000 đồng. B thừa nhận rằng, nhận
được thông báo của Ngân hàng trên điện thoại di động của (số điện thoại
0354498960) mi khi có biến động số dư trên thẻ tín dụng (bút lục số 75), nhưng
lại không phản ánh đến Ngân hàng về việc các thông báo này là không
chính xác. Cho đến khi Ngân hàng khởi kiện, thì B nại rằng không biết
không có giao dịch thẻ không hợp lý. Mặt khác, theo bảng sao kê thể hiện, đa
số các giao dịch trên thtín dụng của B chuyển tiền vào tài khoản của số
điện thoại 0325951729 mạng Viettel mang tên con của bà B Nguyễn Thị Kim
T1 số điện thoại 0973959306 mạng Viettel mang tên chồng của B Nguyễn
Văn H. Do đó, tại đoạn [2.3] phần nhận định của bản án thẩm, Tòa án cấp
thẩm đã nhận định rằng, việc B không thanh toán theo đúng thỏa thuận trong
Hợp đồng là vi phạm nghĩa vụ quy định tại Điều 20, Điều 24 của bản điều khoản
điều kiện phát hành và sử dụng thẻ tín dụng nhân, làm cho quyền lợi của
Ngân hàng bị xâm phạm, từ đó, áp dụng Điều 466 Bộ luật Dân sự năm 2015 để
buộc bà B phải có trách nhiệm thanh toán nợ cho Ngân hàng, là hoàn toàn có căn
cứ pháp lý. Bà B kháng cáo, nhưng lại không cung cấp được chứng cứ gì mới để
chứng minh cho yêu cầu kháng cáo của có căn cứ, nên Hội đồng xét xử phúc
thẩm không chấp nhận kháng cáo của B.
[6] Đối với giấy nộp tiền ngày 11/10/2022 do B cung cấp thể hiện số
tiền đã nộp 1.804.000 đồng, tuy nhiên nội dung chuyển tiền nạp điện tử
“napvidientu”, do đó, không căn cứ để chấp nhận ý kiến của B cho rằng
đây tiền trả nợ vay thẻ tín dụng. Tại phiên tòa phúc thẩm, B cũng không
đồng ý với đề nghị của Ngân hàng cho chuyển số tiền này sang thanh toán cho
khoản tiền mà bà B đang còn nợ. Ngân hàng xác định không thu khoản tiền này
hiện tại số tiền này vẫn còn trên điện tử của B. Do đó, B quyền
đến Ngân hàng rút lại số tiền này.
[7] Đề nghị của Kiểm sát viên là có căn cứ, được chấp nhận.
[8] Về án phí dân sự phúc thẩm: bà B phải chịu do bị bác kháng cáo.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
1. Căn cứ khoản 1 Điều 308, Điều 148 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 29
của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ
Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản sử dụng án phí
và lệ phí Tòa án.
2. Không chấp nhận kháng cáo của bà Nguyễn Thị Ngọc B.
3. Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 140/2024/DS-ST ngày 24 tháng 12
năm 2024 của Tòa án nhân dân huyện Bến Lức, tỉnh Long An.
4. Án phí dân sự phúc thẩm: buộc Nguyễn Thị Ngọc B phải chịu 300.000đ
(ba trăm ngàn đồng), được khấu trừ vào số tiền 300.000đ (ba trăm ngàn đồng) tạm
ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0007360 ngày
09/01/2025 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bến Lức, tỉnh Long An.
Nguyễn Thị Ngọc B đã nộp đủ án phí phúc thẩm.
5. Về hiệu lực ca bản án: Bản án phúc thẩm này hiệu lực pháp luật kể từ
ngày tuyên án./.
Nơi nhận:
- TANDCC tại Thành phố Hồ Chí Minh;
- VKSND tỉnh Long An;
- TAND huyện Bến Lức;
- Chi cục THADS huyện Bến Lức;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ vụ án; án văn./.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Phan Ngọc Hoàng Đình Thục
Tải về
Bản án số 190/2025/DS-PT Bản án số 190/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 190/2025/DS-PT Bản án số 190/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất