Bản án số 36/2025/DS-ST ngày 30/09/2025 của Tòa án nhân dân khu vực 6 - Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 36/2025/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 36/2025/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 36/2025/DS-ST
| Tên Bản án: | Bản án số 36/2025/DS-ST ngày 30/09/2025 của Tòa án nhân dân khu vực 6 - Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất |
|---|---|
| Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất |
| Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
| Tòa án xét xử: | Tòa án nhân dân khu vực 6 - Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi |
| Số hiệu: | 36/2025/DS-ST |
| Loại văn bản: | Bản án |
| Ngày ban hành: | 30/09/2025 |
| Lĩnh vực: | Dân sự |
| Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Thông tin về vụ/việc: | ng Phạm Đình T, bà Nguyễn Thị Kim N. 2 tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất với ông Nguyễn K, bà Trần Thị N1. Toà án chấp nhận yêu cầu khởi kiện |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
KHU VỰC 6 - QUẢNG NGÃI
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số: 36/2025/DS-ST
Ngày: 30-9-2025
V/v: “Tranh chấp hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất”
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN KHU VỰC 6 - QUẢNG NGÃI
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Lê Phong
Các Hội thẩm nhân dân:
1. Ông Phạm Hòa
2. Bà Bùi Thị Cẩm
- Thư ký phiên tòa: Ông Lê Văn Thái, là Thư ký Tòa án nhân dân khu vực
6 - Quảng Ngãi.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân khu vực 6 - Quảng Ngãi tham gia
phiên toà: Bà Hoàng Thị Xuân Thu - Kiểm sát viên.
Ngày 30 tháng 9 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân khu vực 6 – Quảng
Ngãi xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 03/2023/TLST-DS ngày 01 tháng
3 năm 2023 về việc “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất”,
theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 152/2024/QĐXXST-DS ngày 05 tháng 12
năm 2024 và thông báo thời gian mở lại phiên toà số: 178/TB-TA ngày 15 tháng 9
năm 2025, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Ông Phạm Đình T, sinh năm 1976, bà Nguyễn Thị Kim N,
sinh năm 1982; địa chỉ: Thôn D, xã P, thị xã Đ, tỉnh Quảng Ngãi (nay là thôn D,
xã K, tỉnh Quảng Ngãi). Vắng mặt.
Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn: Ông Huỳnh Ngọc Ấ, sinh năm
1975; địa chỉ: H H, phường N, tỉnh Quảng Ngãi; là người đại diện theo ủy quyền
của nguyên đơn (theo giấy ủy quyền ngày 31/10/2023). Có mặt.
2. Bị đơn: Ông Nguyễn K, bà Trần Thị N1; địa chỉ: Thôn D, xã P, thị xã Đ,
tỉnh Quảng Ngãi (nay là thôn D, xã K, tỉnh Quảng Ngãi). Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
2
Theo đơn khởi kiện đề ngày 25/11/2022 và trong quá trình giải quyết vụ án,
nguyên đơn ông Phạm Đình T, bà Nguyễn Thị Kim N và người đại diện theo ủy
quyền của nguyên đơn trình bày:
Nguồn gốc thửa đất số 61, tờ bản đồ số 35, diện tích 190m
2
, tại thôn D, xã
P, thị xã Đ, tỉnh Quảng Ngãi (nay là thôn D, xã K, tỉnh Quảng Ngãi) là do ông
Nguyễn K mua tài sản thanh lý của Hợp tác xã N2, được sự đồng ý của UBND xã
P. Ông K đã trả đủ tiền mua tài sản thanh lý cho Hợp tác xã là 7.434.800đồng và
nộp thêm 193.900đồng tiền hỗ trợ xây dựng trường M.
Ngày 28/4/2021 ông Nguyễn K, bà Trần Thị N1 chuyển nhượng thửa đất số
61 nêu trên cho ông Phạm Đình T, bà Nguyễn Thị Kim N theo giấy bán đất viết
tay ngày 28/4/2021, giá chuyển nhượng thửa đất nêu trên là 300.000.000đồng.
Khi xác lập hợp đồng chuyển nhượng thì các bên đều có đầy đủ năng lực hành vi
dân sự và hoàn toàn tự nguyện. Ông T, bà N đã giao đủ tiền cho ông K, bà N1 và
ông K, bà N1 đã bàn giao đất trên thực địa cho ông T, bà N. Tuy nhiên, sau khi
nhận tiền chuyển nhượng xong thì ông K, bà N1 không làm các thủ tục để hoàn
thiện hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, không kê khai, đăng ký quyền
sử dụng đất để chuyển quyền sử dụng đất cho ông Phạm Đình T, bà Nguyễn Thị
Kim N theo thoả thuận. Do đó, ông Phạm Đình T, bà Nguyễn Thị Kim N yêu cầu
Tòa án công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Phạm
Đình T, bà Nguyễn Thị Kim N với ông Nguyễn K, bà Trần Thị N1 theo giấy bán
đất ngày 28/4/2021 với diện tích đất là 174,9m
2
; đối với diện tích đất 15,1m
2
nằm
trong hành lang an toàn giao thông đường sắt thì ông T, bà N không yêu cầu công
nhận. Ông T và bà N không yêu cầu Tòa án giải quyết hậu quả của hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu trong vụ án này. Trường hợp nếu Tòa
án tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất nêu trên vô hiệu thì các
bên sẽ tự thỏa thuận giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu, nếu không thỏa
thuận được thì các bên sẽ yêu cầu Tòa án giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu
bằng một vụ án khác.
Tại biên bản lấy lời khai ngày 11/4/2023, văn bản trình bày ý kiến đề ngày
10/9/2024, bị đơn ông Nguyễn K, bà Trần Thị N1 trình bày:
Ngày 12/6/2000 Hợp tác xã N2 có bán thanh lý diện tích đất 690m
2
(loại
đất chuyên dụng xây dựng công trình nhà kho), thuộc quyền sử dụng đất của Hợp
tác xã nông nghiệp xã N2, gắn liền với đất chỉ có 01 khu nhà kho. Giới cận thửa
đất như sau:
- Đông giáp Quốc lộ A, cạnh dài 34,5m;
- Tây giáp đường S, cạnh dài 34,5m;
- Nam giáp đất của Hợp tác xã, cạnh dài 20m;
- Bắc giáp đất thổ cư của bà Nguyễn Thị T1, cạnh dài 20m.
Hợp tác xã thanh lý diện tích đất nêu trên cho 04 người, gồm: Ông Bùi
Quang K1, ông Nguyễn Tấn K2, ông Trần Ngọc L và ông Nguyễn Kiện . Giá
chuyển nhượng thanh lý trên tổng diện tích đất 690m
2
là 27.000.000đồng. Khi
3
chuyển nhượng thanh lý tài sản nêu trên thì Hợp tác xã và bên nhận chuyển
nhượng đã được phân chia về diện tích đất, ranh giới đất, đồng thời được giao vị
trí đất cụ thể.
Sau khi mua thanh lý xong, các ông Bùi Quang K1, Nguyễn Tấn K2 và
Trần Ngọc L đã hoàn thành nghĩa vụ tài chính, kê khai đăng ký quyền sử dụng
đất, sau đó trực tiếp sử dụng đất làm nhà ở và đã được cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất, không có ai tranh chấp.
Về phần ông Nguyễn K, sau khi đã hoàn thành xong nghĩa vụ tài chính và
được nhận chuyển nhượng từ việc bán thanh lý của Hợp tác xã với diện tích đất là
190m
2
, giá mua thanh lý là 7.434.800đồng, thuộc thửa đất số 61, tờ bản đồ số 35
(đo vẽ năm 2006), tại thôn D, xã P, thị xã Đ, tỉnh Quảng Ngãi, có giới cận:
- Phía Bắc giáp thửa đất số 62, tờ bản đồ số 35;
- Phía Nam giáp thửa đất số 64, tờ bản đồ số 35;
- Phía Đông giáp hành lang Quốc lộ A;
- Phía Tây giáp hành lang an toàn đường sắt.
Sau khi mua thanh lý thửa đất nêu trên, ông Nguyễn K đã trực tiếp quản lý,
sử dụng nhưng do tuổi cao, đau ốm thường xuyên nên ông K không đăng ký, kê
khai quyền sử dụng đất được. Việc quản lý, sử dụng đất của ông K là ổn định, liên
tục, lâu dài và không có ai tranh chấp.
Năm 2021, vợ chồng ông Phạm Đình T, bà Nguyễn Thị Kim N là người
cùng địa phương đến hỏi mua lại thửa đất nêu trên để sử dụng. Lúc này vợ chồng
ông K, bà N1 không có nhu cầu chỗ ở tại vị trí thửa đất này nữa và cần tiền chữa
bệnh nên đồng ý chuyển nhượng thửa đất nêu trên cho ông T, bà N. Đến ngày
28/4/2021 ông K, bà N1 viết giấy tay chuyển nhượng toàn bộ thửa đất nêu trên
cho ông T, bà N với số tiền 300.000.000đồng.
Khi nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất, ông T, bà N đã giao đủ tiền
cho ông K, bà N1 nhận; đồng thời, hai bên thỏa thuận miệng là vợ chồng ông T,
bà N tự đi đăng ký, kê khai quyền sử dụng đất cho vợ chồng ông T, bà N vì vợ
chồng ông K đau ốm nên không thể đi đăng ký quyền sử dụng đất được.
Việc vợ chồng ông K chuyển nhượng toàn bộ thửa đất số 61 nêu trên cho
vợ chồng ông T là đúng sự thật và đúng ý chí, nguyện vọng của hai bên. Vì vậy,
ông K, bà N1 yêu cầu Tòa án ghi nhận nguyện vọng của ông, bà là đã chuyển
nhượng thửa đất nêu trên cho vợ chồng ông T, bà N để không ảnh hưởng đến
quyền lợi của ông T, bà N và của vợ chồng ông, bà.
* Ý kiến của Viện kiểm sát nhân dân khu vực 6 – Quảng Ngãi tại phiên tòa:
- Về tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án, kể từ khi thụ lý vụ án cho
đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư
ký phiên tòa tuân thủ đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Việc chấp hành
pháp luật của nguyên đơn đúng theo quy định tại các điều 70, 71 của Bộ luật tố
4
tụng dân sự; bị đơn không chấp hành đúng theo quy định tại các điều 70, 72 của
Bộ luật tố tụng dân sự.
- Về quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử: Chấp nhận yêu
cầu khởi kiện của ông Phạm Đình T, bà Nguyễn Thị Kim N về việc yêu cầu công
nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo giấy bán đất viết tay ngày
28/4/2021 giữa ông Nguyễn K, bà Trần Thị N1 với ông Phạm Đình T, bà Nguyễn
Thị Kim N. Ông Phạm Đình T, bà Nguyễn Thị Kim N có trách nhiệm liên hệ với
cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để làm thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất đối với diện tích 174,9m
2
, thuộc thửa đất số 61, tờ bản đồ số 35, tại thôn
D, xã P, thị xã Đ, tỉnh Quảng Ngãi (nay là thôn D, xã K, tỉnh Quảng Ngãi) theo
quy định của pháp luật. Ghi nhận sự tự nguyện của nguyên đơn về việc đồng ý
chịu toàn bộ án phí và chi phí tố tụng theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được xem
xét tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử
nhận định:
[1] Về tố tụng:
[1.1] Về xác định quan hệ pháp luật tranh chấp: Ông Phạm Đình T, bà
Nguyễn Thị Kim N khởi kiện ông Nguyễn K, bà Trần Thị N1, yêu cầu Tòa án
công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo giấy bán đất viết tay
ngày 28/4/2021. Do đó, xác định quan hệ pháp luật tranh chấp là “Tranh chấp
hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất” theo quy định tại khoản 3 Điều 26
của Bộ luật tố tụng dân sự.
[1.2] Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Bị đơn ông Nguyễn K, bà Trần Thị
N1 có nơi cư trú tại thôn D, xã P, thị xã Đ, tỉnh Quảng Ngãi (nay là thôn D, xã K,
tỉnh Quảng Ngãi). Do đó, Tòa án nhân dân thị xã Đức Phổ (nay là Toà án nhân
dân khu vực 6 – Quảng Ngãi) thụ lý, giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền theo
quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng
dân sự.
[1.3] Ngày 01/7/2025 Tòa án nhân dân khu vực 6 – Quảng Ngãi được thành
lập. Căn cứ theo quy định tại Nghị quyết số 81/2025/UBTVQH15 ngày 27/6/2025
của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về việc thành lập Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa
án nhân dân khu vực; quy định phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ của Tòa án
nhân dân cấp tỉnh, Tòa án nhân dân khu vực và Nghị quyết số 01/2025/NQ-HĐTP
ngày 27/6/2025 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp
dụng một số quy định về tiếp nhận nhiệm vụ, thực hiện thẩm quyền của Tòa án
nhân dân thì Tòa án nhân dân khu vực 6 – Quảng Ngãi kế thừa quyền, nghĩa vụ,
trách nhiệm của Tòa án nhân dân thị xã Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi và Tòa án
nhân dân huyện Ba Tơ, tỉnh Quảng Ngãi. Phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ của
Tòa án nhân dân khu vực 6 – Quảng Ngãi đối với 13 đơn vị hành chính cấp xã
thuộc tỉnh Quảng Ngãi, trong đó có xã K (được nhập từ các xã P và Phổ C cũ). Do
5
đó, Tòa án nhân dân khu vực 6 – Quảng Ngãi tiếp tục giải quyết vụ án nêu trên là
đúng thẩm quyền theo quy định tại Nghị quyết số 81/2025/UBTVQH15 ngày
27/6/2025 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Nghị quyết số 01/2025/NQ-HĐTP
ngày 27/6/2025 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.
[1.4] Tòa án đã triệu tập hợp lệ bị đơn ông Nguyễn K, bà Trần Thị N1 tham
gia phiên tòa đến lần thứ hai nhưng ông K, bà N1 vẫn vắng mặt không có lý do.
Do đó, căn cứ quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ
luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử.
[2] Về nội dung:
[2.1] Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và ý kiến trình
bày của các bên đương sự trong quá trình giải quyết vụ án có cơ sở xác định:
Nguồn gốc thửa đất số 61, tờ bản đồ số 35, tại thôn D, xã P, thị xã Đ, tỉnh Quảng
Ngãi (nay là thôn D, xã K, tỉnh Quảng Ngãi) là do ông Nguyễn K mua tài sản
thanh lý của Hợp tác xã N2 vào năm 2000, được sự đồng ý của UBND xã P. Ông
Nguyễn K đã trả đủ tiền mua thanh lý tài sản cho Hợp tác xã là 7.434.800đồng và
nộp thêm 193.900đồng tiền hỗ trợ xây dựng trường M. Sau khi mua thanh lý thửa
đất nêu trên, vợ chồng ông Nguyễn K, bà Trần Thị N1 trực tiếp quản lý, sử dụng
ổn định, không có ai tranh chấp. Đến ngày 28/4/2021 ông K, bà N1 chuyển
nhượng thửa đất nêu trên cho ông Phạm Đình T, bà Nguyễn Thị Kim N với giá
300.000.000đồng (theo giấy bán đất viết tay ngày 28/4/2021).
[2.2] Xét hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Nguyễn K,
bà Trần Thị N1 với ông Phạm Đình T, bà Nguyễn Thị Kim N theo giấy bán đất
viết tay ngày 28/4/2021, Hội đồng xét xử thấy rằng:
[2.2.1] Thửa đất số 61 nêu trên do ông Nguyễn K mua thanh lý hợp pháp
của Hợp tác xã N2 vào năm 2000. Ông K đã thực hiện xong nghĩa vụ với Hợp tác
xã, sau đó trực tiếp quản lý, sử dụng đất ổn định, không có ai tranh chấp. Tuy
nhiên, quá trình sử dụng đất vợ chồng ông K không làm thủ tục kê khai để được
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định. Ngày 28/4/2021 ông K, bà
N1 chuyển nhượng thửa đất nêu trên cho ông Phạm Đình T, bà Nguyễn Thị Kim
N với giá 300.000.000đồng theo giấy bán đất viết tay ngày 28/4/2021; các bên đã
thực hiện xong nghĩa vụ trả tiền và giao đất.
[2.2.2] Việc ông K, bà N1 chuyển nhượng thửa đất nêu trên cho ông T, bà
N khi chưa có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là chưa đảm bảo các điều kiện
theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 188 của Luật đất đai năm 2013; đồng thời,
vi phạm điều kiện về hình thức của hợp đồng theo quy định tại Điều 502 của Bộ
luật dân sự năm 2015, điểm a khoản 3 Điều 167 của Luật đất đai năm 2013. Tuy
nhiên, thửa đất số 61 nêu trên được ông K mua thanh lý tài sản hợp pháp của Hợp
tác xã N2, được Ủy ban nhân dân xã P xác nhận nên đây là giấy tờ theo quy định
tại điểm đ khoản 1 Điều 100 Luật đất đai năm 2013. Từ khi mua thanh lý thửa đất
nêu trên đến khi chuyển nhượng cho ông T, bà N thì vợ chồng ông K trực tiếp
quản lý, sử dụng ổn định, không có ai tranh chấp. Tại biên bản làm việc ngày
12/7/2024, Ủy ban nhân dân thị xã Đ xác định nếu thủ tục thanh lý tài sản cố định
6
cho ông K là một trong các loại giấy tờ quy định tại khoản 1 Điều 100 Luật đất
đai thì ông K, bà N1 có thể được xem xét cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Hiện nay ông K, bà N1 đã chuyển nhượng thửa đất nêu trên cho ông T, bà N; các
bên đã thực hiện xong nghĩa vụ giao tiền, nhận đất. Trong quá trình giải quyết vụ
án, bị đơn ông K, bà N1 yêu câu Tòa án ghi nhận việc vợ chồng ông, bà đã
chuyển nhượng thửa đất nêu trên cho ông T, bà N. Do đó, để đảm bảo quyền lợi
của các bên đương sự, Hội đồng xét xử xét thấy cần công nhận hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất giữa ông K, bà N1 với ông T, bà N đối với 174,9m
2
,
thuộc thửa đất số 61 nêu trên. Đối với 15,1m
2
đất, thuộc thửa đất số 61 nêu trên
nhưng nằm trong hành lang an toàn giao thông đường sắt, nguyên đơn không yêu
cầu công nhận nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[3] Về chi phí tố tụng: Tại phiên tòa sơ thẩm, người đại diện theo ủy quyền
của nguyên đơn ông Phạm Đình T, bà Nguyễn Thị Kim N đồng ý chịu toàn bộ chi
phí tố tụng với tổng số tiền là 10.500.000đồng, gồm: 2.000.000đồng chi phí xem
xét, thẩm định tại chỗ và 8.500.000đồng chi phí thẩm định giá tài sản. Việc người
đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn đồng ý chịu toàn bộ chi phí tố tụng là tự
nguyện, không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội nên được ghi
nhận. Nguyên đơn đã nộp toàn bộ chi phí tố tụng và đã chi xong.
[4] Về án phí: Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được Tòa án chấp
nhận nên bị đơn ông Nguyễn K, bà Trần Thị N1 phải chịu án phí dân sự sơ thẩm
với số tiền là 300.000đồng. Ông K, bà Nghĩa là người cao tuổi nhưng không có
đơn đề nghị miễn án phí nên Hội đồng xét xử không xem xét việc miễn án phí cho
ông K, bà N1. Tại phiên tòa sơ thẩm, người đại diện theo ủy quyền của nguyên
đơn đồng ý chịu toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm thay cho bị đơn. Xét thấy, việc
người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn đồng ý chịu toàn bộ án phí sơ thẩm
thay cho bị đơn là tự nguyện, không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo
đức xã hội nên được ghi nhận. Số tiền 300.000đồng tạm ứng án phí dân sự sơ
thẩm nguyên đơn đã nộp sẽ được khấu trừ vào số tiền án phí dân sự sơ thẩm
nguyên đơn phải chịu.
[5] Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân khu vực 6 – Quảng Ngãi tại
phiên tòa phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều
39, khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, các điều 144, 147, 157, 158, 235, 266,
271 và 273 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; các điều 100, 167, 188 của Luật
đất đai năm 2013; Điều 137 của Luật đất đai sửa đổi, bổ sung năm 2024; khoản 2
Điều 129, Điều 502 của Bộ luật dân sự năm 2015; khoản 2 Điều 26; điểm a khoản
3 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội.
Tuyên xử:
7
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Phạm Đình T, bà Nguyễn Thị Kim
N.
2. Công nhận giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo giấy bán
đất viết tay ngày 28/4/2021 giữa ông Nguyễn K, bà Trần Thị N1 với ông Phạm
Đình T, bà Nguyễn Thị Kim N đối với thửa đất số 61, tờ bản đồ số 35, diện tích
174,9m
2
, tại thôn D, xã P, thị xã Đ, tỉnh Quảng Ngãi (nay là thôn D, xã K, tỉnh
Quảng Ngãi) là hợp pháp.
(Có sơ đồ địa chính thửa đất kèm theo bản án này và là một bộ phận không
thể tách rời bản án này).
3. Ông Phạm Đình T, bà Nguyễn Thị Kim N có quyền và nghĩa vụ liên hệ
với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để làm thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất đối với diện tích 174,9m
2
, thuộc thửa đất số 61, tờ bản đồ số 35, tại
thôn D, xã P, thị xã Đ, tỉnh Quảng Ngãi (nay là thôn D, xã K, tỉnh Quảng Ngãi)
theo quy định của pháp luật.
4. Về chi phí tố tụng: Ghi nhận sự tự nguyện của nguyên đơn ông Phạm
Đình T, bà Nguyễn Thị Kim N về việc tự chịu toàn bộ chi phí tố tụng với tổng số
tiền là 10.500.000đồng (mười triệu năm trăm nghìn đồng). Ông Phạm Đình T, bà
Nguyễn Thị Kim N đã nộp tạm ứng và đã chi phí xong.
5. Về án phí: Ghi nhận sự tự nguyện của nguyên đơn ông Phạm Đình T, bà
Nguyễn Thị Kim N về việc chịu toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm thay cho bị đơn
với số tiền là 300.000đồng (ba trăm nghìn đồng), được khấu trừ vào số tiền
300.000đồng (ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí ông T, bà N đã nộp theo biên
lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số: 0004152 ngày 29/12/2022 của Chi cục
Thi hành án dân sự thị xã Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi (nay là Phòng Thi hành án
dân sự khu vực 6 - Quảng Ngãi).
6. Đương sự có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án này trong
hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án; đương sự vắng mặt tại phiên tòa
được quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận
được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của Bộ luật tố
tụng dân sự.
7. Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự
thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa
thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị
cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân
sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành
án dân sự.
Nơi nhận:
- TAND tỉnh Quảng Ngãi;
- VKSND khu vực 6 - Quảng Ngãi;
- THADS tỉnh Quảng Ngãi;
- Các đương sự;
- Lưu: Hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa
(đã ký)
Lê Phong
8
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 26/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 12/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 06/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 06/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 14/10/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 30/09/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 30/09/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 30/09/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 30/09/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 30/09/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 30/09/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 29/09/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 29/09/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 29/09/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 29/09/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 29/09/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 29/09/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 29/09/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 29/09/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm