Bản án số 353/2025/HC-PT ngày 01/04/2025 của TAND cấp cao tại TP.HCM

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 353/2025/HC-PT

Tên Bản án: Bản án số 353/2025/HC-PT ngày 01/04/2025 của TAND cấp cao tại TP.HCM
Quan hệ pháp luật:
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND cấp cao tại TP.HCM
Số hiệu: 353/2025/HC-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 01/04/2025
Lĩnh vực: Hành chính
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ án: Giữ nguyên án sơ thẩm
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Bản án số: 353/2025/HC-PT
Ngày 01 - 4 - 2025
V/v “Khiếu kiện quyết định hành chính
và hành vi hành chính
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa:
Các Thẩm phán:
Ông Nguyễn Văn Tửu
Bà Huỳnh Thanh Duyên
Bà Lê Thị Tuyết Trinh
- Thư phiên tòa: Ông Nguyễn Trọng Tâm - Thư Tòa án nhân dân
cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố HChí Minh
tham gia phiên tòa: Ông Phạm Ba Duy - Kiểm sát viên cao cấp.
Ngày 01 tháng 4 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành
phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hành chính thụ số:
1142/2024/TLPT-HC ngày 02 tháng 12 năm 202 về việc Khiếu kiện quyết định
hành và hành vi hành chính”.
Do Bản án hành chính thẩm số 233/2024/HC-ST ngày 19 tháng 9 năm
2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 208/2025/QĐ-PT ngày
07 tháng 02 năm 2025, giữa các đương sự:
- Người khởi kiện: Thị L, sinh năm 1953; Địa chỉ: Số A đường H,
Phường B, thành phố T, tỉnh Long An (có mặt).
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khởi kiện: Luật Bùi
Thị Mỹ L1 - Công ty L3 - Chi nhánh L4, thuộc Đoàn Luật Thành phố H (có
mặt).
- Người bị kiện: Ủy ban nhân dân (gọi tắt là “UBND”) huyện Đ
Người đại diện theo pháp luật của UBND huyện Đ: Ông Thành P; Chức
vụ: Chủ tịch UBND huyện Đ (vắng mặt).
Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của UBND huyện Đ: Nguyễn
Thị Bé B; Chức vụ: Phó Trưởng phòng Tài nguyên và Môi trường huyện Đ (vắng
mặt).
- Người có quyền li, nghĩa vụ liên quan: Ban Q;
2
Người đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Minh H; Chức vụ: Giám đốc
(có đơn xin xét xử vắng mặt).
- Người kháng cáo: Người khởi kiện bà Lê Thị L.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Tại đơn khởi kiện ngày 17/11/2023 của người khởi kiện li trình bày
của đại diện người khởi kiện trong quá trình giải quyết vụ án tại phiên tòa
sơ thẩm có nội dung:
Ngày 29/01/1997, UBND huyện Đ cấp: Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất (gọi tắt GCN.QSDĐ”) cho mẹ L tên Trần Thị K, tổng diện ch
12.290m
2
, trong đó thửa 334 thửa 336 tờ bản đồ s5, tọa lạc Đ, huyện
Đ, tỉnh Long An. Ngày 12/6/2002, bà Trần Thị K lập tờ tương phân 12.290m
2
đất
cho các con quản sử dụng. Trong đó, Lê Thị L được quản sử dụng thửa
đất 336, diện tích 316m
2
.
Ngày 24/12/2002, thực hiện dự án mrộng đường 825, UBND huyện Đ
lập thủ tục bồi thường cho bà Trần Thị K số tiền 244.708.000 đồng, đại diện bà K
đã nhận tiền bồi thường thửa 334 với số tiền là 230.458.000 đồng. Riêng tiền bồi
thường thửa 336, diện tích 285m
2
với số tiền 14.250.000 đồng, đại diện K
không nhận. Bà K gửi đơn khiếu nại đến UBND xã ĐUBND huyện Đ.
Ngày 05/5/2004, UBND huyện Đ cấp GCN.QSDĐ cho bà Lê Thị L. Trong
đó thửa 336, diện tích 316m
2
loại đất ĐRM.
Sau khi mẹ L bị bệnh qua đời, L tiếp tục gửi đơn khiếu nại kèm
chứng từ chứng minh đất thổ để xin điều chỉnh thửa 336, diện tích 316m
2
t
loại đất ĐRM thành đất thổ (theo văn bản của UBND tỉnh L về việc chủ trương
cho điều chỉnh loại đất cập đường tỉnh 825) và yêu cầu UBND huyện Đ thực hiện
thủ tục thu hồi đất và bồi thường một phần thửa 336, diện tích 285m
2
đất thổ theo
quy định pháp luật. Ngày 04/8/2010, UBND huyện Đ ban hành Quyết định giải
quyết khiếu nại số 3693/QĐ-CT. Trong đó có nội dung Đến tháng 8/2002, Nhà
nước thực hiện công tác giải phóng mặt bằng để nâng cấp tỉnh lộ 825 nên UBND
huyện Đ Quyết định thu hồi đất tại thửa 334 thửa 336 với tổng diện tích
1.035,5m
2
, trong đó thửa 336 bị thu hồi với diện tích 285m
2
loại đất ĐRM”.
Ngày 02/4/2023, bà L có đơn yêu cầu UBND huyện Đ tống đạt quyết định
thu hồi đất và quyết định bồi thường đối với một phần thửa 336, diện tích 285m
2
.
Ngày 13/10/2023, UBND huyện Đ văn bản số 13357/UBND-TCD trả
lời: “Dự án giải phóng mặt bằng thi công đường tỉnh 825 do Ban Q làm chủ đầu
tư được giải phóng mặt bằng qua địa bàn xã Đ theo hồ sơ của ban quản lý dự án
cung cấp, tại thời điểm thc hiện d án không có quyết định thu hồi đất, không
quyết định bồi thường từng hộ dân, chỉ phương án bồi thường danh sách
chi trả tiền cho hộ dân”. Những người cùng tuyến đường với bà L trong phạm vi
mở rộng tỉnh lộ 825 được UBND huyện Đ ra quyết định thu hồi đất và giải quyết
bồi thường, trong khi L không được UBND huyện Đ ra quyết định và tống đạt
quyết định thu hồi đất và bồi thường đối với thửa 336, diện tích 285m
2
là đất thổ.
3
Bà L khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết: Buộc UBND huyện Đ thực hiện
thủ tục ban hành quyết định thu hồi đất và bồi thường một phần thửa đất 336, tờ
bản đồ s5, diện tích 285m
2
là đất thổ, tọa lạc tại Đ, huyện Đ, tỉnh Long An
theo quy định của pháp luật.
Tại đơn khởi kiện bổ sung ngày 04/6/2024 của người khởi kiện nội
dung: Bà L bổ sung yêu cầu: Hủy GCN.QSDĐ số D 513879 do UBND huyện Đ,
tỉnh Long An cấp cho bà Lê Thị L vào ngày 05/5/2004 đối với thửa đất số 336, tờ
bản đồ 5, diện tích 316m
2
, tọa lạc tại Đ, huyện Đ, tỉnh Long An.
Tại Văn bản số 2517/UBND-TA ngày 26 tháng 02 năm 2024 của người
bị kiện UBND huyện Đ, tỉnh Long An nội dung như sau: Dự án giải phóng
mặt bằng thi công đường tỉnh 825 do Ban Q làm chủ đầu tư được giải phóng mặt
bằng vào năm 2001.
Ngày 21/11/2002, Hội đồng đền giải tỏa huyện Đ ban hành phương án
số 287/PA-HĐĐB về việc bồi thường thiệt hại giải tỏa mặt bằng công trình đường
tỉnh 825, huyện Đ, tỉnh Long An (đợt 1).
Đến ngày 17/12/2002, UBND tỉnh L ban hành Quyết định số 4338/QĐ-UB
về việc phê duyệt phương án bồi thường để giải phóng mặt bằng thi công đường
tỉnh 825, huyện Đ (đợt 1).
Trần Thị K là người sử dụng đất tại các thửa s334 336, tbản đồ
số 5 và thửa 270, 271, 272, 290, 291, 292, 293, tờ bản đồ số 19, đất tọa lạc tại ấp
B, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Long An. Một phần thửa số 334 336 bị ảnh hưởng d
án giải phóng mặt bằng thi công đường tỉnh 825 do Ban Q làm chủ đầu tư.
Theo Văn bản số 2004/BQLDA-TCHCTV ngày 12/9/2023 của Ban Q phúc
đáp cho Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện Đ về việc cung cấp thông tin có
liên quan công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng công trình đường tỉnh 825 với
nội dung như sau: Ngày 24/12/2002, Ban Quản dự án công trình giao thông
tổ chức chi trả tiền đền bù cho người dân, bà Lý Thị L2 (bà Trần Thị K ủy quyền
nhận thay) đã ký nhận số tiền 230.458.000 đồng, còn lại số tiền 14.250.000 đồng
chưa nhận. Ngày 28/9/2004, Ban Q tiếp tục tổ chức chi trả tiền đền bù cho các hộ
dân còn lại, trong đó hộ bà Trần Thị K không thấy nhận số tiền còn lại
như trên. Hiện nay, dự án nâng cấp, mrộng đường tỉnh 825 đã được UBND tỉnh
L phê duyệt quyết toán vốn đầu hoàn thành Dự án cải tạo và nâng cấp đường
tỉnh 825 tại Quyết định số 3505/QĐ-UBND ngày 08/11/2012”. Dự án giải phóng
mặt bằng thi công đường tỉnh 825 do Ban Q làm chủ đầu tư được giải phóng mặt
bằng qua địa bàn xã Đ theo hồ sơ của Ban Q cung cấp tại thời điểm thực hiện dự
án không có quyết định thu hồi đất, quyết định bồi thường của từng hộ dân chỉ có
phương án bồi thường và danh sách chi trả tiền cho hộ dân theo đúng quy định.
Như vậy, bà Trần Thị K là người sử dụng đất tại thửa đất số 336, tờ bản đồ
số 5 nên việc Thị L buộc UBND huyện Đ ban hành Quyết định thu hồi
bồi thường cho L tại một phần thửa đất s336, tờ bản đồ số 5, diện tích 285m²,
loại đất ONT, đất tọa lạc xã Đ là không có cơ sở để xem xét giải quyết.
4
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Ban Q không có lời trình bày.
Tại Bản án hành chính thẩm số 233/2024/HC-ST ngày 19 tháng 9
năm 2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An, đã quyết định:
Căn cứ Điều 30, Điều 32, Điều 143, Điều 165; điểm a khoản 2 Điều 193;
Điều 348, Điều 357, Điều 358 Luật Tố tụng hành chính; Điều 12 Nghị quyết
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của y ban Thường vụ Quốc hội quy
định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý sử dụng án phí lphí Tòa
án;
Tuyên xử:
1/ Đình chỉ vụ án đối với yêu cầu: Hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
số D 513879 do Ủy ban nhân dân huyện Đ, tỉnh Long An cấp cho Thị L
vào ngày 05/5/2004 đối với thửa đất số 336, tờ bản đồ 5, diện tích 316m
2
, tọa lạc
tại xã Đ, huyện Đ, tỉnh Long An.
2/ Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Thị L đối với yêu cầu:
Buộc UBND huyện Đ thực hiện thủ tục ban hành quyết định thu hồi đất bồi
thường một phần thửa đất 336, tờ bản đồ số 5, diện tích 285m
2
là đất thổ, tọa lạc
tại xã Đ, huyện Đ, tỉnh Long An theo quy định của pháp luật.
Ngoài ra, án sơ thẩm còn quyết định về chi phí tố tụng, án phí thẩm
quyền kháng cáo theo luật định.
- Ngày 27/9/2024, người khởi kiện Thị L đơn kháng cáo toàn bộ
bản án sơ thẩm với lý do kháng cáo:
Tòa án cấp thẩm xem xét, đánh giá chứng cứ chưa công minh, khách
quan đầy đủ, làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp về tài sản, đất đai
của L. vậy, bà L kháng cáo yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết: Hủy
GCN.QSDĐ số D513879 do UBND huyện Đ, tỉnh Long An cấp cho bà Lê Thị L
ngày 05/5/2004, thửa đất số 336, diện tích 316m
2
, đất ĐRM, tờ bản đồ số 5, tọa
lạc Đ, huyện Đ, tỉnh Long An, do cấp sai loại đất (đất nhưng lại cấp đất
ĐRM); Buộc UBND huyện Đ cấp lại GCN.QSDĐ cho Lê Thị L đối với thửa
đất số 336, diện tích 316m
2
loại đất ở tại nông thôn, tờ bản đồ số 5, tọa lạc Đ,
huyện Đ; Buộc UBND huyện Đ ban hành quyết định thu hồi đất bồi thường
285m
2
đất nông thôn thuộc một phần thửa đất số 336 nêu trên theo quy định của
pháp luật.
Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay:
- Người kháng cáo Thị L trình bày: Giữ nguyên yêu cầu khởi kiện
và trình bày như nội dung án sơ thẩm đã nêu, yêu cầu Hội đồng xét xử chấp nhận
kháng cáo của L, sửa án thẩm theo hướng chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi
kiện của bà L.
- Luật Bùi Thị Mỹ L1 bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của L trình
bày: Kháng cáo của L là hoàn toàn căn cứ, bởi: Tại đơn xin xác nhận thuế
ngày 01/11/2003 của bà Trần Thị K, tĐội thuế xã Đ xác nhận nội dung K
5
nộp thuế từ m 1992 đến năm 2002 với diện tích 2.416m
2
đất thổ canh352m
2
đất ở; Biên bản ngày 23/8/2004 tại UBND xã Đ làm việc về quá trình khai và
thu thuế đối với hộ sử dụng đấtThị L - Trần Thị K cũng có nội dung như trên,
biên bản biên ngày 08/8/2002, loại đất được xác định thửa 336 là đất thổ, ngày
12/6/2002 L được tương phân thửa 336, văn bản tương phân đã được chứng
thực của chính quyền địa phương, cùng ngàyK đơn đề nghị điều chỉnh loại
đất ĐRM sang loại đất thổ tại thửa 336, tng 12/2002, UBND tỉnh L mới phê
duyệt phương án bồi thường để giải phóng mặt bằng. Ngày 24/12/2002, khi Ban
quan dự án tchức chi trtiền bồi thường, L2 nhận tiền thay cho K tại
thửa 334 được biết thửa 336 được xác định đất ĐRM mà không phải đất
thổ nên L2 không nhận do còn khiếu nại. Thực tế, bà K đã có đơn yêu cầu điều
chỉnh loại đất được bồi thường tại thửa 336, UBND huyện Đ không giải quyết
khiếu nại của bà KTừ
đó, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của bà
L, sửa án sơ thẩm, chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà L.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh phát
biểu quan điểm gii quyết vụ án:
- Về ttụng: Thông qua kiểm sát việc giải quyết vụ án, từ khi thụ đến
thời điểm hiện nay thấy rằng Thẩm phán, Hội đồng xét xử những người tham
gia tố tụng đã chấp hành đúng quy định của Luật Tố tụng hành chính, không
vi phạm.
- Về nội dung: Khi giải quyết Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét đánh giá toàn
diện chứng cứ, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm là căn cứ đúng quy định của
pháp luật. Tại cấp phúc thẩm không căn cứ nào mới, nên đề nghị Hội đồng xét
xử bác kháng cáo của bà Lê Thị L, giữ nguyên án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu trong hồ vụ án được thẩm tra tại phiên
tòa căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, sau khi nghe đại diện Viện
kiểm sát phát biểu ý kiến, sau khi thảo luận và nghị án, Hội đồng xét xử xét thấy:
- Về tố tụng:
[1] Kháng cáo của bà Thị L còn trong hạn luật định và hợp lệ được xem
xét tại cấp phúc thẩm theo quy định tại Điều 206 Luật Tố tụng hành chính năm
2015.
[2] Về đối tượng khởi kiện, thẩm quyền giải quyết thời hiệu khởi kiện
Tòa thẩm xác định thụ giải quyết đúng theo quy định tại khoản 1 Điều
30, khoản 4 Điều 32 Luật Tố tụng hành chính.
[3] Về thời hiệu khởi kiện:
Đối với yêu cầu hủy GCN.QSDĐ số D 513879 do UBND huyện Đ, tỉnh
Long An cấp cho bà Lê Thị L vào ngày 05/5/2004 đối với thửa đất số 336, tờ bản
đồ 5, diện tích 316m
2
, tọa lạc tại Đ, huyện Đ, tỉnh Long An, thấy rằng: Trong
quá trình thu thập chứng cứ tại phiên tòa thẩm, L đại diện theo ủy
quyền của L cho rằng L phát hiện việc UBND huyện Đ cấp GCN.QSDĐ
6
cho đối với thửa đất 336, tờ bản đồ số 5 sai mục đích sử dụng vào năm 2004,
L khiếu nại liên tục đến nay nhưng chưa được giải quyết nên L khởi kiện
tại Tòa án. Tuy nhiên, L không cung cấp được chứng cứ chứng minh việc
L khiếu nại UBND huyện Đ cấp GCN.QSDĐ cho L không đúng mục đích liên
tục đến nay, nên lời trình bày trên của bà L là không có căn cứ để chấp nhận. Do
đó, có sở xác định L biết được UBND huyện Đ cấp GCN.QSDĐ cho L
đối với thửa đất 336 sai mục đích sdụng vào năm 2004, đến ngày 21/11/2023,
bà L mới nộp đơn khởi kiện tại Tòa án nhân dân tỉnh Long An. Như vậy, từ ngày
L biết được việc UBND huyện Đ cấp GCN.QSDĐ cho L không đúng mục
đích sdụng đến ngày L khởi kiện là quá 01 năm. Căn cứ điểm a khoản 2 Điều
116 của Luật Tố tụng hành chính thì yêu cầu trên của L đã hết thời hiệu khởi
kiện. Tòa sơ thẩm đình chỉ vụ án đối với yêu cầu trên của L là có căn cứ, đúng
quy định pháp luật.
- Đối với c yêu cầu còn lại của L trong thời hiệu theo quy định tại
Điều 116 của Luật Tố tụng hành chính.
[4] Người bị kiện; người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của người bị
kiện được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt không do; người quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan không kháng cáo đơn xin xét xử vắng mặt. vậy, căn cứ
Điều 225 Luật Tố tụng hành chính, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt.
- Về nội dung:
Đối với kháng cáo của người khởi kiện bà Lê Thị L, xét:
[1] Dự án giải phóng mặt bằng thi công đường tỉnh 825 do Ban Q làm chủ
đầu được giải phóng mặt bằng vào năm 2001, UBND huyện Đ đã lập bảng tổng
hợp giá trị bồi thường từng hộ (đợt 1) công trình đường T xã Đ - huyện Đ để chi
trả tiền bồi thường cho các hộ dân do bị ảnh hưởng của dự án trên (Căn cứ vào
phương án số 287/PA-HĐBT ngày 21/11/2002 của Hội đồng đền giải tỏa
huyện Đ về việc bồi thường thiệt hại giải tỏa mặt bằng công trình đường tỉnh 825,
huyện Đ, tỉnh Long An (đợt 1) đã được UBND tỉnh L phê duyệt theo Quyết định
số 4338/QĐ-UB ngày 17/02/2002 về việc phê duyệt phương án bồi thường để giải
phóng mặt bằng thi công đường tỉnh 825, huyện Đ (đợt A) thì khi thực hiện dự án
không có quyết định thu hồi đất, không có quyết định bồi thường của từng hộ dân
mà chỉ có danh sách chi trả tiền cho hộ dân). Theo đó, do các thửa đất 334, 336 là
của Trần Thị K đứng tên trên GCN.QSDĐ bị ảnh hưởng bởi dự án trên nên
UBND huyện Đ xác định giá trị bồi thường của các thửa đất 334, 336 với tổng số
tiền là 244.708.000 đồng. Bà K đã nhận tiền và đến nay không có khiếu nại. Qua
phân tích trên, sở xác định bà K đã đồng ý với chủ trương của UBND tỉnh
L thu hồi đất để thực hiện dự án giải phóng mặt bằng thi công đường tỉnh 825
không ban hành quyết định thu hồi đất quyết định bồi thường, nên K đã
nhận tiền và đồng ý với số tiền đã nhận. Từ đó xác định, việc UBND huyện Đ bồi
thường giá trị quyền sdụng đất các thửa đất 334 336 đã hoàn thành. Hiện nay,
dự án nâng cấp, mở rộng đường tỉnh 825 đã được UBND tỉnh L phê duyệt quyết
toán vốn đầu tư hoàn thành Dự án cải tạo và nâng cấp đường tỉnh 825.
7
[2] Bà L cho rằng vào tháng 6/2002, gia đình bà L làm văn bản tương phân
cho L thửa đất 336 bản tương phân trên được UBND Đ xác nhận, nên
UBND huyện Đ khi thu hồi thửa đất 336 thì phải ban hành quyết định thu hồi đất
bồi thường cho L, xét thấy: Qua các chứng cứ do L cung cấp, sở
xác định vào tháng 6/2002 gia đình L có làm văn bản thỏa thuận cho bà L được
quản lý, sử dụng thửa đất 336 nhưng sau khi làm văn bản thỏa thuận, bà L không
đăng để được cấp GCN.QSDĐ đối với thửa đất 336, đến năm 2004 L đi
đăng ký và được cấp GCN.QSDĐ đối với thửa đất 336. Do đó, có cơ sở xác định
trước năm 2004, mặc văn bản thỏa thuận của gia đình L cho L quản
lý, sử dụng thửa đất 336 nhưng L chưa được Nhà nước công nhận quyền sử
dụng đất đối với thửa đất 336.
Năm 2004, khi được cấp GCN.QSDĐ đối với thửa đất 336 bà L biết được
bà K đã được UBND huyện Đ bồi thường giá trị quyền sử dụng đất 01 phần thửa
đất 336 nhưng L không khiếu nại, đến năm 2023 L khiếu nại yêu cầu UBND
huyện Đ bồi thường giá trị quyền sdụng đất 01 phần thửa đất 336. Như đã phân
tích trên, vào năm 2002 khi thu hồi 01 phần thửa đất 336 để thực hiện dự án giải
phóng mặt bằng thi công đường tỉnh 825, do K người đứng tên trên
GCN.QSDĐ đối với thửa đất 336, nên UBND huyện Đ bồi thường giá trị quyền
sử dụng đất đối với 01 phần thửa đất 336 cho K việc bồi thường này đã thực
hiện xong. Theo đó, việc L yêu cầu UBND huyện Đ bồi thường giá trquyền
sử dụng đất đối với 01 phần thửa đất 336 là không có căn cứ.
[3] Từ những phân tích trên, có cơ sở xác định bà L yêu cầu UBND huyện
Đ thực hiện thủ tục ban hành quyết định thu hồi đất và bồi thường một phần thửa
đất 336, tờ bản đồ số 5, diện tích 285m
2
là đất thổ, tọa lạc tại xã Đ, huyện Đ, tỉnh
Long An cho L không căn cứ, nên Tòa thẩm bác yêu cầu khởi kiện của
Lê Thị L là có căn cứ, đúng quy định. Tại cấp phúc thẩm không có căn cứ nào
mới làm thay đổi nội dung vụ án, nên Hội đồng xét xử thống nhất với quan điểm
của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa; bác kháng cáo của Thị L, giữ
nguyên án sơ thẩm.
[4] Án phí hành chính phúc thẩm: Bà Lê Thị L người cao tuổi có đơn xin
miễn án phí phúc thẩm, nên căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định
về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án, miễn
án phí hành chính phúc thẩm cho bà Lê Thị L.
[5] Quyết định khác của bản án sơ thẩm về chi phí tố tụng, án phí sơ thẩm
không kháng cáo, kháng nghị hiệu lực thi hành kể từ ngày hết thời hạn kháng
cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 241, Điều 30, Điều 32, Điều 143, Điều 165; điểm a
khoản 2 Điều 193; Điều 225, Điều 348, Điều 357, Điều 358 Luật Tố tụng hành
chính; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày
8
30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm,
thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án,
Tuyên xử:
1. Bác kháng cáo của bà Lê Thị L, giữ nguyên Bản án hành chính sơ thẩm
số 233/2024/HC-ST ngày 19 tháng 9 năm 2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Long
An.
2. Đình chỉ vụ án đối với yêu cầu: Hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
số D 513879 do Ủy ban nhân dân huyện Đ, tỉnh Long An cấp cho Thị L
vào ngày 05 tháng 5 năm 2004 đối với thửa đất số 336, tbản đồ 5, diện tích
316m
2
, tọa lạc tại xã Đ, huyện Đ, tỉnh Long An.
3. Bác yêu cầu khởi kiện của Thị L đối với yêu cầu: Buộc Ủy ban
nhân dân huyện Đ thực hiện thủ tục ban hành quyết định thu hồi đất bồi thường
một phần thửa đất 336, tờ bản đồ số 5, diện tích 285m
2
là đất thổ, tọa lạc tại xã Đ,
huyện Đ, tỉnh Long An theo quy định của pháp luật.
4. Án phí hành chính phúc thẩm: Miễn án phí phúc thẩm cho bà Lê Thị L.
5. Quyết định khác của bản án thẩm về chi phí tố tụng, án phí thẩm
không kháng cáo, kháng nghị hiệu lực thi hành kể từ ngày hết thời hạn kháng
cáo, kháng nghị.
6. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- Tòa án nhân dân tối cao;
- VKSNDCC tại TP. Hồ Chí Minh;
- TAND tỉnh Long An;
- VKSND tỉnh Long An;
- Cục THADS tỉnh Long An;
- Các đương sự;
- Lưu VT (5), HS (2), 20b, (TK-PH).
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Nguyễn Văn Tửu
Tải về
Bản án số 353/2025/HC-PT Bản án số 353/2025/HC-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 353/2025/HC-PT Bản án số 353/2025/HC-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất