Bản án số 04/2024/KDTM-PT ngày 06/09/2024 của TAND tỉnh Lào Cai về tranh chấp về xây dựng
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 04/2024/KDTM-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 04/2024/KDTM-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 04/2024/KDTM-PT
Tên Bản án: | Bản án số 04/2024/KDTM-PT ngày 06/09/2024 của TAND tỉnh Lào Cai về tranh chấp về xây dựng |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp về xây dựng |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Lào Cai |
Số hiệu: | 04/2024/KDTM-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 06/09/2024 |
Lĩnh vực: | Kinh doanh thương mại |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Tranh chấp hợp đồng xây dựng kinh doanh - chuyển giao giữa Tổng công ty Đầu tư phát triển đường cao tốc V - Công ty TNHH Đầu tư dịch vụ H |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
1
TOÀ ÁN NHÂN DÂN
TỈNH LÀO CAI
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số: 04/2024/KDTM-PT
Ngày 06 - 9 - 2024
V/v “Tranh chấp hợp đồng xây dựng
kinh doanh - chuyển giao”
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH LÀO CAI
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: Bà Trần Thị Khánh Vân
Các Thẩm phán: Ông Đặng Phi Long
Ông Trương Quyết Thắng
- Thư ký phiên toà: Bà Trần Thị Minh Trang - Thư ký Toà án nhân dân tỉnh
Lào Cai.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lào Cai tham gia phiên tòa: Bà Lò
Thị Hoa - Kiểm sát viên.
Trong các ngày 07/8/2024 và 06/9/2024, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Lào
Cai xét xử phúc thẩm công khai vụ án kinh doanh thương mại thụ lý số:
05/2024/TLPT-KDTM ngày 23/5/2024 về việc “Tranh chấp hợp đồng xây dựng
kinh doanh - chuyển giao” do bản án sơ thẩm số: 08/2024/KDTM-ST ngày
15/4/2024 của Tòa án nhân dân thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 595/2024/QĐ-PT ngày 08/7/2024;
Quyết định hoãn phiên tòa số 1166/2024/QĐ-PT ngày 24/7/2024 giữa các đương
sự:
1. Nguyên đơn: Tổng công ty Đầu tư phát triển đường cao tốc V
Địa chỉ: Tầng 2, 3, 4, 5 Tháp A Tòa ánh Central Point, số 219, phố T, phường
H, quận G, thành phố N.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Phạm Hồng Q- Chức vụ: Tổng Giám
đốc.
Người đại diện theo ủy quyền:
- Ông Phạm Đình T, bà Hoàng Thị Phương T. Vắng mặt.
- Bà Lại Thị T. Có mặt tại phiên tòa.
2
Cùng địa chỉ: Phòng 404, Tòa nhà Vimeco lô E 9 H, phường H, quận G,
thành phố N
2. Bị đơn: Công ty TNHH Đầu tư dịch vụ H
Địa chỉ: Số nhà 002, đường L, phường L, thành phố C, tỉnh Lào Cai.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Đỗ Đình T- Chức vụ: Giám đốc. Có mặt
tại phiên tòa.
3. Người kháng cáo: Nguyên đơn Tổng công ty Đầu tư phát triển đường cao
tốc V.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Nguyên đơn Tổng công ty Đầu tư và phát triển đường cao tốc V (VEC)
trình bày:
Ngày 31/12/2014 Tổng công ty Đầu tư và phát triển đường cao tốc V và Công
ty trách nhiệm hữu hạn đầu tư dịch vụ H(Gọi tắt: Công ty H) ký Hợp đồng số
70/HĐ - VEC/2014 về việc Công ty H đầu tư xây dựng trạm dừng nghỉ số 5 tại
Km 236+940 đường Cao tốc Nội Bài- Lào Cai (Gọi tắt: Hợp đồng 70/HĐ). Thực
hiện hợp đồng đã ký, VEC đã bàn giao mặt bằng cho Công ty H để triển khai thực
hiện. Tuy nhiên quá trình thực hiện hợp đồng, Công ty H đã liên tiếp có những vi
phạm nghiêm trọng, cụ thể là:
Thứ nhất: Công ty H đã tự thay đổi thiết kế, điều chỉnh quy mô khi chưa báo
cáo và được chấp nhận của VEC. Quá trình thực hiện Hợp đồng: 70/HĐ nếu có sự
thay đổi về thiết kế, quy mô thì các bên phải tuân thủ quy định trong Hợp đồng,
cụ thể tại khoản 3.4 Điều 3 quy định: “Trong quá trình thực hiện đầu tư xây dựng
nếu có sự thay đổi về mặt kiến trúc và các tiêu chí khác phải được sự chấp thuận
của Bên A (VEC); Trường hợp nếu có sự thay đổi lớn về mặt kiến trúc và kỹ thuật
làm ảnh hưởng đến Tổng mức đầu tư của Dự án, các bên sẽ đàm phán và điều
chỉnh lại các tiêu chí tài chính của Dự án”, và điểm (c) khoản 10.2 Điều 10 Hợp
đồng quy định: “… Mọi sự thay đổi, xây dựng thêm các công trình ngoài thiết kế
kỹ thuật đã được phê duyệt phải được chấp thuận bằng văn bản của Bên A”. Căn
cứ biên bản hiện trường ngày 04/7/2017 giữa VEC, Ban Quản lý dự án và Công
ty H cho thấy một số hạng mục Công ty H đã tự thay đổi, điều chỉnh quy mô công
trình khi chưa báo cáo và được chấp thuận của VEC, VEC sau đó đã có văn bản
thông báo đến nhà đầu tư cũng như đề nghị nhà đầu tư làm rõ sai phạm trên, cụ
thể tại Thông báo số 3725/TB-VEC ngày 16/11/2017 và văn bản số 2768/VEC-
TĐ ngày 09/10/2018. Như vậy, Công ty H đã tự thay đổi thiết kế, điều chỉnh quy
mô khi chưa báo cáo và được chấp thuận của VEC là vi phạm quy định tại khoản
3.4 điều 3 và điểm (c) khoản 10.2 Điều 10 của Hợp đồng 70/HĐ.
Thứ hai: Công ty H không hoàn thành hồ sơ quyết toán và báo cáo kết quả
kinh doanh hàng năm. Công ty Hcó nghĩa vụ hoàn thành hồ sơ quyết toán theo
quy định tại khoản 7.8 điều 7 Hợp đồng: “Trong vòng 12 tháng kể từ ngày hoàn
thành công trình dự án theo thoả thuận tại Hợp đồng này, nhà đầu tư phải hoàn
thành hồ sơ quyết toán giá trị vốn đầu tư xây dựng công trình phù hợp với quy
định của pháp luật về xây dựng (đã được cơ quan kiểm toán độc lập xác nhận)”
3
và nghĩa vụ nộp báo cáo định kỳ về tình hình kinh doanh trạm dừng nghỉ quy định
tại điểm (n) khoản 10.2 Điều 10 Hợp đồng: “…Bên B có trách nhiệm báo cáo định
kỳ về tình hình kinh doanh của Trạm dừng nghỉ trong giai đoạn kinh doanh là mỗi
năm một lần, thời gian báo cáo trong vòng 20 ngày kể từ ngày kết thúc thời hạn
nộp báo cáo tài chính (đã được kiểm toán) theo quy định…”. Mặc dù đã có những
thoả thuận chi tiết về thời gian, yêu cầu hoàn thành hồ sơ quyết toán cũng như nộp
báo cáo tình hình kinh doanh hàng năm, tuy nhiên Công ty Hliên tục vi phạm các
thoả thuận trên mặc dù VEC nhiều lần nhắc nhở, yêu cầu thực hiện đúng. Cụ thể,
VEC đã liên tiếp gửi Công ty H các văn bản: Công văn số 474/VEC-KHKD ngày
22/02/2016; Công văn số 3581/VEC-QLKT ngày 24/10/2016; Công căn số
215/VEC-QLKT ngày 19/01/2017; Công văn số 457/VEC-QLKT ngày
20/02/2017; Công văn số 1181/VEC-QLKT ngày 17/04/2017; Công văn số
2383/VEC-QLKT ngày 13/7/2017; Công văn số 1443/VEC-QLKT ngày
30/5/2018; Công văn số 2292/VEC-TCKT ngày 20/8/2018; Công văn sô
2818/VEC- TCKT ngày 15/10/2018; Công văn số 3095/VEC-QLKT ngày
12/11/2018; Công văn số 1598/VEC- QLKT ngày 16/7/2019; Công văn số
2551/VEC-QLKT ngày 19/11/2019; Công văn số 1048/CV-VEC ngày 04/6/2021;
Công văn số 1188/CV-VEC ngày 22/6/2021; Công văn số 1410/CV- VEC ngày
19/7/2021 để đôn đốc, yêu cầu Công ty H nộp hồ sơ quyết toán và báo cáo kết quả
kinh doanh trạm dừng nghỉ, tuy nhiên không nhận được phản hồi.
Thứ ba: Công ty H cho các hộ kinh doanh thuê mục đích kinh doanh không
báo cáo VEC là vi phạm điểm b mục 10.2 Điều 10 của Hợp đồng 70/HĐ.
Trên cơ sở các vi phạm hợp đồng nghiêm trọng của Công ty H, VEC đã nhiều
lần gửi văn bản cũng như làm việc trực tiếp với đại diện Công ty Hđể tìm cách
tháo gỡ, thống nhất việc huỷ Hợp đồng, giải quyết các nội dung liên quan, tuy
nhiên không nhận được sự đồng thuận từ Công ty H. Ngày 25/6/2021 VEC đã gửi
thông báo số 1225/TB-VEC về việc huỷ hợp đồng, tuy nhiên Công ty Htiếp tục
không đồng ý với nội dung trên thể hiện tại công văn phản hồi số 216/LH-TH ngày
16/8/2021.
Vì vậy, VEC yêu cầu Toà án giải quyết: Tuyên huỷ Hợp đồng số 70/HĐ-
VEC/2014 ký kết ngày 31/12/2014 giữa Tổng Công ty Đầu tư phát triển đường
cao tốc Việt Nam và Công ty TNHH đầu tư dịch vụ H; Buộc Công ty TNHH Đầu
tư dịch vụ H chấm dứt các hoạt động tại Trạm dừng nghỉ số 5 tại Km 236+940
đường Cao tốc Nội Bài - Lào Cai, bàn giao lại toàn bộ mặt bằng, các hạng mục
công trình phụ trợ cho Tổng Công ty đầu tư phát triển đường cao tốc Việt Nam
theo quy định.
Bị đơn Công ty TNHH Đầu tư dịch vụ H trình bày:
Về cơ sở hình thành và đầu tư xây dựng trạm dừng nghỉ Km236+940 cao tốc
Nội Bài-Lào Cai: Theo văn bản số 9570/BGTVT-KHĐT ngày 12/11/2012 của Bộ
GTVT về việc kêu gọi Nhà đầu tư tham gia đầu tư một số công trình, hạng mục
phụ trợ quản lý khai thác các dự án do VEC làm chủ đầu tư, trong đó có hạng mục
đầu tư xây dựng trạm dừng nghỉ km 236+940 đường cao tốc Nội Bài - Lào Cai
thuộc địa phận tỉnh Lào Cai. Trải qua thời gian dài vẫn không có nhà đầu tư nào
4
đề nghị đầu tư xây dựng trạm dừng nghỉ tại km 236+940 vì lý do quy mô đầu tư
lớn, khả năng thu hồi vốn chậm. Trong bối cảnh đường cao tốc sắp xây dựng xong
mà vẫn chưa có trạm dừng nghỉ phục vụ nên các cấp chính quyền tỉnh Lào Cai
đứng ra vận động doanh nghiệp địa phương đầu tư vào trạm dừng nghỉ với tiêu
chí là cửa ngõ giới thiệu tỉnh Lào Cai với cả nước, là điểm đầu kết nối các địa
điểm du lịch của tỉnh Lào Cai cũng như với tỉnh Vân Nam (Trung Quốc). Đến đầu
năm 2014 chỉ duy nhất có một doanh nghiệp là Công ty TNHH Đầu tư dịch vụ H
đứng ra làm việc với VEC về việc đầu tư xây dựng trạm dừng nghỉ km 236+940.
Nhận thấy đây là nhiệm vụ hết sức khó khăn, vừa phải đảm bảo kinh doanh, vừa
phải đảm bảo công tác quảng bá du lịch và sản phẩm địa phương, Công ty H đã
tiến hành đàm phán với VEC về các tiêu chí, quy định xây dựng trạm dừng nghỉ
và đến ngày 31/12/2014 hai bên tiến hành ký kết hợp đồng 70/HĐ-VEC/2014 về
việc đầu tư xây dựng Trạm dừng nghỉ Km236+940 đường cao tốc Nội Bài-Lào
Cai.
Tình hình đầu tư, xây dựng, kinh doanh: Trước khi đầu tư hai bên đã thống
nhất về phương án tài chính và tổng mức đầu tư. Tổng vốn đầu tư cho công trình
dự án Trạm dừng nghỉ Km 236+940 là 157.645.824.000 đồng (Một trăm năm
mươi bẩy tỉ, sáu trăm bốn mươi lăm triệu, tám trăm hai mươi tư nghìn đồng),
trong đó vốn đầu tư giai đoạn I đã hoàn thành và đưa vào sử dụng là
58.128.650.000 đồng (Năm mươi tám tỷ, một trăm hai mươi tám triệu, sáu trăm
lăm mươi nghìn đồng). Các hạng mục công trình đã nghiệm thu hoàn thành và
quyết toán giai đoạn I.
Về căn cứ ký kết Hợp đồng: Hợp đồng 70/HĐ-VEC/2014, ký giữa VEC và
Công ty H về việc đầu tư xây dựng trạm dừng nghỉ dựa trên những căn cứ pháp
lý thể hiện theo trang 3 của Hợp đồng, VEC cam kết rằng VEC có thẩm quyền
pháp lý đầy đủ theo quy định của pháp luật để trao cho Công ty H quyền lợi, quyền
và thẩm quyền để thực hiện và tham gia các hoạt động được quy định tại Hợp
đồng này theo Điều 10 khoản 10.1 mục a.
Về nội dung khởi kiện của VEC đối với Công ty H: Theo đơn khởi kiện của
VEC nội dung đơn khởi kiện cho rằng:
Thứ nhất: Công ty H vi phạm khoản 3.4 Điều 3; Điểm (c) khoản 10.2 Điều
10 của Hợp đồng, được thể hiện theo biên bản kiểm tra hiện trường ngày
04/7/2017 giữa VEC và Công ty H.
Thứ hai: Công ty H không hoàn thành quyết toán và báo cáo kết quả kinh
doanh hàng năm theo quy định tại khoản 7.8 Điều 7 và điểm (n) khoản 10.2 Điều
10 của Hợp đồng.
Công ty H có ý kiến: Trước khi VEC khởi kiện Công ty H, VEC và Công ty
Hđã làm việc với nhau nhiều lần nhằm tìm ra phương án giải quyết, cụ thể như
sau: Ngày 22/4/2021, VEC và Công ty H đã có biên bản làm việc thống nhất tiếp
tục thực hiện các nội dung của Hợp đồng. Mặt khác VEC khẳng định phải tuân
thủ kết luận của Ủy ban Kiểm tra trung ương (UBKTTW) là Hợp đồng ký không
đúng quy định mà không đưa ra được các căn cứ pháp lý cho nội dung trên. Công
ty H đề nghị VEC đưa ra các căn cứ về việc Hợp đồng ký không đúng quy định
5
của pháp luật và được tiếp cận kết luận của UBKTTW về việc hủy Hợp đồng
nhưng VEC không đưa ra được căn cứ pháp lý và không được biết nội dung kết
luận; Ngày 25/6/2021 VEC ra thông báo số 1225/TB-VEC về việc hủy hợp đồng.
Theo thông báo VEC đề xuất với Công ty H phương án tính toán giá trị tài sản
đầu tư và giá trị khác mà hai bên hoàn trả cho nhau. Đi kèm với thông báo trên thì
VEC gửi cho Công ty H dự thảo biên bản làm việc trong đó ghi nhận sự hợp tác
của Công ty H trong quá trình thực hiện Hợp đồng. Theo dự thảo biên bản làm
việc của VEC có nội dung VEC mua lại tài sản của Trạm dừng nghỉ; Ngày
13/7/2021 Công ty H nhận được văn bản số 1366/VEC-NC-PT và dự thảo biên
bản làm việc của VEC về việc hủy Hợp đồng số 70/HĐ-VEC/2014. Nội dung văn
bản số 1366/VEC-NC-PT và dự thảo biên bản làm việc ghi nhận sự hợp tác của
Công ty Htrong quá trình thực hiện Hợp đồng và VEC đề xuất nội dung mua lại
tài sản của Trạm dừng nghỉ. Mặt khác VEC cho rằng VEC và Công ty H phải thực
hiện Kết luận của Ủy ban kiểm tra trung ương tại Thông báo số 804/TB-
UBKTTW ngày 13/5/2020. Trong quá trình làm việc Công ty H đề nghị VEC đưa
ra các căn cứ về việc Hợp đồng ký không đúng quy định của pháp luật và được
tiếp cận kết luận của UBKTTW về việc hủy Hợp đồng nhưng VEC không đưa ra
được căn cứ pháp lý và không được tiếp cận nội dung kết luận nên cuộc họp không
thống nhất. Ngày 16/3/2022, tại trụ sở của VEC hai bên tiếp tục làm việc về nội
dung hủy Hợp đồng. Trong biên bản cuộc họp thể hiện VEC tiếp tục đề nghị hủy
Hợp đồng và không đưa ra được các căn cứ pháp lý, VEC đưa ra ý kiến thẩm định
giá sau đó Công ty H bàn giao lại tài sản cho VEC để tổ chức đấu thầu lựa chọn
nhà đầu tư quyền kinh doanh khai thác trạm dừng nghỉ. Công ty H đề nghị tiếp
tục thực hiện Hợp đồng, không đồng ý nội dung trên và đưa ra ý kiến sau khi thẩm
định có sự thống nhất về giá trị tài sản thì VEC phải hoàn trả tiền cho Công ty H,
sau đó Công ty H sẽ bàn giao lại tài sản cho VEC theo các nội dung mà VEC đã
đề xuất trong các thông báo trước. Công ty Hcho rằng đây là Hợp đồng hợp tác
đầu tư nên không một bên nào có thẩm quyền tuyên hủy bỏ và việc tuyên hủy Hợp
đồng phải được thực hiện bởi cơ quan chức năng có thẩm quyền. Trong trường
hợp một bên đề nghị chấm dứt Hợp đồng thì phải thực hiện theo các điều khoản
của Hợp đồng.
Về các nội dung khởi kiện của VEC, Công ty H cho rằng không phù hợp để
VEC hủy hay chấm dứt Hợp đồng:
Thứ nhất: Căn cứ biên bản kiểm tra hiện trường ngày 04/7/2017 và biên bản
kiểm tra hiện trường ngày 04/10/2018 cho thấy rằng các hạng mục chính của công
trình không thay đổi, chỉ thay đổi quy mô một số hạng mục phụ trợ, không làm
thay đổi tổng mức đầu tư dự án và VEC không đưa ra kết luận phản đối các điều
chỉnh công trình. Đến thời điểm hiện tại VEC không có bất kỳ một văn bản đình
chỉ hay chỉ rõ các hạng mục công trình thay đổi không được chấp thuận. Công ty
Hcũng thực hiện các nghĩa vụ tài chính về tiền sử dụng đất nộp về VEC theo văn
bản số 1038/VEC-VECM ngày 04/6/2021, điều đó cho thấy VEC chấp thuận các
công trình được đưa vào sử dụng bình thường. Trong trường hợp VEC cho rằng
thiết kế bị thay đổi đề nghị VEC chứng minh qua các đơn vị thẩm định độc lập.
6
Thứ hai: Công ty H đã nộp quyết toán, hoàn công công trình thể hiện trong
văn bản số 1366/VEC-NCPT ngày 13/7/2021 của VEC là hồ sơ đã nộp nhưng còn
thiếu một số danh mục. Ngoài ra Công ty Hcó văn bản số 096/LH-BC ngày
27/6/2018 báo cáo kết quả sản xuất kinh doanh các năm 2015, 2016, 2017 (chưa
kiểm toán).
Thứ ba: Các nội dung trong đơn khởi kiện của VEC hoàn toàn không có
trong các cuộc đàm phán hay thương lượng giữa hai bên từ trước đến nay, điều
này thể hiện trong các biên bản làm việc hay thông báo của VEC. Việc thiếu nhất
quán của VEC trong các nội dung đàm phán hay khởi kiện không theo nội dung
đàm phán đã làm ảnh hưởng đến kết quả đàm phán của hai bên. Trong trường hợp
VEC cho rằng Công ty Hkhông thực hiện đúng theo các quy định của Hợp đồng
thì có quyền đề nghị chấm dứt theo Điều 13 của Hợp đồng. Tuy nhiên, các nội
dung trong đơn khởi kiện của VEC không có trong các điều khoản về chấm dứt
Hợp đồng. Do vậy, Công ty H cho rằng việc VEC khởi kiện Công ty Hđể hủy
Hợp đồng là không có cơ sở.
Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 08/2024/KDTM-ST ngày
15/4/2024 của Tòa án nhân dân thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai đã quyết định:
Căn cứ khoản 1 Điều 30, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, khoản 1 Điều
147, Điều 157, Điều 164 Bộ luật Tố tụng dân sự; Khoản 17 Điều 3 Luật đầu tư năm
2005; Điều 423, Điều 424 Bộ luật Dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14
ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm,
thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Tuyên xử:
Không nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc: Huỷ hợp
đồng số: 70/HĐ- VEC/2014 ký kết ngày 31/12/2014 giữa Tổng Công ty Đầu tư
phát triển đường cao tốc Việt Nam và Công ty TNHH đầu tư dịch vụ Long Hải;
Buộc Công ty TNHH Đầu tư dịch vụ H chấm dứt các hoạt động tại Trạm dừng
nghỉ số 5 tại Km 236+940 đường Cao tốc Nội Bài - Lào Cai, bàn giao lại toàn bộ
mặt bằng, các hạng mục công trình phụ trợ cho Tổng Công ty đầu tư phát triển
đường cao tốc Việt Nam.
Ngoài ra, bản án còn tuyên về chi phí tố tụng, về án phí, quyền kháng cáo,
quyền yêu cầu thi hành án cho các đương sự.
Ngày 26/4/2024, Nguyên đơn Tổng công ty Đầu tư phát triển đường cao tốc
V kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm số: 08/2024/KDTM-ST ngày 15/4/2024, của
Tòa án nhân dân thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai, yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm
sửa Bản án sơ thẩm theo hướng chấp nhận các yêu cầu khởi kiện của Nguyên đơn
theo quy định của pháp luật.
Tại phiên tòa phúc thẩm các bên đương sự vẫn giữ nguyên quan điểm và yêu
cầu của mình.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lào Cai tham gia phiên tòa, phát biểu
ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng dân sự, trong quá trình giải quyết vụ án
của thẩm phán, của Hội đồng xét xử và việc chấp hành pháp luật của những người
tham gia tố tụng tại phiên tòa đều đúng quy định của pháp luật.
7
Ý kiến về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1
Điều 308, Điều 148 Bộ luật Tố tụng dân sự: Không chấp nhận kháng cáo của
Tổng công ty Đầu tư phát triển đường cao tốc V. Giữ nguyên Bản án kinh doanh
thương mại sơ thẩm số: 08/2024/KDTM-ST ngày 15/4/2024 của Tòa án nhân dân
thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại
phiên tòa. Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét, đánh
giá đầy đủ, toàn diện các chứng cứ. Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Đơn kháng cáo của Nguyên đơn Tổng công ty Đầu tư phát triển đường
cao tốc V nộp trong hạn luật định, có đầy đủ nội dung theo quy định tại Điều 272
Bộ luật Tố tụng dân sự là hợp lệ.
[2] Xét nội dung kháng cáo của Nguyên đơn:
Nguyên đơn Tổng công ty Đầu tư phát triển đường cao tốc V kháng cáo cho
rằng VEC khởi kiện yêu cầu Tòa án hủy hợp đồng theo quy định tại điểm b khoản
1 Điều 423, Bộ luật Dân sự 2015 do phía Bị đơn Công ty H vi phạm nghiêm trọng
nghĩa vụ hợp đồng, tuy nhiên Tòa án sơ thẩm nhận định những vi phạm liên quan
đến quyết toán và báo cáo kinh doanh không thuộc trường hợp chấm dứt hợp đồng
theo quy định tại Điều 13 của Hợp đồng được ký giữa hai bên là không đúng quy
định của pháp luật, vì hủy bỏ hợp đồng và chấm dứt hợp đồng là hai chế định khác
nhau; Chưa phân biệt rõ quan hệ pháp luật cần được xem xét trong vụ án; VEC
yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm sửa Bản án sơ thẩm theo hướng chấp nhận yêu cầu
khởi kiện.
[2.1] Về quan hệ pháp luật: Hợp đồng số 70/HĐ-VEC/2014 ngày 31/12/2014
được giao kết giữa nguyên đơn là Tổng công ty Đầu tư phát triển đường cao tốc
V với bị đơn là Công ty TNHH Đầu tư dịch vụ H quy định các điều, khoản về
việc đầu tư xây dựng trạm dừng nghỉ số 5 tại Km 236+940 đường cao tốc Nội Bài
- Lào Cai, trong đó quy định về vốn đầu tư, thi công xây dựng, hoạt động kinh
doanh và quy định về chuyển giao công trình dự án. Tòa án nhân dân (TAND)
thành phố Lào Cai, xác định quan hệ tranh chấp trong vụ án là “Tranh chấp hợp
đồng xây dựng, kinh doanh- chuyển giao” là đúng theo quy định tại Điều 30, 35
của Bộ luật Tố tụng dân sự; Khoản 17 Điều 3 Luật Đầu tư năm 2005.
[2.2] Xét Hợp đồng về việc đầu tư xây dựng trạm dừng nghỉ số 5 tại Km
236+940 đường cao tốc Nội Bài - Lào Cai số 70/HĐ-VEC/2014, ngày
31/12/2014:
Hợp đồng số 70/HĐ được lập thành văn bản, chủ thể giao kết hợp đồng là
các pháp nhân có năng lực pháp luật dân sự theo quy định của pháp luật, việc giao
kết hợp đồng trên cơ sở tự nguyện thỏa thuận, nội dung phù hợp với quy định của
pháp luật. Vì vậy, Hợp đồng có đủ điều kiện có hiệu lực theo quy định của pháp
luật.
[2.3] Xét quá trình thực hiện hợp đồng:
8
Sau khi ký kết hợp đồng thì các bên đã triển khai việc thực hiện hợp đồng
theo thỏa thuận. Nguyên đơn VEC cho rằng trong quá trình thực hiện hợp đồng
Công ty Hđã vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ hợp đồng và khởi kiện yêu cầu Tòa
án hủy Hợp đồng số 70/HĐ theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 423 Bộ luật
Dân sự 2015. Xét thấy:
Thứ nhất, VEC cho rằng Công ty H vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ trong
việc tự ý thay đổi thiết kế, điều chỉnh quy mô khi chưa báo cáo và được chấp nhận
của VEC.
Tại khoản 3.4 Điều 3 của Hợp đồng số 70/HĐ các bên thỏa thuận như sau:
“Trong quá trình thực hiện đầu tư xây dựng nếu có sự thay đổi về mặt kiến trúc
và các tiêu chí khác thì phải được sự chấp nhận của bên A. Trường hợp nếu có
thay đổi lớn về mặt kiến trúc và kỹ thuật làm ảnh hưởng đến Tổng mức đầu tư của
Dự án, các bên sẽ đàm phán và điều chỉnh lại các tiêu chí tài chính của Dự án”.
Trong quá trình thực hiện hợp đồng thì VEC và Công ty H đã tiến hành kiểm tra
hiện trường dự án vào các ngày 04/7/2017 và ngày 04/10/2018.
Tại biên bản kiểm tra hiện trường ngày 04/7/2017, có đại diện của Tổng công
ty Đầu tư phát triển đường cao tốc Việt Nam, đại diện Ban quản lý dự án các
đường cao tốc phía bắc và đại diện nhà đầu tư (Công ty H), đã tiến hành kiểm tra
các hạng mục công trình mà nhà đầu tư đã triển khai so với quy hoạch tổng mặt
bằng và hồ sơ thiết kế đã được VEC chấp thuận và kiểm tra việc thực hiện các
quy định theo các khoản 7.1, 7.2, 7.3, 7.4 của hợp đồng 70/HĐ, tại buổi làm việc
nhà đầu tư đã có hồ sơ thiết kế cơ sở; Báo cáo kinh tế kỹ thuật; bản vẽ thiết kế thi
công; bản vẽ hoàn công; hồ sơ nghiệm thu các hạng mục. Các công việc còn lại
nhà đầu tư cam kết sẽ thực hiện thi công và sẽ có báo cáo, hồ sơ đính kèm gửi
VEC xem xét. Các bên đã thống nhất và ký vào biên bản.
Tại biên bản kiểm tra hiện trường ngày 04/10/2018 có đại diện của Thanh
tra Bộ giao thông vận tải, đại diện Tổng công ty Đầu tư phát triển đường cao tốc
Việt Nam và đại diện nhà đầu tư thì hầu hết các hạng mục đều đã thực hiện xong
và đưa vào sử dụng, chỉ có kho xăng dầu ngoài trời (trái tuyến) nhà đầu tư điều
chỉnh lại chỉ có phía bên phải; Trạm biến áp + cấp điện ngoài nhà sử dụng chung
phía bên phải; Kho xăng dầu ngoài trời (phải tuyến) đã bàn giao mặt bằng nhưng
chưa triển khai, đang xin phê duyệt quy hoạch của Bộ Công thương.
Ngoài ra quá trình giải quyết vụ án tại Tòa án cấp sơ thẩm, theo yêu cầu của
các bên đương sự, Tòa án cũng đã tiến hành xem xét thẩm định tại chỗ và ký hợp
đồng dịch vụ giám định với Công ty TNHH giám định L. Nội dung: Kiểm kê hiện
trạng, công trình xây dựng và tài sản trên đất. Loại hình giám định: Số lượng, tình
trạng và chủng loại. Tại chứng thư giám định ngày 20/8/2023 kết luận: Tại thời
điểm giám định toàn bộ các tài sản công trình gắn liền với đất hiện có tại trạm
dừng nghỉ số 5 là 29 hạng mục. Tổ giám định có lập riêng 02 hạng mục ngoài so
với 27 hạng mục trong biên bản kiểm tra hiện trường ngày 04/7/2017 giữa Công
ty TNHH Hvà VEC. Chi tiết tại mục: A-XIV và B-XV trong phụ lục 1 của chứng
thư giám định. Các hạng mục cụ thể bao gồm: Nhà tạm làm săm lốp 6mx7mx3m;
Biển quảng cáo ngoài trời; Miếu đá xanh ngoài trời kích thước 3,7mx3,7mx3,8m;
9
Mái che ngoài trời hiên nhà dịch vụ; Xe ô tô chở xăng dầu; Công trình phụ trợ
gồm: chuồng lợn; chuồng gà; chuồng chó; mái tôn che; Lưới sắt mắt cáo; Ghế
Xuân Hoà bọc da; Tủ sấy thịt trâu; Bể chứa nước 400m3; Bể bê tông chứa nước
trên mái nhà dịch vụ; Téc nước Inox trên nóc nhà vệ sinh; Téc nước Inox trước
cửa nhà dịch vụ; Xe tải 1,4 tấn; Thùng container; Kho chứa dụng cụ lợp tôn; Biển
quảng cáo; Hệ thống bể chứa nước cho nhà dịch vụ; Téc nước Inox trước nhà dịch
vụ; Mái che nhà dịch vụ.
Như vậy, căn cứ các Biên bản kiểm tra hiện trường và Chứng thư giám định
ngày 20/8/2023 của Công ty TNHH giám định L, thấy rằng các hạng mục chính
của công trình không thay đổi, chỉ thay đổi quy mô một số hạng mục phụ trợ như
nhà tạm, chuồng lợn, chuồng gà, chuồng chó, mái tôn che... là những hạng mục
nhỏ, có thể tháo dỡ. Một số là tài sản của Công ty Hmua sắm để phục vụ việc kinh
doanh và các nhu cầu thiết yếu khác. Trong các biên bản kiểm tra hiện trường
cũng như Chứng thư giám định không có nội dung xác định về việc Công ty Hcó
sự thay đổi về mặt kiến trúc và các tiêu chí khác. Mặt khác tại khoản 7.5 Điều 7
của hợp đồng 70/HĐ quy định: “Trong quá trình thực hiện, đại diện được ủy
quyền của bên A là BQLDA đường cao tốc Nội Bài- Lào Cai có quyền giám sát
thi công các hạng mục của bên B để đánh giá khối lượng và giá trị đầu tư của bên
B và đảm bảo phù hợp với quy hoạch được duyệt và các quy định của pháp luật
về xây dựng tại Việt Nam”. Thực tế tại biên bản kiểm tra hiện trường ngày
04/7/2017, VEC đã tiến hành kiểm tra các hạng mục công trình mà nhà đầu tư đã
triển khai so với quy hoạch tổng mặt bằng và hồ sơ thiết kế đã được VEC chấp
thuận và kiểm tra việc thực hiện các quy định theo các khoản 7.1, 7.2, 7.3, 7.4 của
hợp đồng 70/HĐ.
Tại phiên tòa phúc thẩm, người đại diện theo ủy quyền của VEC cũng thừa
nhận trạm dừng nghỉ đã được đưa vào hoạt động từ năm 2017. Trong quá trình
thực hiện hợp đồng VEC thường xuyên kiểm tra các hạng mục công trình và có
nhắc nhở đối với các sai phạm của Công ty H, tuy nhiên không lập biên bản và
cũng không đình chỉ thi công.
Vì vậy, việc VEC cho rằng Công ty H trong quá trình thực hiện đã tự thay
đổi thiết kế, điều chỉnh quy mô khi chưa báo cáo và được chấp nhận của VEC là
không có căn cứ.
Thứ hai, VEC cho rằng Công ty H vi phạm nghĩa vụ hợp đồng trong việc
không hoàn thành hồ sơ quyết toán và báo cáo kết quả kinh doanh hàng năm theo
khoản 7.8 Điều 7 và điểm b, n khoản 10.2 Điều 10 của Hợp đồng. Căn cứ các tài
liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án thấy rằng Công ty Hcó vi phạm trong việc hoàn
thành hồ sơ quyết toán và báo cáo kết quả kinh doanh hàng năm theo thỏa thuận
trong Hợp đồng. Do đó, ý kiến của VEC cho rằng Công ty Hcó vi phạm nghĩa vụ
đã thỏa thuận theo khoản 7.8 Điều 7 và điểm b, n khoản 10.2 Điều 10 của Hợp
đồng là có căn cứ.
Thứ ba, đối với việc VEC cho rằng Công ty H cho các hộ kinh doanh thuê
mục đích kinh doanh mà không báo cáo VEC là vi phạm pháp luật bị đội quản lý
thị trường số 3 xử phạt hành chính theo điểm b mục 10.2 Điều 10 của Hợp đồng.
10
Quá trình giải quyết vụ án VEC không cung cấp được tài liệu, chứng cứ gì chứng
minh việc Công ty Hcho các hộ kinh doanh thuê mặt bằng xây dựng công trình
mà không được sự chấp thuận của VEC cũng như căn cứ cho rằng trên mặt bằng
xây dựng công trình có tài sản của bên thứ 3 khác, không phải tài sản của Công
ty H. Tại phiên tòa phúc thẩm Công ty Hthừa nhận quá trình kinh doanh có Cục
quản lý thị trường tỉnh Lào Cai kiểm tra phát hiện 02 hộ kinh doanh hàng hóa
không rõ nguồn gốc nhưng đó là cán bộ của Công ty H. Công ty Hđã thực hiện
giao khoán cho cán bộ kinh doanh 02 nhà dịch vụ tại trạm dừng nghỉ. Công ty
Hcung cấp chứng cứ là Hợp đồng Lao động số: 206/HĐLĐ ngày 20/5/2022 giữa
người sử dụng Lao động là Công ty TNHH Đầu tư dịch vụ Hvà người lao động là
bà Nguyễn Thị Thu Thủy; Quyết định về việc giao khoán quản lý nhà hàng số
146/QĐ/LH ngày 21/5/2022, nội dung: giao khoán nhà hàng cho bà Nguyễn Thị
Thu T, quản lý, kinh doanh đối với hai nhà hàng của Công ty; Biên bản bàn giao
hàng hóa ngày 20/6/2023, giữa bà Đỗ Thị Q và bà Nguyễn Thị Thu T. Chứng cứ
người bị kiện là Công ty H giao nộp phù hợp với Báo cáo số 146/BC-QLTTLCA
ngày 29/8/2023 của Cục quản lý thị trường tỉnh Lào Cai, báo cáo kết quả kiểm tra
hoạt động kinh doanh hàng hóa tại các trạm dừng nghỉ trên tuyến cao tốc Nội Bài-
Lào Cai thuộc địa phận tỉnh Lào Cai, trong đó có nội dung: “Xử phạt vi phạm
hành chính số tiền 8.000.000đ đối với bà Nguyễn Thị Thu T về hành vi kinh doanh
hàng hóa không rõ nguồn gốc xuất xứ; xử phạt bà Đỗ Thị Q số tiền 7.500.00đ
kinh doanh nhưng không có giấy chứng nhận đăng ký hộ kinh doanh theo quy
định”. Như vậy có căn cứ khẳng định Công ty Hkhông vi phạm quy định tại điểm
b mục 10.2 Điều 10 của Hợp đồng số 70/HĐ.
Từ những phân tích trên thấy rằng đối với những quan điểm của VEC cho
rằng trong quá trình thực hiện hợp đồng Công ty Hđã có những vi phạm về nghĩa
vụ đã thỏa thuận theo Hợp đồng thì chỉ có căn cứ về việc Công ty Hvi phạm nghĩa
vụ không hoàn thành hồ sơ quyết toán và báo cáo kết quả kinh doanh hàng năm.
Trong Hợp đồng 70/HĐ các bên không thỏa thuận các trường hợp hủy bỏ hợp
đồng mà chỉ thỏa thuận các trường hợp chấm dứt hợp đồng tại Điều 13. Nguyên
đơn VEC khởi kiện yêu cầu hủy bỏ hợp đồng căn cứ theo điểm b khoản 1 Điều
423 Bộ luật Dân sự. Hội đồng xét xử xét thấy:
Tại khoản 1 Điều 423 Bộ luật Dân sự 2015 quy định:
“Một bên có quyền hủy bỏ hợp đồng và không phải bồi thường thiệt hại trong
trường hợp sau đây:
a) Bên kia vi phạm hợp đồng là điều kiện hủy bỏ mà các bên đã thỏa thuận;
b) Bên kia vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ hợp đồng;
c) Trường hợp khác do luật quy định.”
Tại khoản 2 Điều 423 Bộ luật Dân sự 2015 quy định: “Vi phạm nghiêm trọng
là việc không thực hiện đúng nghĩa vụ của một bên đến mức làm cho bên kia
không đạt được mục đích của việc giao kết hợp đồng”.
Xét thấy: Tại Điều 1 của Hợp đồng số 70/HĐ quy định: “Hợp đồng này là xác
lập những quy định cần thiết cho việc thực hiện có hiệu quả và thành công giữa
11
bên A và bên B trong việc đầu tư xây dựng và kinh doanh tại Trạm dừng nghỉ số 5
thuộc lý trình Km 236+940 của Dự án đường cao tốc Nội Bài - Lào Cai theo đúng
các quy định hiện hành”. Theo đó thấy rằng mặc dù Công ty H có vi phạm nghĩa
vụ đã thỏa thuận trong hợp đồng về việc không hoàn thành hồ sơ quyết toán và báo
cáo kết quả kinh doanh hàng năm nhưng vi phạm này không đến mức làm cho VEC
không đạt được mục đích của việc giao kết hợp đồng. Mặt khác, quá trình thực hiện
hợp đồng, ngày 16/11/2017 Tổng công ty Đầu tư phát triển đường cao tốc Việt
Nam đã ban hành thông báo số 3725/TB-VEC thông báo kết luận của phó Tổng
giám đốc Tổng công ty Đầu tư phát triển đường cao tốc Việt Nam là ông Nguyễn
Văn Nhi tại cuộc họp kiểm điểm tiến độ thực hiện quyết toán các trạm dừng nghỉ
trên tuyến đường cao tốc Nội Bài- Lào Cai trong đó có Công ty Hvới nội dung:
“VEC chia sẻ với nhà đầu tư về vị trí của trạm dừng nghỉ chưa thực sự thuận lợi
để kinh doanh dịch vụ nhà hàng, ki ốt... Tuy nhiên, để trạm dừng nghỉ được thực
hiện đúng với ý tưởng, chủ trương ban đầu của UBND tỉnh Lào Cai và VEC quảng
bá hình ảnh, văn hóa địa phương và đường cao tốc, đề nghị nhà đầu tư bằng sự
nỗ lực của mình tiếp tục duy trì hoạt động khu vực nhà ăn uống, ki-ốt giới thiệu,
bày bán sản phẩm địa phương. Nhà đầu tư khẩn chương hoàn thành hồ sơ quyết
toán (được kiểm toán) giai đoạn 1 theo quy định trước ngày 10/12/2017 như đã
cam kết tại cuộc họp”. Như vậy chính VEC đã thừa nhận nhà đầu tư là Công ty
Hđã hoàn thiện các hạng mục theo hợp đồng đã ký kết và đi vào hoạt động, VEC
không có ý kiến gì về việc Công ty H tự ý thay đổi thiết kế, điều chỉnh quy mô
khi chưa báo cáo, mà chỉ nhắc nhở Công ty Hhoàn thành hồ sơ quyết toán (được
kiểm toán).
Vì vậy VEC khởi kiện yêu cầu hủy bỏ Hợp đồng số 70/HĐ theo quy định tại
điểm b khoản 1 Điều 423 Bộ luật Dân sự 2015 là không có căn cứ chấp nhận.
Ngoài ra theo các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án thể hiện: Ngày
25/6/2021 Tổng công ty Đầu tư phát triển đường cao tốc Việt Nam ban hành thông
báo số 1225/TB-VEC về việc hủy hợp đồng trạm dừng nghỉ km 236+940 tuyến
NBLC gửi Công ty H, nội dung hủy hợp đồng vì những lý do sau: “...a. Lý do
chủ quan: Hợp đồng ký trái pháp luật; dự án không được thẩm định về tổng mức
đầu tư, phương án tài chính, hiệu quả kinh tế - xã hội; không có dự toán và thẩm
định dự toán; bên B vi phạm các quy định tại Điều 5, Điều 7, khoản 10.2 Điều 10,
Điều 11 của hợp đồng số 70/HĐ-VEC/2014; b. Lý do khách quan: Theo kết luận
của UBKTTW tại thông báo kết luận số 804/TB-UBTKTW ngày 13/5/2020 yêu
cầu hủy hợp đồng....”. Tuy nhiên tại đơn khởi kiện ngày 11/5/2023, gửi Tòa án
nhân dân thành phố Lào Cai VEC lại đưa ra căn cứ yêu cầu hủy hợp đồng do Công
ty Hvi phạm quy định tại khoản 3.4 Điều 3 và điểm c khoản 10.2 Điều 10 và vi
phạm khoản 7.8 Điều 7 của Hợp đồng số 70/HĐ. Mặt khác tại phiên tòa Người đại
diện theo ủy quyền của VEC lại khẳng định Hợp đồng số 70/HĐ được ký đúng
theo quy định của pháp luật.
Quá trình giải quyết vụ án tại Tòa án cấp phúc thẩm Công ty H, cũng như
Tổng công ty Đầu tư phát triển đường cao tốc Việt Nam đều đưa ra chứng cứ
chứng minh quá trình thực hiện hợp đồng Công ty H đã nộp đầy đủ tiền thuê đất
12
hàng năm theo thông báo nộp tiền của Chi cục thuế Bảo T cho VEC và VEC đã
nộp đủ vào ngân sách nhà nước theo đúng quy định của pháp luật.
Như vậy các căn cứ VEC đưa ra để yêu cầu hủy hợp đồng số 70/HĐ đối với
Công ty Hkhông có sự thống nhất và không có cơ sở để chấp nhận.
[2.4] Đối với kháng cáo của VEC cho rằng Bản án sơ thẩm nhận định những
vi phạm liên quan đến quyết toán và báo cáo kinh doanh không thuộc trường hợp
chấm dứt hợp đồng theo quy định tại Điều 13 của Hợp đồng được ký giữa hai bên
là không đúng quy định của pháp luật, chưa phân biệt rõ chế định hủy bỏ hợp
đồng và chấm dứt hợp đồng. Xét thấy, Bản án sơ thẩm đã nhận định cụ thể đối
với những ý kiến của VEC cho rằng Công ty H vi phạm nghĩa vụ theo thỏa thuận
trong Hợp đồng. Việc Bản án sơ thẩm đối chiếu vi phạm của Công ty Hvới các
trường hợp chấm dứt hợp đồng theo thỏa thuận tại Điều 13 của Hợp đồng và nhận
định vi phạm của Công ty Hkhông thuộc trường hợp chấm dứt (hủy) hợp đồng là
chưa đúng, bởi lẽ hủy bỏ hợp đồng và chấm dứt hợp đồng là hai chế định khác
nhau. Tuy nhiên sai sót này của bản án sơ thẩm không ảnh hưởng đến kết quả giải
quyết vụ án, cần yêu cầu Tòa án cấp sơ thẩm nghiêm túc rút kinh nghiệm.
[3] Quá trình giải quyết vụ án tại cấp phúc thẩm, nguyên đơn VEC không
cung cấp được tài liệu, chứng cứ nào khác chứng minh nội dung kháng cáo của
mình là có căn cứ. Do đó, Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy cần giữ nguyên
Bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân thành phố Lào Cai.
[4] Về án phí phúc thẩm:
Do kháng cáo không được chấp nhận, Hội đồng xét xử phúc thẩm giữ nguyên
Bản án sơ thẩm nên người kháng cáo Tổng công ty Đầu tư phát triển đường cao
tốc V phải chịu án phí kinh doanh thương mại phúc thẩm theo quy định tại Điều
148 Bộ luật Tố tụng dân sự.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 308, Điều 148 Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu,
nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.
1. Không chấp nhận kháng cáo của Tổng công ty Đầu tư phát triển đường cao
tốc V. Giữ nguyên Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 08/2024/KDTM-
ST ngày 15/4/2024, của Tòa án nhân dân thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai.
2. Về án phí kinh doanh thương mại phúc thẩm:
Tổng công ty Đầu tư phát triển đường cao tốc V phải chịu tiền án phí kinh
doanh thương mại phúc thẩm là 2.000.000 đồng (Hai triệu đồng). Xác nhận Tổng
công ty Đầu tư phát triển đường cao tốc V đã nộp số tiền 2.000.000đồng (Hai
triệu đồng) tiền tạm ứng án phí phúc thẩm theo Biên lai thu tạm ứng án phí số:
0000588 ngày 13/5/2024 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Lào Cai, tỉnh
Lào Cai. Tổng công ty Đầu tư phát triển đường cao tốc V đã nộp đủ tiền án phí
kinh doanh thương mại phúc thẩm.
13
Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.
“Trường hợp bản án được thi hành theo quy định điều 2 Luật Thi hành án
dân sự thì người được thi hành án dân sự, người được thi hành án dân sự, người
phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành
án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các
điều 6,7,7 a, 9 Luật thi hành án Dân sự. Thời hiệu thi hành án được quy định tại
Điều 30 Luật thi hành án Dân sự”.
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Lào Cai (2);
- TAND TP.Lào Cai;
- Chi cục THADS TP.C;
- Các đương sự;
- Lưu VT, HSVA.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Trần Thị Khánh Vân
Tải về
Bản án số 04/2024/KDTM-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 04/2024/KDTM-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 07/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 30/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 30/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 27/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 27/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 20/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 11/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 11/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 11/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 10/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 10/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 29/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 24/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 23/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 19/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 18/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 11/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 08/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 01/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
20
Ban hành: 29/07/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm