Bản án số 07/2025/HNGĐ-PT ngày 02/04/2025 của TAND tỉnh Bình Phước về tranh chấp về chia tài sản khi ly hôn
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 07/2025/HNGĐ-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 07/2025/HNGĐ-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 07/2025/HNGĐ-PT
Tên Bản án: | Bản án số 07/2025/HNGĐ-PT ngày 02/04/2025 của TAND tỉnh Bình Phước về tranh chấp về chia tài sản khi ly hôn |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp về chia tài sản khi ly hôn |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Bình Phước |
Số hiệu: | 07/2025/HNGĐ-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 02/04/2025 |
Lĩnh vực: | Hôn nhân gia đình |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bà T, ông C; giữ nguyên bản án sơ thẩm |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH BÌNH PHƯỚC
Bản án số: 07/2025/HNGĐ-PT
Ngày: 02-4-2025
V/v “Ly hôn, chia tài sản khi ly
hôn”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH PHƯỚC
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa:
Ông Bùi Thanh Thảo
Các Thẩm phán:
Bà Đinh Thị Qúy Chi
Bà Nguyễn Thị Nga
- Thư ký phiên tòa: Bà Hoàng Thị Hậu - Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh Bình
Phước.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Phước tham gia phiên tòa:
Bà Nguyễn Thị Thanh Huyền - Kiểm sát viên.
Trong các ngày 31 tháng 3 và 02 tháng 4 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân
dân tỉnh Bình Phước mở phiên tòa xét xử phúc thẩm công khai vụ án hôn nhân gia
đình phúc thẩm thụ lý số 17/2024/TLPT-HNGĐ ngày 29 tháng 11 năm 2024 về
việc “Ly hôn, chia tài sản khi ly hôn”.
Do Bản án hôn nhân gia đình sơ thẩm số 121/2024/HNGĐ-ST ngày 27
tháng 9 năm 2024 của Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh Bình Phước bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 01/2025/QĐ-PT ngày 03 tháng 02
năm 2025, giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Bà Vũ Thị T, sinh năm 1979, địa chỉ: Tổ D, ấp S, xã T, huyện
H, tỉnh Bình Phước. Có mặt
Người đại diện theo ủy quyền của bà T về phần tài sản:
Ông Nguyễn Ngọc T1, sinh năm 1993, địa chỉ: khu phố T, phường T, thành
phố Đ, tỉnh Bình Phước và ông Nguyễn Đức D, sinh năm 1974, địa chỉ: khu phố
X, phường T, thành phố Đ, tỉnh Bình Phước (Theo Giấy ủy quyền số công chứng
004973 ngày 25/10/2024 tại Văn phòng C1).
Ông T1 có đơn xin vắng mặt, ông D có mặt
Bị đơn: Ông Lâm Ngọc C, sinh năm 1955, địa chỉ: Tổ D, ấp S, xã T, huyện
H, tỉnh Bình Phước. Có mặt
Người đại diện theo ủy quyền của ông C về phần tài sản: ông Vũ Tiến N,
sinh năm 1970, địa chỉ: khu phố D, thị trấn D, huyện D, tỉnh Bình Dương (Theo
Hợp đồng ủy quyền ngày 02/7/2022). Có mặt
2
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ủy ban nhân dân huyện H, tỉnh
Bình Phước. Người đại diện theo ủy quyền: bà Nguyễn Thị Hồng H, chức vụ:
Trưởng phòng Tài nguyên và Môi trường (Theo giấy ủy quyền số 8/GUQ-UBND
ngày 27/5/2024). Có văn bản xin vắng mặt
Người làm chứng:
- Ông Nguyễn Bá T2, sinh năm 1988; địa chỉ: Tổ B, ấp H, xã T, huyện H,
tỉnh Bình Phước. Vắng mặt
- Bà Trương Thị P, sinh năm 1975; địa chỉ: xã Đ, huyện H, tỉnh Bình Phước.
Vắng mặt
- Bà Vũ Thị T3, sinh năm 1974; địa chỉ: Tổ D, ấp S, xã Đ, huyện H, tỉnh
Bình Phước. Có mặt
- Ông Vũ Minh T4, sinh năm 1976; địa chỉ: Tổ B, ấp D, xã T, huyện H, tỉnh
Bình Phước. Có mặt
- Người kháng cáo: Nguyên đơn bà Vũ Thị T và bị đơn ông Lâm Ngọc C.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Nguyên đơn bà Vũ Thị T trình bày:
Về hôn nhân: Bà T và ông C tự nguyện tìm hiểu và chung sống với nhau từ
năm 2017 nhưng đến năm 2019 mới đăng ký kết hôn tại UBND xã T, huyện H. Do
trước khi về chung sống với ông C thì cả bà T và ông C đều có vợ/chồng và đã ly
hôn nên khi về chung sống với nhau, bà T và ông C không tổ chức đám cưới mà
chỉ làm cơm mời người thân trong gia đình. Từ năm 2017 đến 2019, bà T và ông C
ở chung trong nhà cũ của bà T trong đất rẫy tại ấp S, xã T, huyện H. Hai vợ chồng
chung sống hạnh phúc được khoảng 01 năm thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn.
Nguyên nhân mâu thuẫn là do tranh chấp tài sản chung, tài sản riêng giữa hai vợ
chồng khiến cho vợ chồng thường xuyên cãi nhau dẫn đến tình cảm vợ chồng
không còn. Hiện nay, hai vợ chồng vẫn ở chung nhà nhưng không còn quan tâm
chăm sóc nhau. Bà T thấy tình cảm vợ chồng không còn nên đề nghị Tòa án giải
quyết cho bà T được ly hôn ông C.
Về con chung: Không có.
Về tài sản chung: Trong quá trình chung sống với nhau, bà T và ông C có
tạo lập được khối tài sản chung là 01 căn nhà cấp 4 dạng nhà thái, diện tích khoảng
150m
2
xây vào năm 2019 và những vật dụng trong gia đình gồm có tivi, bàn để
tivi, bàn ghế gỗ salon, máy giặt, máy lọc nước, 03 bộ bàn inox, 01 xe mô tô hiệu
Vision. Bà T yêu cầu được chia đôi giá trị căn nhà và các tài sản này.
Ngoài ra, bà T còn có các tài sản riêng gồm: diện tích đất hơn 8000m
2
trên
đất trồng cao su và căn nhà cấp 4, tọa lạc tổ F, ấp S, xã T, huyện H, tỉnh Bình
Phước, đất có sổ lâm nghiệp (sổ xanh, khi ly hôn với chồng trước đã được Tòa án
chia) và diện tích đất 10mx50m tọa lạc ấp S, xã T, huyện H, tỉnh Bình Phước đất
chưa có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cùng diện tích 9700m
2
trên đất có
trồng cao su khai thác, tọa lạc ấp S, xã T, huyện H, tỉnh Bình Phước.
Đối với diện tích đất rẫy 9700m
2
ông C đang tranh chấp: Diện tích đất này
3
do bà Thu nhận chuyển của ông L, bà P ở xã Đ năm 2017 với giá 590.000.000
đồng. Ban đầu thỏa thuận chuyển nhượng và đặt cọc thì chỉ có mình bà T đồng ý
mua, bà T có đặt cọc với số tiền 170.000.000 đồng. Sau khi đặt cọc, ông C đồng ý
góp tiền mua chung với bà T, bà T góp 395.000.000 đồng, ông C góp 195.000.000
đồng. Do đất chưa có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nên các bên chỉ làm giấy
tờ viết tay. Sau khi ký hợp đồng chuyển nhượng với vợ chồng bà P khoảng 4-5
tháng thì ông C xin rút vốn về nhưng do chưa có tiền nên khoảng 01 năm sau bà T
mới trả cho ông C số tiền là 400.000.000 đồng (gồm tiền vốn và tiền lời) rồi làm
giấy tờ viết tay thỏa thuận và xác định diện tích đất này là tài sản riêng của bà T
nên bà T không đồng ý yêu cầu của ông C cho rằng đây là tài sản riêng của ông C.
Đối với tài sản chung: 01 máy giặt, 01 bộ inox, tivi, bàn để tivi, bàn ghế gỗ
salon, máy giặt, máy lọc nước là các tài sản được mua vào năm 2019, là tài sản
chung của 02 vợ chồng, bà T không đồng ý yêu cầu của ông C khi cho rằng đây là
tài sản riêng của ông C.
Về nợ chung: Vợ chồng không nợ ai cũng không cho ai vay nợ.
Bị đơn ông Lâm Ngọc C trình bày:
Về hôn nhân: ông C và bà T tự nguyện tìm hiểu với nhau vào năm 2017 đến
năm 2019 thì tự nguyện về chung sống với nhau, có đăng ký kết hôn vào cuối năm
2019 tại UBND xã T. Hai vợ chồng chung sống hạnh phúc với nhau cho đến
khoảng năm 2020-2021, khi Nhà nước có chủ trương đo đất cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất thì 02 vợ chồng có mâu thuẫn về vấn đề tài sản khiến thường
xuyên cãi nhau, tình cảm vợ chồng không còn nên bà T yêu cầu ly hôn thì ông C
đồng ý.
Về con chung: Không có
Về tài sản chung: Trong quá trình chung sống, bà T và ông C không tạo lập
được tài sản chung nào.
Ngày 30/6/2017, ông C có mua một miếng đất tại ấp S, xã T, huyện H, tỉnh
Bình Phước với diện tích là 9.694,4m
2
cùng tài sản trên đất là cây cao su đang khai
thác lấy mủ của vợ chồng ông L, bà P với giá là 590.000.000 đồng.
Năm 2019, ông C có đầu tư xây dựng 01 căn nhà cấp 4 trên diện tích đất
500m
2
(ngang 10m, dài 50m) của bà T (căn nhà hiện nay đang tranh chấp) nhưng
sau đó bà T không đồng ý cho ông C đứng tên chung trong giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất nên ngày 10/11/2020, ông C có mua một thửa đất của ông Nguyễn Bá
T2 có diện tích 500m
2
(ngang 10m, dài 50m) để đổi với diện tích đất của bà T mà
ông C đã xây nhà trên đó.
Ngoài ra, ông C có mua sắm vật dụng trong nhà vào tháng 10/2019 (trước
thời kỳ hôn nhân) gồm có mua 1 chiếc xe Honda Vision, 1 bộ bàn ghế gỗ, 01 tivi,
01 quạt hơi nước, 1 máy lọc nước, 1 máy giặt và một số tài sản là trang sức 16 chỉ
8,77 phân vàng do ông C bỏ tiền ra mua và giao cho bà T hiện cất giữ gồm nhẫn
vàng 9999 là 2 cái x 2 chỉ = 4 chỉ, vàng bảng khóa 4 cái = 5.882, vàng cổ bi dây 1
cái = 5.490, bông tai 6,77 phân, nhẫn kiểu 7.28 phân.
Tại đơn phản tố, ông C đề nghị Tòa án công nhận quyền sử dụng đất có diện
4
tích 9.694,4m
2
tại ấp S, xã T, huyện H, tỉnh Bình Phước cùng tài sản trên đất; công
nhận quyền sử dụng đất diện tích đất khoảng 500m
2
tại tổ D, ấp S, xã T, huyện H,
tỉnh Bình Phước cùng quyền sở hữu 01 căn nhà cấp 4 trên diện tích đất này; và 01
chiếc Honda Vision, 01 bộ bàn ghế gỗ, 01 ti vi, 01 quạt hơi nước, 01 máy lọc
nước, 01 máy giặt là tài sản riêng của ông C. Buộc bà T trả cho ông C 02 nhẫn
vàng 9999, mỗi nhẫn 02 chỉ; 04 vàng bảng khóa, 01 vàng cổ bi dây, bông tai, nhẫn
kiểu, tổng cộng 16 chỉ 8,77 phân có giá trị 54.442.880 đồng.
Ngày 16/9/2024 và tại phiên tòa, ông C cùng người đại diện theo ủy quyền
thống nhất rút lại một phần yêu cầu phản tố, không yêu cầu công nhận tài sản riêng
đối với quyền sử dụng đất diện tích đất 500m
2
và tài sản là vàng.
Về nợ chung: vợ chồng nợ chung của ai cũng không cho ai vay nợ.
Tại Bản án hôn nhân gia đình sơ thẩm số 121/2024/HNGĐ-ST ngày 27
tháng 9 năm 2024 của Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh Bình Phước đã quyết định:
Căn cứ khoản 1 Điều 28; Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 147; Điều
273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Căn cứ Điều 115, 158 của Bộ luật Dân sự; Căn cứ
các Điều 29, 33, 34, 46, 59, 62 của Luật Hôn nhân và Gia đình; Căn cứ Nghị quyết
số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội;
Tuyên xử:
Về tài sản chung:
Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, chấp nhận một phần
yêu cầu phản tố của bị đơn về tài sản là căn nhà và chiếc xe Vision:
Công nhận quyền sở hữu: 01 căn nhà cấp 04 loại 4 có chiều cao tường trên
4m, kết cấu khung chịu lực, bê tông cốt thép, mái lợp tôn, xà gỗ thép, tường bao
xây gạch tường 200, vật liệu hoàn thiện, tường xây gạch có sơn nước, bả ma tít,
nền lát gạch cerramit, có đóng trần, cửa kính, khung sắt có diện tích 85m
2
; 01 nhà
cấp 04 loại 8 có tường xây gạch, có giằng móng bê tông cốt sắt, kèo thép, tường
bao xây gạch 10cm vật liệu hoàn thiện, tường xây gạch quét sơn, có đóng trần, cửa
khung sắt, mái lợp tôn có diện tích 32,4m
2
; tường rào xây gạch dày 10cm cao 2,1m
có diện tích 34,5m
2
; 01 tường rào có khung sắt cao 2,1m diện tích 77,28m
2
; 01 mái
che khung sắt có cột phi 90 diện tích 88m
2
; 01 sân lát gạch ceramit diện tích 88m
2
;
01 sàn lát gạch xi măng có diện tích 48m
2
; 01 hồ nước nuôi cá có khối lượng 9,6m
3
(được xây dựng trên diện tích đất 10x50m tại xã T, huyện H, tỉnh Bình Phước) cho
ông Lâm Ngọc C.
Công nhận quyền sở hữu chiếc xe máy Honda loại Vision màu đỏ nâu đen số
máy JF86E0247982, số khung 5820KY017987 biển số 93C1-280.78 cho bà Vũ
Thị T.
Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Lâm Ngọc C về việc công nhận
diện tích đất 9.694,4m
2
tại ấp S, xã T, huyện H, tỉnh Bình Phước là tài sản riêng
của ông C.
Chấp nhận yêu cầu phản tố của ông Lâm Ngọc C: Công nhận quyền sở hữu
01 bộ bàn ghế gỗ, 01 ti vi, 01 quạt hơi nước, 01 máy lọc nước hiệu Kanofi, 01 máy
giặt hiệu Panasonic 9kg là tài sản riêng của ông Lâm Ngọc C.
5
Không xem xét đối với yêu cầu xác định tài sản riêng của ông Lâm Ngọc C
đối với 01 tủ gỗ để ti vi, 03 bàn inox.
Ngoài ra Bản án sơ thẩm còn quyết định về quan hệ hôn nhân, con chung, nợ
chung, chi phí tố tụng, án phí quyền kháng cáo và các vấn đề khác theo quy định
của pháp luật.
Sau khi xét xử sơ thẩm, bản án sơ thẩm bị kháng cáo như sau:
- Ngày 09 tháng 10 năm 2024, nguyên đơn bà Vũ Thị T kháng cáo một phần
Bản án sơ thẩm về phần chia tài sản, yêu cầu cấp phúc thẩm sửa Bản án sơ thẩm
theo hướng chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà về việc chia đôi tài sản là căn nhà
được xây dựng trên diện tích đất 500m
2
tọa lạc tổ 4, ấp S, xã T, huyện H, tỉnh Bình
Phước và các tài sản là vật dụng trong gia đình.
- Tại đơn kháng cáo ngày 14 tháng 10 năm 2024 và đơn sửa đổi, bổ sung
đơn kháng cáo ngày 29/10/2024, bị đơn ông Lâm Ngọc C kháng cáo một phần Bản
án sơ thẩm về phần chia tài sản. Ông C yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm sửa Bản án
sơ thẩm theo hướng chia đôi diện tích đất 9.694,4m
2
tại ấp S, xã T, huyện H, tỉnh
Bình Phước, ông C yêu cầu được nhận giá trị tài sản bằng tiền là 450.000.000
đồng.
Tại phiên toà phúc thẩm:
- Nguyên đơn bà Vũ Thị T vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện và yêu cầu
kháng cáo; bị đơn ông Lâm Ngọc C vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo. Các đương
sự không tự thoả thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.
Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Phước:
- Về tố tụng: Quá trình giải quyết vụ án tại cấp phúc thẩm, Hội đồng xét xử,
Thư ký Tòa án đã tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Những
người tham gia tố tụng đều thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình, chấp hành
tốt Nội quy phiên tòa.
- Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bộ
luật Tố tụng dân sự, tuyên xử không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn
bà Vũ Thị T và bị đơn ông Lâm Ngọc C, giữ nguyên Bản án sơ thẩm của Tòa án
nhân dân huyện Hớn Quản, tỉnh Bình Phước.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào hồ sơ vụ án, các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa,
ý kiến của đại diện Viện kiểm sát; ý kiến của nguyên đơn, bị đơn và kết quả tranh
tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định:
[1] Về tố tụng: Đơn kháng cáo của nguyên đơn bà Vũ Thị T và bị đơn ông
Lâm Ngọc C làm trong thời hạn luật định, có nội dung và hình thức phù hợp với
quy định pháp luật, nên được xem xét giải quyết theo trình tự phúc thẩm.
[2] Về nội dung:
[2.1] Xét yêu cầu kháng cáo của bị đơn ông Lâm Ngọc C đối với quyền sử
dụng đất 9.694,4m
2
(diện tích đo đạc thực tế là 9.804,5m
2
) tọa lạc tại ấp S, xã T,
6
huyện H, tỉnh Bình Phước cùng tài sản trên đất:
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án và lời khai của các
đương sự đều thừa nhận nguồn gốc diện tích đất này và tài sản trên đất do nhận
chuyển nhượng từ ông L, bà P vào năm 2017 với giá 590.000.000 đồng, các bên có
lập giấy thỏa thuận chuyển nhượng thể hiện ông C, bà T cùng là người nhận
chuyển nhượng và bà T là người đứng tên trong giấy đặt cọc với số tiền
170.000.000 đồng. Do đó, đây là tình tiết, sự kiện không phải chứng minh theo quy
định tại Điều 92 Bộ luật Tố tụng dân sự.
Tuy nhiên, ông C cho rằng khi nhận chuyển nhượng, do ông C chưa rút được
tiền từ Ngân hàng nên có vay của bà T số tiền 170.000.000 đồng để đặt cọc nên
trong hợp đồng đặt cọc mới để bà T đứng tên. Sau khi đặt cọc xong, ông C rút tiền
Ngân hàng ra để trả cho bà P, ông L số tiền còn lại của hợp đồng chuyển nhượng là
420.000.000 đồng và trả số tiền 170.000.000 đồng cho bà T, các bên có làm giấy
thỏa thuận chuyển nhượng đất và thành quả lao động trên đất vào ngày 30/6/2017.
Nguyên đơn bà T thì xác định vào tháng 6/2017 bà có nhận chuyển nhượng
thửa đất này cùng tài sản trên đất, có đặt cọc trước cho bà P, ông L số tiền
170.000.000 đồng. Khi đó bà và ông C đang quen nhau nên ông C xin góp tiền
mua chung thì bà đồng ý, ông C góp số tiền 195.000.000 đồng, bà T góp số tiền
395.000.000 đồng, sau khi nhận chuyển nhượng thì hai bên cùng quản lý sử dụng.
Đến năm 2020, ông C xin rút vốn ra nên bà T đồng ý mua lại và trả cho ông C số
tiền 400.000.000 đồng, hai bên có làm giấy viết tay xác định đây là tài sản riêng
của bà T.
Xét thấy, lời khai của bà T là có căn cứ và phù hợp với các tài liệu chứng cứ
có trong hồ sơ vụ án bởi căn cứ vào giấy đặt cọc ngày 30/6/2017 cũng như lời xác
nhận của bà P thì thời điểm đặt cọc bà P chuyển nhượng diện tích đất này cho bà
T, nhận tiền đặt cọc từ bà T, ông C cho rằng vay tiền của bà T để đặt cọc nhưng
không đưa ra được tài liệu chứng cứ chứng minh. Hơn nữa, tại “Giấy xin xác
nhận” gửi Ban đo đạc, Ban Ấ (bút lục số 93) có nội dung bà T và chồng là ông C
“có mua 1 miếng đất 1 mẫu cao su...nay chồng tôi là C nhất trí cho tôi là Vũ Thị T
được đứng tên làm sổ đỏ và được quyền sử dụng luôn” có chữ ký xác nhận của ông
C. Ngoài ra, tại mặt sau Giấy xác nhận (bút lục số 95) có nội dung xác nhận của
các bên như sau “Tôi Vũ Thị T có bù cho chú Lâm Ngọc C 400.000.000 (bốn trăm
triệu) tiền mẫu cao su. Từ nay về sau mẫu đất trên là của Vũ Thị T” có chữ ký, chữ
viết và điểm chỉ của ông C. Ông C xác nhận chữ ký, chữ viết trong các văn bản
nêu trên đúng là chữ ký, chữ viết của ông nhưng cho rằng ông ký xác nhận vào các
giấy tờ nêu trên trong tình trạng say xỉn, không tỉnh táo nhưng không có căn cứ
chứng minh. Người làm chứng ông Nguyễn Bá T2 là người viết nội dung Giấy xác
nhận tại bút lục số 95 cũng khẳng định nội dung trong Giấy xác nhận là do ông C
và bà T tự thảo luận và nói cho ông viết, tại thời điểm làm giấy thì cả ông C và bà
T đều hoàn toàn bình thường, tỉnh táo nên việc ông C cho rằng ông ký vào giấy
xác nhận trong tình trạng không tỉnh táo là không có căn cứ, không được chấp
nhận.
Bên cạnh đó, trong quá trình giải quyết vụ án, ông C cung cấp cho Tòa án 01
Hợp đồng đặt cọc về việc chuyển nhượng quyền sử dụng đề ngày 10/11/2020 giữa
7
ông Nguyễn Bá T2 và ông C (bút lục số 46), tại mặt sau của hợp đồng đặt cọc này
có ghi: “Tôi là Lâm Ngọc C có mua đất của Nguyễn Bá T2 giáp nhà tôi là 1 tỷ, đã
đưa trước 600.000.000 đồng, còn lại 400.000.000 đồng giao cho T có trách nhiệm
đưa theo hợp đồng đặt cọc”, nội dung này được ông C ký ngày 11/11/2020 và nội
dung “Hôm nay ngày 21/11/2020 T có bàn giao đủ số tiền là 400.000.000 đồng
cho T2, trả đã xong” có ông T2 ký xác nhận. Như vậy, các nội dung thỏa thuận
này hoàn toàn phù hợp với lời khai của bà T và ông T2 về việc bà T đã trả cho ông
C số tiền 400.000.000 đồng tiền mua đất của ông T2, sau đó bà T, ông C đã thống
nhất phần diện tích đất cao su mà hiện các bên có tranh chấp là tài sản của bà T và
đã được thể hiện tại Giấy xác nhận như đã nêu trên.
Từ những phân tích nêu trên có cơ sở để xác định mặc dù ông C và bà T
cùng nhận chuyển nhượng chung thửa đất này nhưng sau đó ông C, bà T đã thỏa
thuận bà T trả cho ông C số tiền 400.000.000 đồng và các bên thống nhất thửa đất
này là tài sản riêng của bà T. Tòa án cấp sơ thẩm xác định đây là tài sản riêng của
bà T và không chấp nhận yêu cầu công nhận diện tích đất này là tài sản riêng của
ông C là có căn cứ. Do đó, ông C kháng cáo yêu cầu chia đôi tài sản này không
được Hội đồng xét xử chấp nhận.
[2.2] Xét yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn bà Vũ Thị T về việc yêu cầu
chia đôi tài sản là căn nhà:
Bà T cho rằng căn nhà cấp 4, dạng nhà thái có diện tích khoảng 150m
2
được
xây dựng trên diện tích đất 500m
2
tọa lạc tổ 4, ấp S, xã T, huyện H, tỉnh Bình
Phước là tài sản chung của bà và ông C trong thời gian chung sống với nhau. Ông
C không đồng ý với ý kiến của bà T và xác định căn nhà trên đất là tài sản riêng
của ông C.
Trong quá trình giải quyết vụ án, bà T và ông C đều xác nhận ông bà sống
chung với nhau vào năm 2017 nhưng không xác định được thời gian cụ thể, đến
năm 2019 mới đăng ký kết hôn. Căn cứ vào Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số
69/2019 thì ông C, bà T đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện H vào
ngày 03/12/2019 nên quan hệ hôn nhân giữa ông C và bà T được công nhận từ thời
điểm đăng ký kết hôn là ngày 03/12/2019.
Theo lời trình bày của các bên thì căn nhà được xây dựng vào năm 2019,
xây dựng trước khi ông C, bà T đăng ký kết hôn. Bà T xác định bà và ông C về ở
tại căn nhà đang tranh chấp vào tháng 6/2019, đến tháng 11/2019 mới làm tân gia.
Như vậy, căn nhà được xây dựng tại thời điểm ông C và bà T chưa phải là vợ
chồng theo quy định của pháp luật.
Theo bà T, bà có góp số tiền 480.000.000 đồng vào việc xây dựng căn nhà
trên như trả tiền vật liệu xây dựng, trả tiền công thợ nhưng ngoài lời trình bày của
mình, bà T không cung cấp được tài liệu, chứng cứ chứng minh. Người làm chứng
là bà T3 và ông T4 khai có biết việc bà T đóng góp tiền để xây nhà nhưng bà T3,
ông T4 là anh chị em ruột của bà T nên lời khai không đảm bảo tính khách quan và
bà T3, ông T4 cũng không cung cấp được chứng cứ chứng minh cho lời khai của
mình là có căn cứ nên không có cơ sở để chấp nhận. Mặt khác, bà T3 cho rằng có
trả cho bà T số tiền 250.000.000 đồng vào tháng 12/2019 để bà T làm căn nhà trên
nhưng bà T lại khẳng định bà về ở nhà mới từ tháng 6/2019 và làm tân gia vào
8
tháng 11/2019 nên việc bà T cho rằng có lấy tiền của bà T3 trả để phụ vào việc xây
nhà là không có cơ sở, không được chấp nhận.
Về phía ông C, để chứng minh cho yêu cầu của mình, ông đã cung cấp cho
Tòa án các tài liệu, chứng cứ chứng minh về nguồn tiền để xây dựng căn nhà là do
tại thời điểm xây nhà ông C có bán đất của cá nhân tại Bình Dương nên có nguồn
kinh phí để xây nhà, cung cấp được xác nhận của các cơ sở buôn bán vật liệu xây
dựng về việc ông C có mua và thanh toán vật liệu xây dựng trong thời gian xây
dựng căn nhà trên. Như vậy, có cơ sở khẳng định ông C là người bỏ kinh phí xây
dựng căn nhà, bà T không chứng minh được việc có đóng góp công sức xây dựng
căn nhà này nên có căn cứ để xác định căn nhà này là tài sản riêng của ông C tạo
lập trước khi kết hôn với bà T. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu phản
tố của ông C về việc công nhận đây là tài sản riêng của ông C và không chấp nhận
yêu cầu chia đôi tài sản này của bà T là có căn cứ nên yêu cầu kháng cáo của bà T
về phần này không được chấp nhận.
[2.3] Xét yêu cầu kháng cáo của bà T đối với các tài sản tranh chấp là các
vật dụng trong gia đình:
Tại đơn khởi kiện nộp cho Tòa án ngày 03/6/2022, bà T chỉ yêu cầu chia tài
sản chung là chiếc xe máy Honda Vision và căn nhà cấp 4 được xây dựng trên diện
tích đất 500m
2
tọa lạc tổ 4, ấp S, xã T, huyện H, tỉnh Bình Phước. Tuy nhiên, trong
quá trình Tòa án thụ lý giải quyết vụ án, tại các biên bản lấy lời khai, các biên bản
hòa giải bà T đều xác định các vật dụng trong gia đình gồm 01 bộ bàn ghế gỗ, 01 ti
vi, 01 tủ gỗ để ti vi, 01 quạt hơi nước, 01 máy lọc nước, 01 máy giặt, 03 bộ bàn
inox là tài sản chung của bà và ông C và bà yêu cầu được chia đôi các tài sản
chung này. Ông C cũng xác định các vật dụng trong gia đình gồm các tài sản như
nêu trên nhưng ông không đồng ý với yêu cầu của bà T vì đây là tài sản riêng của
ông. Tòa án cấp sơ thẩm nhận định đối với 01 tủ gỗ để ti vi và 03 bộ bàn inox do
ông C yêu cầu công nhận tại phiên tòa là vượt quá yêu cầu khởi kiện ban đầu nên
quyết định không xem xét đến các tài sản này là chưa phù hợp. Tuy nhiên, quá
trình giải quyết vụ án Tòa án cấp sơ thẩm đã tiến hành xem xét, thẩm định và định
giá đối với các tài sản này nên thiếu sót này không ảnh hưởng nghiêm trọng đến
quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự nên cấp phúc thẩm sẽ bổ sung, điều chỉnh
khi giải quyết vụ án.
Bà T cho rằng các vật dụng trong gia đình là tài sản chung của bà và ông C
nhưng không cung cấp được chứng cứ chứng minh về nguồn tiền và thời gian mua
sắm các vật dụng này. Trong khi đó, ông C đã cung cấp được hóa đơn mua hàng
đối với các tài sản này thể hiện người mua hàng là ông C và tại thời điểm mua các
tài sản này thì ông C với bà T chưa đăng ký kết hôn. Vì vậy, ông C yêu cầu công
nhận đây là các tài sản riêng của ông C là có căn cứ, được chấp nhận. Bà T kháng
cáo yêu cầu được chia đôi giá trị các tài sản này là không có căn cứ nên không
được chấp nhận.
[2.4] Đối với tài sản là chiếc xe máy Honda Vision biển số 93C1-280.78 đã
được Tòa án cấp sơ thẩm công nhận là tài sản riêng của bà T và các đương sự
không kháng cáo về phần này nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[3] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Phước tại
9
phiên toà là có căn cứ và phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được
chấp nhận.
[4] Về án phí hôn nhân gia đình phúc thẩm: Do yêu cầu kháng cáo không
được chấp nhận nên bà T phải chịu theo quy định. Ông C được miễn án phí vì là
người cao tuổi và có đơn xin miễn án phí.
[5] Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng
nghị, có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ nêu trên,
QUYẾT ĐỊNH:
1. Căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự;
Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn bà Vũ Thị T và bị đơn
ông Lâm Ngọc C;
Giữ nguyên Bản án hôn nhân gia đình sơ thẩm số 121/2024/HNGĐ-ST ngày
27 tháng 9 năm 2024 của Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh Bình Phước về phần tài
sản chung.
2. Căn cứ khoản 1 Điều 28; Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 147;
Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Căn cứ Điều 115, 158 của Bộ luật Dân sự;
Căn cứ các điều 29, 33, 34, 46, 59, 62 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;
Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
- Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Vũ Thị T;
Công nhận chiếc xe máy Honda loại Vision màu đỏ nâu đen số máy
JF86E0247982, số khung 5820KY017987 biển số 93C1-280.78 là tài sản riêng của
bà Vũ Thị T, bà T được quyền sở hữu tài sản này.
- Chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của bị đơn ông Lâm Ngọc C, không
chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Vũ Thị T đối với tài sản là căn
nhà;
Công nhận 01 căn nhà cấp 04 loại 4 có chiều cao tường trên 4m, kết cấu
khung chịu lực, bê tông cốt thép, mái lợp tôn, xà gỗ thép, tường bao xây gạch
tường 200, vật liệu hoàn thiện, tường xây gạch có sơn nước, bả ma tít, nền lát gạch
cerramit, có đóng trần, cửa kính, khung sắt có diện tích 85m
2
; 01 nhà cấp 04 loại 8
có tường xây gạch, có giằng móng bê tông cốt sắt, kèo thép, tường bao xây gạch
10cm vật liệu hoàn thiện, tường xây gạch quét sơn, có đóng trần, cửa khung sắt,
mái lợp tôn có diện tích 32,4m
2
; tường rào xây gạch dày 10cm cao 2,1m có diện
tích 34,5m
2
; 01 tường rào có khung sắt cao 2,1m diện tích 77,28m
2
; 01 mái che
khung sắt có cột phi 90 diện tích 88m
2
; 01 sân lát gạch ceramit diện tích 88m
2
; 01
sàn lát gạch xi măng có diện tích 48m
2
; 01 hồ nước nuôi cá có khối lượng 9,6m
3
được xây dựng trên diện tích đất 10x50m tại xã T, huyện H, tỉnh Bình Phước là tài
sản riêng của ông Lâm Ngọc C, ông C được quyền sở hữu các tài sản này.
- Không chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn ông Lâm Ngọc C về việc
10
công nhận diện tích đất 9.694,4m
2
(diện tích đo thực tế 9.804,5m
2
) tại ấp S, xã T,
huyện H, tỉnh Bình Phước là tài sản riêng của ông Lâm Ngọc C.
- Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Vũ Thị T, chấp
nhận yêu cầu phản tố của bị đơn ông Lâm Ngọc C đối với các tài sản là vật dụng
trong gia đình;
Công nhận 01 quạt hơi nước, 01 máy lọc nước hiệu Kanofi, 01 máy giặt hiệu
Panasonic 9kg, 01 bộ bàn ghế gỗ (salon), 01 ti vi, 01 tủ gỗ để ti vi, 03 bộ bàn inox
là tài sản riêng của ông Lâm Ngọc C, ông C được quyền sở hữu các tài sản này.
3. Về chi phí tố tụng:
Bà Vũ Thị T phải chịu là 7.000.000 đồng, ông Lâm Ngọc C phải chịu là
24.448.000 đồng, được khấu trừ vào tiền tạm ứng chi phí tố tụng đã nộp. Tòa án
nhân dân huyện H hoàn trả cho bà Vũ Thị T số tiền 1.000.000 đồng (một triệu
đồng), hoàn trả cho ông Lâm Ngọc C số tiền 552.000 đồng (năm trăm năm mươi
hai nghìn đồng).
4. Về án phí:
- Án phí dân sự sơ thẩm:
Bà Vũ Thị T phải chịu 14.634.774 đồng (mười bốn triệu sáu trăm ba mươi
bốn nghìn bảy trăm bảy mươi bốn đồng) án phí chia tài sản; được khấu trừ vào số
tiền tạm ứng án phí 7.500.000 đồng đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí
Tòa án số 0013960 ngày 16/6/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện H, tỉnh
Bình Phước. Bà Vũ Thị T còn phải nộp số tiền 7.434.774 đồng (bảy triệu bốn trăm
ba mươi bốn nghìn bảy trăm bảy mươi bốn đồng).
Ông Lâm Ngọc C được miễn án phí.
- Án phí dân sự phúc thẩm:
Bà Vũ Thị T phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng), được khấu trừ
vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng đã nộp theo biên lai thu tiền số 0005525
ngày 29/10/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện H, tỉnh Bình Phước.
Ông Lâm Ngọc C được miễn án phí.
5. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị,
có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp Cơ quan
thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn
yêu cầu thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án)
cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành
án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất
quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015, trừ trường hợp pháp luật
có quy định khác.
Trường hợp bản án được thi hành theo Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì
người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền thỏa thuận thi hành án,
quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án
theo quy định tại các Điều 6, 7a, 7b và 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu
11
thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Phước;
- Tòa án nhân dân huyện H;
- Chi cục Thi hành án dân sự huyện H;
- Các đương sự;
- Người tham gia tố tụng khác;
- Lưu: HS vụ án, T.HCTP, T.GĐNCTN. (15).
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(Đã ký)
Bùi Thanh Thảo
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 10/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 03/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 28/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 26/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 23/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 22/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 22/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 22/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 21/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 17/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 17/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 12/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 12/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 11/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 07/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 04/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 04/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 04/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 26/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm