Bản án số 359/2025/DS-PT ngày 19/09/2025 của TAND tỉnh Đắk Lắk về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 359/2025/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 359/2025/DS-PT ngày 19/09/2025 của TAND tỉnh Đắk Lắk về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Đắk Lắk
Số hiệu: 359/2025/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 19/09/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Nguyên đơn yêu cầu công nhận hợp đồng chuyển nhượng
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH ĐẮK LẮK
Bản án số: 359/2025/DS-PT
Ngày: 19 9 2025.
“V/v: Tranh chấp hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất, hủy văn bản
thỏa thuận phân chia di sản thừa kế và
Tranh chấp hợp đồng tín dụng
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Lưu Thị Thu Hường
Các Thẩm phán: Ông Nguyễn Văn Hồng; Bà Nguyễn Thị Nhung.
- Thư phiên tòa: Nguyễn Thị Duyên - Thư Tòa án nhân dân tỉnh
Đắk Lắk.
- Đại diện Viện kim sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk tham gia phiên toà: Ông
Nguyễn Chí Hiếu - Chức vụ: Kiểm sát viên.
Ngày 19 tháng 9 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xét xử
phúc thẩm công khai ván dân sự thụ số 358/2024/TLPT-DS ngày 13 tháng 11
năm 2024 về việc Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, hủy
văn bản thỏa thuận phân chia di sản thừa kế và Tranh chấp hợp đồng tín dụng. Do
Bản án dân sự sơ thẩm số 242/2024/DS-ST ngày 20/9/2024 của Tòa án nhân dân
thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk bị kháng cáo. Theo Quyết định đưa vụ án
ra xét xử phúc thẩm số 330/2025/QĐ-PT ngày 04/8/2025, Quyết định hoãn phiên
tòa số 306/2025/QĐ-PT ngày 21/8/2025, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn:
1.1. Nguyên đơn: Phạm Thị H, sinh năm 1970; địa chỉ: B L, phường T,
thành phố B, tỉnh Đắk Lắk (nay là B L, phường T, tỉnh Đắk Lắk) có mặt;
Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp cho bà Phạm Thị H: Ông Đặng Ngọc
H1 Luật Văn phòng L2, đoàn luật tỉnh Đ; địa chỉ: Số B T, phường B, tỉnh
Đắk Lắk có mặt;
1.2. Nguyên đơn (đồng thời người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan):
Ngân hàng TMCP Đ; địa chỉ: A T, quận H, thành phố Hà Nội (nay là A T, phường
H, thành phố Hà Nội).
Người đại diện theo ủy quyền lại: Ông Ngô Trần Q, sinh năm 1986; địa chỉ:
D N, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk (nay là D N, phường T, tỉnh Đắk Lắk)
có mặt.
2
2. Bị đơn:
2.1. Bị đơn yêu cầu phản tố: Bà Nguyễn Thị Minh T, sinh năm 1957; địa
chỉ: 1 G, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk (nay184/36/37 G, phường B, tỉnh
Đắk Lắk).
Người đại diện theo ủy quyền của T: Ông Nguyễn Quốc H2, sinh năm
1970; địa chỉ: 1 G, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk (nay 184/36/37 G,
phường B, tỉnh Đắk Lắk) có mặt.
2.2. Bị đơn (đồng thời người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan yêu cầu
độc lập): Bùi Thị P, sinh năm 1985; địa chỉ: 1 G, phường T, thành phố B, tỉnh
Đắk Lắk (nay là 184/36/37 G, phường B, tỉnh Đắk Lắk) có mặt.
3. Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan yêu cầu độc lập: Ông Bùi Đức
S, sinh năm 1978; địa chỉ: B L, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk (nay là B L,
phường B, tỉnh Đắk Lắk) có mặt.
4. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
4.1. Ông Bùi Sỹ T1, sinh năm 1983; địa chỉ: Hẻm A, phường T, thành phố B,
tỉnh Đắk Lắk (nay là hẻm A G, phường B, tỉnh Đắk Lắk) vắng mặt;
4.2. Sở Tài nguyên Môi trường tỉnh Đ (nay Sở Nông nghiệp Môi
trường tỉnh Đ); địa chỉ: Số D - D N, phường T, tỉnh Đắk Lắk;
Người đại diện theo uỷ quyền: Ông Hoàng Xuân P1 Pgiám đốc phụ trách
văn phòng đăng ký đất đai tỉnh Đ vắng mặt;
4.3. Văn phòng C; địa chỉ: C N, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk (nay C N,
phường B, tỉnh Đắk Lắk);
Người đại diện theo ủy quyền: Bà Đặng Thanh Q1, sinh năm 1991; địa chỉ: 1
N, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk (nay là 1 N, phường B, tỉnh Đắk Lắk) vắng mặt;
4.4. Văn phòng C (nay là Văn phòng C); địa chỉ: A N, thành phố B, tỉnh Đắk
Lắk (nay là A N, phường T, tỉnh Đắk Lắk) vắng mặt;
4.5. Ông Nguyễn Duy H3, sinh năm 1958 và bà Lê Thị O, sinh năm 1964; địa
chỉ: A N, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk (nay A N, phường T, tỉnh Đắk
Lắk) vắng mặt;
4.6. Nguyễn Thị Thanh H4, sinh năm 1968; địa chỉ: A L, thành phố B, tỉnh
Đắk Lắk (nay là A L, phường T, tỉnh Đắk Lắk) vắng mặt;
4.7. Ông Bùi Đức T2, sinh năm 1976; địa chỉ: Tổ dân phố A, phường E, thành
phố B, tỉnh Đắk Lắk (nay là Tổ dân phố A, phường E, tỉnh Đắk Lắk) vắng mặt;
4.8. Bùi Thị Xuân T3, sinh năm 1982; địa chỉ: 2 P, phường F, quận H,
thành phố Hồ Chí Minh (nay 2 P, phường B, thành phố Hồ Chí Minh) vắng mặt;
4.9. Ông Bùi Đức T4, sinh năm 1974; địa chỉ: Tổ dân phố A, phường T, thành
phố B, tỉnh Đắk Lắk (nay là Tổ dân phố A, phường T, tỉnh Đắk Lắk) vắng mặt;
3
4.10. Hoàng Thị T5, sinh năm 1954; địa chỉ: Tổ dân phố A, phường E,
thành phố B, tỉnh Đắk Lắk (nay Tổ dân phố A, phường E, tỉnh Đắk Lắk) vắng
mặt;
4.11. Trần Thị L, sinh năm 1955; địa chỉ: 2 P, phường F, quận H, thành
phố Hồ Chí Minh (nay là 2 P, phường B, thành phố Hồ Chí Minh) vắng mặt;
Người đại diện theo ủy quyền của bà L, bà T5, ông T2, bà T3, ông T4: Bà Bùi
Thị P, sinh năm 1985; địa chỉ: 1 G, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk (nay
184/36/37 G, phường B, tỉnh Đắk Lắk) có mặt.
5. Người kháng cáo: Nguyên đơn Phạm Thị H; bị đơn Bùi Thị P; người
đại diện theo ủy quyền của bị đơn bà Nguyễn Thị Minh T là ông Nguyễn Quốc H2;
người quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Bùi Đức S người đại diện theo y
quyền của những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Hoàng Thị T5, Trần
Thị L, ông Bùi Đức T4, ông i Đức T2, bà Bùi Thị Xuân T3 là bà Bùi Thị P.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
* Theo đơn khởi kiện quá trình tố tụng, Người đại diện theo ủy quyền
của Nguyên đơn bà Phạm Thị H trình bày:
Năm 2010, bà H nhận chuyển nhượng của gia đình bà Nguyễn Thị Minh T
01 đất thuộc thửa đất số 164, tờ bản đồ số 27, diện ch 76,8 m
2
, toạ lạc tại phường
T, Thành phố B, tỉnh Đắk Lắk, đã được y ban nhân dân Thành phố B cấp Giấy
chứng nhận Quyền sử dụng đất số BA 398209 ngày 11/01/2010. Vì chồng của bà T
ông Bùi Đức L1 đã chết nên để thực hiện thủ tục chuyển nhượng lô đất nêu trên
cho bà H thì gia đình T gồm T, ông T1, bà P, ông S là các con của bà T đã lập
văn bản thỏa thuận phân chia di sản thừa kế tại Văn phòng C vào ngày 30/10/2010
về việc các con của T đồng ý tặng cho phần diện tích đất di sản của ông L1
sang cho T được toàn quyền quản lý. Tiếp đó, T đã lập hợp đồng chuyển
nhượng toàn bộ quyền sử dụng đất nêu trên cho H tại Văn phòng C số công chứng
2381 vào ngày 30/10/2010.
Sau khi nhận đtiền gia đình T đã bàn giao đất Giấy chứng nhận Quyền
sử dụng đất (bản gốc) cho bà H. Tuy nhiên, vì điều kiện kinh tế khó khăn nên bà H
chưa đăng biến động sang tên đổi chủ theo quy định của pháp luật. Do chưa
nhu cầu xây dựng nhà nên H đã rào lưới B40 xung quanh thửa đất để giữ đất,
trồng rau màu và sử dụng đất ổn định từ đó đến nay không tranh chấp với ai.
Tháng 11/2012, khi lập thủ tục đăng biến động sang tên đổi chủ đối với
diện tích đất đã nhận chuyển nhượng tại Cơ quan có thẩm quyền thì bà được cán bộ
tiếp nhận hồ hướng dẫn rằng: Do quy định pháp luật đã thay đổi nên các thành
viên trong gia đình T phải lập văn bản thỏa thuận phân chia di sản thừa kế để sang
tên giấy CNQSD đất cho T, sau đó T lập thủ tục sang nhượng quyền sử dụng
đất nêu trên cho thì mới đúng quy định pháp luật. Tuy nhiên, mặc cho đã rất
4
nhiều lần yêu cầu T lập thủ tục phân chia di sản thừa kế để thực hiện việc đăng
biến động thay đổi chủ sử dụng đất đối với diện tích đất nêu trên nhưng T
nhiều lần né tránh, cố tình không thực hiện theo cam kết giữa các bên.
Ngày 03/04/2021, bà nhận được tin báo của các hộ dân lân cận về việc ông S
và bà P mang máy múc đến phá hàng rào và đổ đá trên đất của bà. Bà đã thông báo
đến chính quyền địa phương để được giải quyết. Trong quá trình giải quyết vụ việc,
bà được biết vào năm 2020 gia đình T đã thông báo mất Giấy chứng nhận Quyền
sử dụng đất số BA 398209 được Sở Tài nguyên Môi trường cấp lại Giấy chứng
nhận Quyền sử dụng đất số CT 453700 ngày 04/06/2020 đối với thửa đất nêu trên.
Tiếp đó, ngày 10/03/2021 bà T, ông T1, bà P, ông S đã lập thủ tục phân chia di sản
thừa kếT ông T1 đã đthừa kế đối với thửa đất nêu trên cho ông S bà P, ngày
26/03/2021 Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai Thành phố B đã cập nhật thay đổi
chủ sử dụng sang cho ông S và bà P.
nhận thấy, năm 2010 gia đình T đã lập văn bản thỏa thuận phân chia di
sản thừa kế của ông L1 lập hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối với
thửa đất số 164, tờ bản đồ số 27, diện tích 76,8 m
2
cho thông qua Văn bản thỏa
thuận phân chia di sản thừa kế hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đã
được công chứng tại Văn phòng C ngày 30/10/2010. Việc gia đình nhà T thông
báo mất Giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất, lập thủ tục xin cấp lại Giấy chứng
nhận Quyền sử dụng đất, phân chia di sản thừa kế là hành vi trái pháp luật, gây thiệt
hại nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của bà.
vậy, bà H khởi kiện đề nghị Tòa án nhân dân Thành phố Buôn Ma Thuột
giải quyết buộc T tiếp tục thực hiện Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
được công chứng số 2381 vào ngày 30/10/2010 tại Văn phòng C. Đồng thời, tuyên
hủy giấy CNQSD đất số CT 453700 do Sở T cấp ngày 04/06/2020 mang tên bà T đã
đăng ký biến động sang tên ông i Đức SBùi Thị P ngày 26/03/2021.
Đồng thời, bà yêu cầu Toà án tuyên huỷ Văn bản thoả thuận phân chia di sản
thừa kế công chứng số 000389, quyển số 01 TP/CC SCC/HĐGD ngày 10/3/2021
của Văn phòng C tuyên Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số
01/2021/12218200/HĐBĐ ký ngày 30/3/2021 giữa bà Bùi Thị P, ông Bùi Đức S
Ngân hàng TMCP Đ Chi nhánh B là vô hiệu.
Ngày 11/4/2024 H khởi kiện đề nghị Tòa án tuyên hủy quyết định số
231/QĐ–STNMT ngày 03/6/2020 của Sở tài nguyên và môi trường tỉnh Đ.
* Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn Ngân hàng TMCP Đ Chi
nhánh B (đồng thời là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan) trình bày:
Ngày 02/04/2021, Bùi Thị P ký hợp đồng tín dụng vay vốn với Ngân hàng
TMCP Đ Chi nhánh B (Sau đây gọi Ngân hàng) theo Hợp đồng tín dụng số
01/2021/12218200/HĐTD. Số tiền vay: 2.000.000.000đ (Bằng chữ: Hai tđồng).
5
Mục đích sử dụng tiền vay: Xây dựng nhà ở. Thời hạn vay 240 tháng ktngày
02/04/2021. Lãi suất: áp dụng lãi suất thả nổi, điều chỉnh định kỳ 06 tháng/lần vào
ngày 01/01 01/07. Kỳ đầu tiên (36 tháng kể từ ngày vay) áp dụng lãi suất
10.5%/năm, các kỳ tiếp theo bằng lãi suất tiết kiệm trả sau kỳ hạn 24 tháng + biên
độ tối thiểu 4.0%/năm không thấp hơn lãi suất cho vay trung dài hạn đang áp
dụng tại thời điểm điều chỉnh. Lãi suất quá hạn: 150% lãi suất trong hạn.
Khoản vay nói trên được đảm bảo bởi: Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất
số: 01/2021/12218200/HĐBĐ ngày 30/03/2021 ký kết giữa bên thế chấp là Bùi
Thị P Ông Bùi Đức S Ngân hàng TMCP Đ Chi nhánh B1 Tài sản thế chấp
Quyền sử dụng đất tài sản gắn liền với đất tại Phường T, Thành phố B, tỉnh
Đăk Lăk theo Giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất số CT 453700, do Sở Tài nguyên
môi trường Tỉnh Đ cấp ngày 04/06/2020. Tên người sử dụng đất: Bùi Thị P
Ông Bùi Đức S. Diện tích thửa đất: 76.8m
2
(Bằng chữ: Bảy mươi sáu phẩy tám
mét vuông). Thửa đất số: 164. Tờ bản đồ số: 27.
Số tiền giải ngân theo Hợp đồng tín dụng số 01/2021/12218200/HĐTD ngày
02/04/2021: 1.000.000.000 đồng (Bằng chữ: Một tỷ đồng). Món vay đến hạn thanh
toán tiền lãi ngày 01/11/2021 đến hạn thanh toán tiền gốc từ ngày 02/04/2022,
tuy nhiên đến nay khách hàng vẫn chưa thực hiện thanh toán tiền gốc và lãi cho
Ngân hàng.
Do đó Ngân hàng làm đơn kiện kính đề nghị Tòa án nhân dân Thành phố
Buôn Ma Thuột – Tỉnh Đăk Lăk giải quyết buộc: Bà Bùi Thị P phải thanh toán cho
Ngân hàng TMCP Đ Chi nhánh B, số nợ tạm nh đến hết ngày 19/9/2024; tổng số
tiền là: 1.394.248.985 đồng. Trong đó: nợ gốc: 1.000.000.000 đồng. Nợ lãi:
337.931.508 đồng. Lãi quá hạn: 56.317.477 đồng. Toàn bộ lãi phát sinh trên số dư
nợ gốc tính từ ngày 20/9/2024 lãi quá hạn ghi trên hợp đồng tín dụng cho đến khi
tất toán khoản vay.
Trường hợp Bùi Thị P không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ, đề
nghị Tòa án xử tài sản hiện đang thế chấp theo Hợp đồng thế chấp Quyền sử dụng
đất số 01/2021/12218200/HĐBĐ ngày 30/03/2021 để thu hồi nợ vay cho ngân hàng
theo quy định của pháp luật.
* Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn bà Nguyễn Thị Minh T Ông
Nguyễn Quốc H2 trình bày:
Vào ngày 11/01/2010 bà T được Ủy ban nhân dân thành phố B cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất mang tên Hộ Nguyễn Thị Minh T Ông Bùi Đức L1
(Chết) số: BA 398209; Thửa đất số 164; Tờ bản đồ 27; Diện tích: 76.8 m
2
; Mục đích
sử dụng: Đất Tại Đ; Thời hạn sdụng: Lâu dài; Nguồn gốc sử dụng: Nhà nước
công nhận quyền sử dụng đất (Cấp lại do tách thửa); Toạ lạc tại địa chỉ: tố dân phố
F, Phường T, Thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.
6
Trong quá trình lưu giữ giấy tờ, bà T đã làm thất lạc Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất nói trên, nên đến ngày 04/03/2020 T làm đơn trình báo gửi Ủy ban
nhân dân phường T để trình báo sự việc trên, và xin cấp lại Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất đã làm mất.
Đến ngày 05/03/2020, Ủy ban nhân dân phường T ra thông báo số: 11/TB
UBND thông báo về việc mất Giấy chứng nhận quyền sdụng đất được niêm yết
công khai tại Ủy ban nhân dân phường T. Ngày 14/04/2020 Ủy ban nhân dân phường
T ra thông báo kết thúc niêm yết số: 21/TB/UBND.
Ngày 04/6/2020 T được Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Đ cấp Giấy
chứng nhận Quyền sử dụng đất số: CT 453700 mang tên Hộ: Nguyễn Thị Minh T
và Ông Bùi Đức L1 (Chết), thông tin thửa đất như sau: Thửa đất số 164; Tờ bản đồ
số 27; Diện tích: 76.8 m
2
; Nguồn gốc sử dụng: Cấp lại do mất.
Từ đó, bà T làm thtục thừa kế cho 02 người con là bà Bùi Thị P sinh năm:
1985 ông Bùi Đức S sinh năm: 1978. Mọi quy trình T làm đều đúng theo
quy định của pháp luật. T không hề biết do sao khi con bà đang xây dựng
nhà thì có người phụ nữ tên H làm đơn khởi kiện kiện bà T và các con của bà.
Giữa bà T các con chỉ mua bán, nhận tiền, ký các giấy tờ tại văn phòng C
cho Thị O, bà O người thực tế có mua một phần diện ch đất của gia đình
bà.
T xác định không có bất kỳ một giao dịch mua bán nhận tiền hay ký hợp
đồng chuyển nhượng cho Phạm Thị H, vậy nên H khởi kiện yêu cầu công
nhận hợp đồng chuyển nhượng ngày 30/10/2010 giữa bà T với bà H thì bà T không
đồng ý. T không đồng ý với nội dung công nhận văn bản phân chia thừa kế ngày
30/10/2010 của 03 người con của bà T thừa kế cho bà T là có hiệu lực pháp luật, vì
trên thực tế bà T chưa làm thủ tục phân chia di sản thừa kế của người đã mất là ông
Bùi Đức L1, nên không thể tồn tại văn bản thỏa thuận phân chia di sản thừa kế ngày
30/10/2010 của 3 người con của bà T thừa kế cho bà T.
Bà T có đơn phản tố yêu cầu Tòa án hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất số 2381 ngày 30/10/2010 được công chứng tại văn phòng C giữa Nguyễn
Thị Minh T với bà Phạm Thị H.
* Người quyền nghĩa vụ liên quan ông Bùi Đức S yêu cầu độc lập
trình bày:
Ngày 15/2/1993 Hợp tác Thành Lợi thị B cấp cho hộ Nguyễn Thị
Minh T ông Bùi Đức L1 01 đất thổ với diện tích 1.000m
2
. Ngày 26/6/1998
UBND phường TUBND thành phố B xác nhận đơn đăng ký quyền sử dụng đất
tờ bản đồ số 27, thửa đất số 71, diện tích 1.079,8m
2
.
Ngày 31/3/2004 UBND thành
phố B cấp cho hộ Nguyễn Thị Minh T giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số
X931662 với diện tích 674m
2
tại thửa 71, tờ bản đồ số 27. Ngày 10/6/2006 ông L1
7
T lập hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất viết tay cho ông Nguyễn
Duy H3 và bà Lê Thị O với diện tích 674m
2
.
Diện tích còn lại 1.079,8m
2
674m
2
=
405,8m
2
. Ngày 07/02/2007 ông Bùi Đức L1 chết. Vợ chồng ông H3, bà O hợp thức
hóa chuyển nhượng hết chiếm diện tích 405,8m
2
. Ngày 10/3/2009 UBND thành ph
B cấp cho hộ Nguyễn Thị Minh T và Bùi Đức L1 01 giấy chứng nhận quyền sdụng
đất với diện tích 222,5m
2
, còn thiếu 183,35m
2
. Ngày 11/01/2010 T tách thành
thửa đất số 164, tờ bản đồ s27, diện tích 76,8m
2
thửa số 155, tờ bản đồ số 27,
diện tích 145,6m
2
.
Việc giao dịch với H thì ông S không biết ông chỉ giao dịch với O
vào hợp đồng chuyển nhượng viết tay ngày 10/6/2006. Ông S không biết về giao
dịch giữa T với H. Đến năm 2021 T chuyển thừa kế cho ông S hoàn toàn
đúng quy định. Do đó ông đề nghị Tòa án giải quyết tuyên hủy văn bản thỏa thuận
phân chia di sản thừa kế số 2378 quyển số 1 TP/CC–SCC/HĐGD ngày 30/10/2010
hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được công chứng số 2381 ngày
30/10/2010 của văn phòng C.
* Bùi Thị P bị đơn đồng thời người quyền nghĩa vụ liên quan
có yêu cầu độc lập trình bày:
Vào ngày 26/3/2021 mẹ P Nguyễn Thị Minh T làm thủ tục để thừa
kế cho anh trai ông Bùi Đức S, tài sản giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất số CT 453700 mang tên hộ Nguyễn Thị Minh T và ông Bùi Đức L1 thửa số 164,
tờ bản đồ số 27, diện ch 76,8m
2
. Sau khi hoàn thành thủ tục nhận thừa kế bắt
đầu xây dựng nhà ở tại thửa đất trên. Mọi quy trình bà làm đúng quy định của pháp
luật. Không biết từ đâu khi bà xây dựng nhà thì có người phụ nữ tên H làm đơn khởi
kiện mẹ và bà. H còn cung cấp 01 văn bản thỏa thuận phân chia di sản thừa
kế của bà, 02 người con để lại tài sản cho mẹ là bà Nguyễn Thị Minh T. Nhưng trên
thực tế gia đình bà không có giao dịch mua bán cũng như nhận tiền của bà H, phần
di sản của ông Bùi Đức L1 cũng chưa được phân chia nên không thể tồn tại văn bản
thỏa thuận phân chia di sản thừa kế số 2379 quyển số 01 TP/CC–SCC/HĐGD ngày
30/10/2010 tại văn phòng C. vậy bà yêu cầu Tòa án tuyên hủy văn bản thỏa thuận
phân chia di sản thừa kế số 2379 giữa bà Bùi Thị P, ông Bùi Đức S, ông Bùi Sỹ T1,
Nguyễn Thị Minh T ngày 30/10/2010, đồng thời tuyên hủy hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 2381 ngày 30/10/2010 được Công chứng tại
văn phòng C.
Đối với yêu cầu khởi kiện của ngân hàng thương mại cổ phần Đ, buộc bà trả
số tiền nợ gốc và lãi theo hợp đồng đã thì đồng ý. không khả năng trả
nợ nên đồng ý giao tài sản thế chấp cho ngân hàng xử lý theo hợp đồng thế chấp đã
ký.
* Đại diện theo ủy quyền của Văn phòng C trình bày:
8
Đối với yêu cầu khởi kiện phản tố của bà Nguyễn Thị Minh T yêu cầu khởi
kiện độc lập của bà Bùi Thị P đề nghị tuyên hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất được công chứng số 2381 ngày 30/10/2010 của Văn phòng C yêu cầu
độc lập của ông Bùi Đức S đề nghị tuyên hủy văn bản phân chia di sản thừa kế số
2379 ngày 30/10/2010 do Văn phòng C chứng nhận thì bà không đồng ý. Bởi lẽ thủ
tục công chứng 02 văn bản này văn phòng C đã thực hiện đúng quy định của pháp
luật. Tại thời điểm công chứng, các bên giao kết hợp đồng có năng lực hành vi dân
sự theo quy định của pháp luật để nhận thức được việc ký vào các văn bản này.
* Ý kiến của Văn phòng C 1:
Về thủ tục công chứng văn bản thỏa thuận phân chia di sản đối với thửa đất
số 164, tờ bản đồ số 27, thửa đất tại phường T, thành phố B theo giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà tài sản khác gắn liền với đất số CT 453700
do Sở T cấp ngày 04/6/2020 văn phòng C đã thực hiện đúng theo quy định tại Điều
40, 41 Luật công chứng năm 2014. Văn phòng C đã tiến hành tra cứu trên hệ thống
phần mềm quản lý công chứng của Sở tư pháp tỉnh Đắk Lắk không tìm thấy dữ liệu
ngăn chặn thực hiện giao dịch và không nhận được bất kỳ đơn thư khiếu nại tố cáo
của nhân tổ chức nào về việc công chứng. Do đó văn phòng C không căn cứ
để từ chối yêu cầu công chứng đối với trường hợp này.
* Tại bản lấy lời khai bà Nguyễn Thị Thanh H4 trình bày:
H4 là em chồng của bà Lê Thị O. Ngày 14/11/2004 bà cùng bà Phạm Thị
H, Thị O thỏa thuận mua chung 1 thửa đất của ông Bùi Đức L1 Nguyễn
Thị Minh T. Thửa đất số 71, tờ bản đồ số 27, diện tích 900m
2
tọa lạc tại phường T,
thành phố B, tỉnh Đắk Lắk. Cả 3 thỏa thuận mua chung với số tiền 415.000.000
đồng. Giao cho bà đứng tên trên giấy mua bán gigiấy tờ, nhưng sau đó không
tiền mua nên để lại phần đất của bà cho bà Lê Thị O. Sau đó H và bà O tthỏa
thuận gigiấy tđi làm thtục chuyển nhượng như thế nào thì không được
biết. Từ đó đến nay không liên quan trong thửa đất mua chung này. Do đó
tranh chấp khởi kiện giữa H và bà O với gia đình bà T tbà không liên quan. Đề
nghị Tòa án giải quyết theo đúng quy định của pháp luật. Bà không liên quan trong
vụ án nên đề nghị Tòa án giải quyết vắng mặt.
* Bùi Thị P người đại diện cho Trần Thị L, Hoàng Thị T5,
ông Bùi Đức T2, Bùi Thị Xuân T3, ông Bùi Đức T4, Trần Thị L, Hoàng
Thị T5 trình bày:
Ngày 15/2/1993 Hợp tác xã Thành Lợi phường T nay là phường T thị B
cấp cho hộ bà Nguyễn Thị Minh T và ông Bùi Đức L1 là bố mẹ của ông T4, bà T3,
ông T2 01 đất với diện tích 1.000m
2
. Ngày 31/3/2004 UBND thành phố B cấp
cho hộ bà Nguyễn Thị Minh T 01 giấy chứng nhân quyền sử dụng đất mang tên hộ
Nguyễn Thị Minh T số X 931662, thửa đất 71, tờ bản đồ 27, diện tích 674m
2
, địa
9
chỉ khối F phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk. Vào ngày 10/6/2006 ông L1
T lập hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất viết tay cho ông Nguyễn Duy H3
và bà Lê Thị O 01 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên hộ Nguyễn Thị
Minh T số X931662 với diện tích 674m
2
với số tiền 415.000.000đồng (chỉ giao dịch
với bà O) tất cả quá trình thủ tục bà O đứng ra nhận làm.
Ông L1 chết năm 2007, hợp đồng chuyển nhượng lập ngày 30/10/2010 giữa
Nguyễn Thị Minh T Phạm Thị H; văn bản thỏa thuận phân chia di sản thừa
kế lập cùng ngày giữa Nguyễn Thị Minh T, ông Bùi Đức S, ông Bùi Sỹ T1,
Bùi Thị P là trái quy định pháp luật vì chưa phân chia thừa kế, không có chữ ký của
ông T4, bà T3, ông T2.
Ông L1 5 người con nhưng Hợp đồng chuyển nhượng và văn bản thỏa
thuận phân chia thừa kế không có chữ ký ca hàng thừa kế thứ nhất của ông L1, gia
đình cũng không nhận tiền mua bán gì từ bà Phạm Thị H. Do đó, nguyên đơn khởi
kiện yêu cầu ng nhận hợp đồng chuyển nhượng tông bà không đồng ý. Đề nghị
Tòa án giải quyết tuyên vô hiệu văn bản thỏa thuận phân chia di sản thừa kế giữa bà
Nguyễn Thị Minh T, ông Bùi Đức S, ông Bùi Sỹ T1, i Thị P lập ngày
30/10/2010 và hợp đồng chuyển nhượng số 2381 ngày 30/10/2010 tại văn phòng C.
Đối với Trần Thị L: Vào khoảng năm 1980 L chung sống với ông
L1, không đăng kết hôn 01 người con Bùi Thị Xuân T3. Cùng thời
gian đó ông L1 chung sống với bà Nguyễn Thị Minh T và có 2 người con là Bùi Sỹ
T1, Bùi Thị P. Thời gian đó bà L và con gái vẫn qua lại nhà bà T. Con gái bà L vẫn
được sự chăm sóc từ ông L1. Về tài sản của ông L1 T tạo lập thế nào tmẹ
con bà L có biết. Đến năm 2005 bà T3 có gia đình và ra ở riêng. Năm 2007 ông L1
chết, con gái L và bà L chưa ký bất cứ giấy tờ gì liên quan đến tài sản ca ông L1
để lại. Do đó bà không đồng ý yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và đề nghị Tòa án
giải quyết tuyên hiệu văn bản thỏa thuận phân chia di sản thừa kế giữa bà Nguyễn
Thị Minh T, ông Bùi Đức S, ông Bùi Sỹ T1, bà Bùi Thị P lập ngày 30/10/2010; Yêu
cầu tuyên vô hiệu hợp đồng chuyển nhượng số 2381 ngày 30/10/2010 tại văn phòng
C.
Đối với Hoàng Thị T5: Vào năm 1972 T5 ông L1 đăng kết
hôn tại UBND xã X, huyện N, tỉnh Ninh Bình theo trích lục kết hôn số 118/TLKH–
BS ngày 28/6/2024 của UBND xã X, huyên N, tỉnh Ninh Bình và có 02 người con
Bùi Đức T4 Bùi Đức T2. Đến năm 1978 ông L1 cùng đoàn công nhân Sông
Đà vào chi viện tỉnh Đắk Lắk làm biên chế cho công ty X. Sau tháng 3 năm 1991
chuyển thành công ty X1 tháng 1 năm 2001 chuyển thành công ty cổ phần X2.
Trong thời gian này tất cả thông tin liên lạc giữa ông L1 vợ con tại quê chỉ qua
bưu điện. T5 được ông L1 thông báo có vợ tại Đắk Lắk là bà L và bà T. Khoảng
năm 1995 ông T4 và ông T2 được ông L1 đưa từ quê vào và sinh sống tại nhà T
cùng chung sống với tất cả 5 người con. Việc tài sản của ông L1 và bà T tạo lập thế
10
nào thì bà T5 biết. Ông L1 chết năm 2007 từ đó đến nay T5 và 02 người con
chưa bất cứ giấy tờ nào liên quan đến tài sản của ông L1 chết. Do đó nguyên đơn
khởi kiện thì bà không đồng ý đnghị tuyên hiệu văn bản thỏa thuận phân
chia di sản thừa kế giữa bà Nguyễn Thị Minh T, ông Bùi Đức S, ông Bùi Sỹ T1, bà
Bùi Thị P lập ngày 30/10/2010; Yêu cầu tuyên vô hiệu hợp đồng chuyển nhượng số
2381 ngày 30/10/2010 tại văn phòng C.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 242/2024/DSST ngày 20/9/2024 của Tòa án
nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tnh Đắk Lắk đã quyết định:
1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Phạm Thị H về việc
tuyên huỷ Văn bản thoả thuận phân chia di sản thừa kế công chứng số 000389, quyển
số 01 TP/CC – SCC/HĐGD ngày 10/3/2021 của Văn phòng C và tuyên vô hiệu hợp
đồng thế chấp quyền sử dụng đất số 01/2021/12218200/HĐBĐ giữa ngân hàng
TMCP Đ với ông Bùi Đức S, bà Bùi Thị P.
2. Chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn bà Nguyễn Thị Minh T và người có
quyền lợi nghĩa vụ liên quan Bùi Thị P ông Bùi Đức S về việc tuyên huỷ b
văn bản thỏa thuận phân chia di sản thừa kế số 2379 quyển số 01TP/CC
SCC/HĐGD ngày 30/10/2010 giữa bà Nguyễn Thị Minh T, i Thị P, ông Bùi
Đức S, ông Bùi Sỹ T1 được công chứng chứng thực tại văn phòng C; huỷ bỏ hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 2381 quyển số 01TP/CC–SCC/HĐGD
ngày 30/10/2010 giữa bà Nguyễn Thị Minh T và Phạm Thị H được công chứng
chứng thực tại văn phòng C.
Buộc bà Nguyễn Thị Minh T nghĩa vụ hoàn trả lại cho bà Phạm Thị H số
tiền 3.420.000.000 đồng (Ba tỷ bốn trăm hai mươi triệu đồng).
3. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ngân hàng thương mại cổ
phần Đ.
Buộc bà Bùi Thị P phải trả Ngân hàng thương mại cổ phần Đ số tiền
1.394.248.985 đồng (trong đó nợ gốc 1.000.000.000 đồng lãi 394.248.985
đồng) tính đến ngày 19/9/2024 và tiếp tục trả nợ lãi phát sinh kể từ ngày 20/9/2024
cho đến khi thực hiện xong nghĩa vụ thanh toán cho Ngân hàng thương mại cổ phần
Đ theo mức lãi suất thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng số s
01/2021/12218200/HĐTD ngày 02/4/2021.
Trường hợp bà Bùi Thị P không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa
vụ trả nợ cho Ngân hàng thì Ngân hàng thương mại cổ phần Đ quyền yêu cầu
quan thi hành án có thẩm quyền xử tài sản thế chấp theo hợp đồng thế chấp quyền
sử dụng đất số 01/2021/12218200/HĐBĐ ngày 30/3/2021 để thu hồi nợ cho ngân
hàng. Cụ thể là: Toàn bộ quyền sử dụng đất tài sản gắn liền với đất theo giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất
số CT 453700 do Sở tài nguyên và môi trường tỉnh Đ cấp ngày 04/6/2020 cho hộ
11
Nguyễn Thị Minh T ông Bùi Đức L1 (chết), được đăng biến động sang tên
Bùi Thị P Bùi Đức S ngày 26/3/2021 (thuộc thửa đất số 164, tờ bản đồ số 27, diện
tích 76,8m
2
tọa lạc tại phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk).
Trường hợp Bùi Thị P thực hiện trả nợ đầy đủ cho Ngân hàng không
phải xử lý tài sản thế chấp thì Ngân hàng thương mại cổ phần Đ phải trả cho bà Bùi
Thị P ông Bùi Đức S tài sản thế chấp giấy chứng nhận quyền sdụng đất,
quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CT 453700.
Ngoài ra, bản án thẩm còn tuyên về án phí, chi phí tố tụng, hủy bỏ biện
pháp khẩn cấp tạm thời và quyền kháng cáo cho các đương sự.
Ngày 01/10/2024, nguyên đơn Phạm Thị H kháng cáo toàn bộ bản án dân
sự thẩm số 242/2024/DSST ngày 20/9/2024 của Tòa án nhân dân thành phố Buôn
Ma Thuột đề nghị cấp phúc thẩm giải quyết theo hướng chấp nhận toàn bộ yêu
cầu khởi kiện của bà. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Bùi Đức S kháng
cáo toàn bộ bản án dân sự thẩm số 242/2024/DSST ngày 20/9/2024 của Tòa án
nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột.
Ngày 04/10/2024, bị đơn bà Bùi Thị P đồng thời là người đại diện theo ủy
quyền của những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Hoàng Thị T5, bà Trần
Thị L, ông Bùi Đức T4, ông Bùi Đức T2, Bùi Thị Xuân T3; người đại diện theo
ủy quyền của bị đơn Nguyễn Thị Minh Tông Nguyễn Quốc H2 đều kháng cáo
toàn bộ bản án dân sự sơ thẩm số 242/2024/DSST ngày 20/9/2024 của Tòa án nhân
dân thành phố Buôn Ma Thuột và đề nghị cấp phúc thẩm phân chia thừa kế tài sản
của người đã mất theo quy định của pháp luật, xem xét lại giá trị trượt giá.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk tham gia phiên tòa ý kiến
như sau:
- Về tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán cũng như tại
phiên tòa, Hội đồng xét xử, Thư ký và các đương sự đã tuân thủ đúng các quy định
của pháp luật tố tụng dân sự.
- Về nội dung: Căn cứ các tài liệu trong hồ vụ án, Kháng cáo của các
đương sự là không có cơ sở chấp nhận. Đề nghị Hội đồng xét xử giữ nguyên quyết
định của án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên toà; căn cứ vào kết
quả tranh tụng tại phiên toà, trên sở xem xét đầy đủ, toàn diện các tài liệu, chứng
cứ, lời trình bày của các đương sự, ý kiến của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử nhận
định như sau:
Xét kháng cáo của bà Phạm Thị H, bà Nguyễn Thị Minh T, bà Bùi Thị P, ông
Bùi Đức S, bà Hoàng Thị T5, bà Trần Thị L, ông Bùi Đức T4, ông Bùi Đức T2,
Bùi Thị Xuân T3, Hội đồng xét xử xét thấy:
12
[1]. Về tố tụng:
Ông Bùi Đức L1 Đăng kết hôn với Hoàng Thị T5 vào năm 1972 tại
Ninh Bình và có 02 người con là Bùi Đức T4Bùi Đức T2.
Ông Bùi Đức L1 chung sống với Trần Thị L con chung Bùi Thị
Xuân T3.
Ông Bùi Đức L1 chung sống với bà Nguyễn Thị Minh T có 02 người con
Bùi Thị P và Bùi Sỹ T1. n Bùi Đức S được nhận nuôi từ nhỏ. Theo lời trình
bày của bà Hoàng Thị T5 thì từ năm 1995, ông L1 đã đón Bùi Đức T4 Bùi Đức
T2 từ Ninh Bình vào để nuôi dưỡng, chung sống cùng bà Nguyễn Thị Minh T.
Trong vụ tranh chấp, theo yêu cầu của đương sthì Tòa án phải xem xét hiệu
lực của Văn bản thoả thuận phân chia di sản thừa kế công chứng số 2379 quyển số
01TP/CC–SCC/HĐGD ngày 30/10/2010 tại Văn phòng C và Văn bản thoả thuận
phân chia di sản thừa kế công chứng số 000389, quyển số 01 TP/CC SCC/HĐGD
ngày 10/3/2021 tại Văn phòng C. Cả 02 văn bản thỏa thuận này chỉ có chữ , chữ
viết của bà Nguyễn Thị Minh T, bà Bùi Thị P, ông Bùi Sỹ T1 và ông Bùi Đức S.
Khi Tòa án thụ giải quyết vụ án, Hoàng Thị T5, ông Bùi Đức T4, ông
Bùi Đức T2, bà Trần Thị L và bà Bùi Thị Xuân T3 đều Ủy quyền cho bà Bùi Thị P
giải quyết vụ án. Những người nàyý kiến không ký văn bản thỏa thuận chia thừa
kế năm 2010, không đồng ý với việc T chuyển nhượng thửa đất số 164, tbản đồ
số 27, cho bà Phạm Thị H.
Tuy nhiên, bà Hoàng Thị T5, ông Bùi Đức T4, ông Bùi Đức T2, Trần Thị
L, bà Bùi Thị Xuân T3 chưa được thông báo và ý kiến vviệc: vào năm 2021, bà
Nguyễn Thị Minh T bà Bùi Thị P, ông Bùi Sỹ T1, ông Bùi Đức S đã tự thỏa thuận
phân chia thửa đất số 164, tờ bản đồ số 27 cho bà Bùi Thị P và ông Bùi Đức S.
Trong đơn kháng cáo, Hoàng T5, ông Bùi Đức T4, ông Bùi Đức T2,
Trần Thị L và bà Bùi Thị Xuân T3 yêu cầu chia thừa kế của người đã mất. Nvậy,
Hoàng Thị T5, ông Bùi Đức T4, Bùi Đức T2, bà Trần Thị L, Bùi Thị Xuân T3
với bà Bùi Thị P có quyền lợi đối lập nhau. Do đó, việc bà Hoàng Thị T5, ông Bùi
Đức T4, ông Bùi Đức T2, bà Trần Thị L, bà Bùi Thị Xuân T3 ủy quyền cho bà Bùi
Thị P vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng. Cấp thẩm chưa lấy ý kiến của
những người trên về Văn bản thỏa thuận phân chia di sản thừa kế được công chứng
tại Văn phòng C vào ngày 10/3/2021, nhưng đã chấp nhận văn bản ủy quyền
không đảm bảo.
[2]. Về nội dung
[2.1] Tại cấp phúc thẩm, H cho rằng trước đó vào ngày 14/11/2004, bà H
cùng bà Lê Thị O Nguyễn Thị Thanh H4 mua chung thửa đất diện tích
khoảng 900m
2
của ông L1, T nhưng để H4, O đứng tên. Giá chuyển nhượng
là 415.000.000 đồng. H cung cấp thêm tài liệu chứng minh: ngày 23/11/2004,
13
O viết giấy nhận của H số tiền mua đất chung là 138.330.000 đồng (tương đương
1/3 số tiền mua chung). Đến năm 2010, Phạm Thị H và bà Nguyễn Thị Minh T
Hợp đồng chuyển nhượng thửa đất số 164 (là một phần của diện tích đất mà
H, O mua chung năm 2004), Hợp đồng công chứng ngày 30/10/2010 ghi giá
chuyển nhượng là 80.000.000 đồng.
Với nội dung trình bày của Phạm Thị H, cần tiến hành lấy lời khai bà
Thị O để làm rõ các nội dung H trình bày, thực tế bà H thanh toán tiền chuyển
nhượng cho O không? Giữa H O thỏa thuận phân chia như thế nào về
việc sử dụng thửa đất mua chung?
Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 30/10/2010 ghi thông tin
bất động sản chuyển nhượng thửa đất số 164, tờ bản đồ số 27, diện tích 76,8m
2
,
hình thức sử dụng riêng: 145,6m
2
. Cấp thẩm chưa làm các bên thỏa thuận
chuyển nhượng diện tích đất bao nhiêu? Ngân hàng chỉ nhận thế chấp quyền s
dụng thửa đất số 164, tờ bản đồ 27 có diện tích 76,8m
2
nên cần làm rõ vị trí diện tích
145,6m
2
mà các bên ghi nhận trong hợp đồng liên quan đến diện tích đất mà
Thị O đang khởi kiện hay không để căn cứ xhậu quả đối với phần diện
tích đất này.
[2.2] T, ông S, P đều cho rằng không giao dịch chuyển nhượng quyền
sử dụng đất với H, cấp sơ thẩm không làm rõ đương sự có yêu cầu giám định chữ
ký, chữ viết trong Hợp đồng hay không đsở vững chắc đánh giá hay không
Hợp đồng chuyển nhượng thửa đất số 164, tờ bản đồ số 27, diện tích 76,8m
2
vào
ngày 30/10/2010.
[2.3] Ngày 30/10/2010, Nguyễn Thị Minh T, ông Bùi Đức S, ông Bùi Sỹ
T1, Bùi Thị P lập văn bản thỏa thuận phân chia di sản thừa kế: Thửa đất số 164
được ông S, ông T1, bà P tặng cho bà Nguyễn Thị Minh T. Cùng ngày, bà Nguyễn
Thị Minh T hợp đồng chuyển nhượng thửa đất số 164, tờ bản đồ số 27 cho
Phạm Thị H.
Mặc Văn bản thỏa thuận phân chia di sản thừa kế Hợp đồng chuyển
nhượng đã được công chứng, H cung cấp tài liệu thể hiện bà H là người đang giữ
bản gốc GCNQSD đất của Thửa đất số 164, tbản đồ số 27, nhưng vào năm 2020
T làm thủ tục báo mất giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của Thửa đất 164.
Ngày 04/6/2020 Sở TN&MT tỉnh Đ cấp lại cho hộ Nguyễn Thị Minh T giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất số CT 453700 đối với thửa đất số 164.
Ngày 10/3/2021, Nguyễn Thị Minh T, ông Bùi Đức S, ông Bùi Sỹ T1, bà
Bùi Thị P tiếp tục lập văn bản thỏa thuận: T và ông T1 đồng ý tặng cho phần di
sản thừa kế được hưởng do ông L1 để lại là Thửa đất số 164, tờ bản đsố 27 cho bà
Bùi Thị P và ông Bùi Đức S.
Phạm Thị H đã có đơn tố giác bà Nguyễn Thị Minh T, ông Bùi Đức S, bà
14
Bùi Thị P hành vi Lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Tuy nhiên, tội danh Lừa đảo
chiếm đoạt tài sản” không khởi ttheo yêu cầu của người bị hại. Cấp sơ thẩm không
Công văn chuyển thông tin đến quan điều tra đề nghị xem xét giải quyết
thiếu sót. Đối với một sự kiện pháp lý, quan điều tra phải xem xét, kết luận
hay không có hành vi phạm tội? Nếu có thì việc xử lý trách nhiệm dân sự liên quan
đến Thửa đất số 164, tờ bản đồ số 27 sẽ được giải quyết trong vụ án hình sự. Trường
hợp Văn bản trả lời sự việc không có dấu hiệu tội phạm thì Tòa án mới giải quyết
tranh chấp bằng các quy định của pháp luật dân sự.
[2.4] Cấp sơ thẩm nhận định việc T chuyển nhượng Thửa đất 164 cho
H, cấp thẩm tuyên hủy Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng thửa đất số
164, tờ bản đồ số 27 được công chứng ngày 30/10/2010 giữa T và bà H với lý do
chưa hoàn tất thủ tục chuyển nhượng. Đồng thời cấp thẩm đánh giá Hợp đồng thế
chấp thửa đất số 164, tờ bản đồ số 27 giữa Ngân hàng và bà P hiệu lực nên tuyên
xử “Ngân hàng có quyền đề nghị quan Thi hành án dân sự xử lý tài sản thế chấp.
Trường hợp P trả đầy đsố nợ tNgân hàng phải trả lại GCNQSD đất cho
P”. Tuy nhiên, cũng cần đánh giá có việc T và các con thỏa thuận phân chia thửa
đất số 164, tờ bản đồ số 27 sau đó thế chấp cho Ngân hàng để trốn tránh nghĩa vụ
đối với bà H hay không để giải quyết quyền lợi của bà H mới đảm bảo.
[3] Tcác nhận định trên, Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy, Tòa án cấp
thẩm vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, tại cấp phúc thẩm thêm những tài
liệu, chứng cứ mới cần phải điều tra làm mà cấp phúc thẩm không thể bổ sung,
khắc phục được. Do đó, Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận yêu cầu kháng cáo
của các đương sự, hủy toàn bộ Bản án dân sự thẩm số 242/2024/DS-ST ngày
20/9/2024 của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk và giao hồ
sơ cho Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại theo thủ tục chung.
[4] Về án phí dân sự thẩm chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ: sẽ được
quyết định khi cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án.
[5] Về án phí dân sphúc thẩm: Do hủy án thẩm nên bà Phạm Thị H,
Nguyễn Thị Minh T, Bùi Thị P, ông Bùi Đức S, ông Bùi Đức T2, Bùi Thị
Xuân T3, ông Bùi Đức T4, bà Trần Thị L, bà Hoàng Thị T5 không phải chịu án phí
dân sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ: khoản 3 Điều 148; khoản 3 Điều 308 khoản 1 Điều 310 của Bộ
luật Tố tụng dân sự;
Áp dụng: Điều 29 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của
Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và
sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
15
[1] Chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn bà Phạm Thị H, bị đơn Bùi Thị
P, bà Nguyễn Thị Minh T và những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Bùi
Đức S, Hoàng Thị T5, bà Trần Thị L, ông Bùi Đức T4, ông i Đức T2, bà Bùi
Thị Xuân T3.
Hủy toàn bộ Bản án dân sự sơ thẩm số 242/2024/DS-ST ngày 20/9/2024 của
Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột (nay Toà án nhân dân khu vực 1
Đắk Lắk) chuyển hồ vụ án cho Tòa án nhân dân khu vực 1 Đắk Lắk giải
quyết lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm.
[2] Về án phí dân sthẩm, chi phí tố tụng: Sẽ được quyết định khi giải
quyết lại vụ án.
[3] Về án phí dân sự phúc thẩm:
Phạm Thị H, Nguyễn Thị Minh T, Bùi Thị P, ông Bùi Đức S, ông
Bùi Đức T2, Bùi Thị Xuân T3, ông Bùi Đức T4, bà Trần Thị L, bà Hoàng ThT5
không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.
Phạm Thị H được nhận lại số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp
theo biên lai số 0013626 ngày 03/10/2024 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố
B, tỉnh Đắk Lắk (nay là Phòng thi hành án dân sự khu vực 1).
Ông Bùi Đức T2 được nhận lại số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp
(bà Bùi Thị P nộp thay) theo biên lai số 0013687 ngày 09/10/2024 tại Chi cục Thi
hành án dân sự thành phố B, tỉnh Đắk Lắk (nay là Phòng thi hành án dân sự khu vực
1).
Bùi Thị Xuân T3 được nhận lại số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí đã
nộp (bà Bùi Thị P nộp thay) theo biên lai số 0013688 ngày 09/10/2024 tại Chi cục
Thi hành án dân sự thành phố B, tỉnh Đắk Lắk (nay Phòng thi hành án dân sự khu
vực 1).
Ông Bùi Đức T4 được nhận lại số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp
(bà Bùi Thị P nộp thay) theo biên lai số 0013689 ngày 09/10/2024 tại Chi cục Thi
hành án dân sự thành phố B, tỉnh Đắk Lắk (nay là Phòng thi hành án dân sự khu vực
1).
Bùi Thị P được nhận lại số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp theo
biên lai số 0013678 ngày 08/10/2024 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố B,
tỉnh Đắk Lắk (nay là Phòng thi hành án dân sự khu vực 1).
Ông Bùi Đức S được nhận lại số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp (bà
Võ Hồng N Quỳnh nộp thay) theo biên lai số 0013697 ngày 09/10/2024 tại Chi cục
Thi hành án dân sự thành phố B, tỉnh Đắk Lắk (nay là Phòng thi hành án dân skhu
vực 1).
Nguyễn Thị Minh T, bà Trần Thị L, bà Hoàng Thị T5 được miễn tiền tạm
ứng án phí phúc thẩm nên không đề cập xử lý.
16
[4] Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
- TANDTC tại Đà Nẵng; THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
- VKSND tỉnh Đắk Lắk;
- Thi hành án dân sự tỉnh Đắk Lắk; (Đã )
- TAND khu vực 1 – Đắk Lắk;
- Phòng THADS khu vực 1;
- Các đương sự;
- Công thông tin điện tử Tòa án;
- Lưu hồ sơ vụ án. Lưu Thị Thu Hường
Tải về
Bản án số 359/2025/DS-PT Bản án số 359/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 359/2025/DS-PT Bản án số 359/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất