Bản án số 376/2025/HC-PT ngày 08/04/2025 của TAND cấp cao tại TP.HCM
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 376/2025/HC-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 376/2025/HC-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 376/2025/HC-PT
Tên Bản án: | Bản án số 376/2025/HC-PT ngày 08/04/2025 của TAND cấp cao tại TP.HCM |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND cấp cao tại TP.HCM |
Số hiệu: | 376/2025/HC-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 08/04/2025 |
Lĩnh vực: | Hành chính |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ án: | Giữ nguyên bản án sơ thẩm |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Bản án số: 376/2025/HC-PT
Ngày 08 - 4 - 2025
V/v “Khiếu kiện quyết định hành chính
về quản lý nhà nước trong lĩnh vực đất
đai thuộc trường hợp bồi thường, hỗ trợ
giải phóng mặt bằng, tái định cư”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Nguyễn Văn Tửu
Các Thẩm phán: Ông Lê Thành Long
Ông Hà Huy Cầu
- Thư ký phiên tòa: Ông Nguyễn Trọng Tâm - Thư ký Tòa án nhân dân
cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh
tham gia phiên tòa: Ông Nguyễn Văn Đức - Kiểm sát viên cao cấp.
Ngày 08 tháng 4 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành
phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hành chính thụ lý số:
305/2024/TLPT-HC ngày 20 tháng 3 năm 202 về việc “Khiếu kiện quyết định
hành chính về quản lý nhà nước trong lĩnh vực đất đai thuộc trường hợp bồi
thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng, tái định cư”.
Do Bản án hành chính sơ thẩm số 2451/2023/HC-ST ngày 15 tháng 11 năm
2023 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 1975/2024/QĐ-PT ngày
19 tháng 6 năm 2024, giữa các đương sự:
- Người khởi kiện: Bà Phạm Thị N, sinh năm 1956; Địa chỉ: 1 T, phường
B, Quận G, Thành phố Hồ Chí Minh (có mặt).
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khởi kiện: Luật sư
Phương Văn T và Luật sư Huỳnh N1 - Văn phòng L, thuộc Đoàn Luật sư Thành
phố H; Địa chỉ: Số A, H, phường T, Quận G, Thành phố Hồ Chí Minh (có mặt).
- Người bị kiện:
1. Ủy ban nhân dân (sau đây gọi tắt là “UBND”) huyện N;
2. Chủ tịch UBND huyện N;
Cùng địa chỉ: C N, xã P, huyện N, Thành phố Hồ Chí Minh.
2
Người đại diện theo ủy quyền của người bị kiện: Ông Võ Phan Lê Nguyễn
; Chức vụ: Phó Chủ tịch UBND huyện N (vắng mặt).
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp:
- Ông Nguyễn Thanh T1; Chức vụ: Phó Trưởng Ban Bồi thường giải phóng
mặt bằng huyện N (vắng mặt).
- Ông Võ Phan Điền T2; Chức vụ: Trưởng Phòng nghiệp vụ 4 - Ban Bồi
thường giải phóng mặt bằng huyện N (vắng mặt).
- Ông Lê Văn H; Chức vụ: Phó Trưởng Phòng Tài nguyên và Môi trường
huyện N (vắng mặt).
- Bà Nguyễn Thị Ngọc T3; Chức vụ: Phó Trưởng Phòng tư pháp huyện Nhà
Bè (vắng mặt).
3. Chủ tịch UBND Thành phố H; Địa chỉ: H L, phường B, Quận A (vắng
mặt).
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp: Ông Nguyễn Thanh T1; Chức vụ:
Phó Trưởng Ban Bồi thường giải phóng mặt bằng huyện N (vắng mặt).
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Nguyễn Công M, sinh năm
1953; Địa chỉ: H Đường B, Khu phố B, phường T, Quận G, Thành phố Hồ Chí
Minh (vắng mặt).
Người đại diện theo ủy quyền của ông M: Bà Phạm Thị N, sinh năm 1956;
Địa chỉ: 1 T, phường B, Quận G, Thành phố Hồ Chí Minh (có mặt).
- Người kháng cáo: Người khởi kiện bà Phạm Thị N.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo nội dung đơn khởi kiện, bản tự khai và trong quá trình giải quyết
vụ án, người khởi kiện bà Phạm Thị N trình bày:
Gia đình bà có phần đất diện tích 3.125m
2
thuộc một phần thửa số 153, tờ
bản đồ số 3, xã P đã được nhà nước cấp: Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (gọi
tắt là “GCN.QSDĐ”) số 36/QSDĐ/13 ngày 17/5/1997. Ngày 20/12/1999 được
UBND huyện N cho phép chuyển đổi thành đất vườn.
Ngày 01/11/1999, UBND huyện N có Công văn số 434/CV-UB gửi UBND
thành phố về việc đề nghị thu hồi thêm 75m chiều sâu, dọc tuyến đường N để làm
quỹ đất dự trữ và được UBND thành phố chấp thuận.
Ngày 18/6/2003, UBND thành phố ban hành Quyết định số 2272/QĐ-UB
về việc thu hồi đất dọc đường N thuộc huyện N để tạo quỹ đất đô thị cho thành
phố (sau đây gọi tắt là “Quyết định số 2272”).
Ngày 30/6/2004, UBND thành phố ban hành Quyết định số 3234/QĐ-UB
về thu hồi và tạm giao đất cho Công ty Cổ phần X và Kinh doanh nhà ở T để triển
khai bồi thường giải phóng mặt bằng chuẩn bị đầu tư xây dựng khu nhà ở (sau
đây gọi tắt là “Quyết định số 3234”). Quyết định này buộc Công ty T4 thỏa thuận
với người dân để nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo quy định nhưng
3
UBND huyện N bồi thường theo Phương án số 377/PAĐB ngày 04/11/1999 với
giá là 25.000 đồng/m
2
đất nông nghiệp và 60.000đồng/m
2
đất vườn gò. Không
đồng ý với đơn giá bồi thường, bà N khiếu nại đến Chủ tịch UBND huyện N.
Ngày 03/4/2006, Chủ tịch UBND huyện N ban hành Quyết định số 23/QĐ-
UBND giải quyết khiếu nại lần đầu cho bà N (sau đây gọi tắt là “Quyết định số
23”), bác đơn khiếu nại của bà N về yêu cầu tăng giá đền bù đối với diện tích
3.125m
2
thuộc một phần thửa số 153, tờ bản đồ số 3, xã P.
Ngày 12/11/2019, Chủ tịch UBND Thành phố H ban hành Quyết định số
4834/QĐ-UBND giải quyết khiếu nại lần hai (sau đây gọi tắt là “Quyết định số
4834”) không công nhận nội dung khiếu nại của bà N và giữ nguyên Quyết định
số 23 là ảnh hưởng quyền, lợi ích hợp pháp bà.
Nay, bà N khởi kiện yêu cầu hủy Quyết định số 23; Quyết định số 731/QĐ-
UBND ngày 14/8/2008 của UBND huyện N về hỗ trợ bổ sung đối với bà Phạm
Thị N được mua 01 căn hộ chung cư trên địa bàn xã P theo giá thành xây dựng
(theo chính sách tại Văn bản số 943/UBND-ĐTMT ngày 13/02/2008 của UBND
Thành phố), (sau đây gọi tắt là “Quyết định số 731”); Quyết định số 30/QĐ-
UBND ngày 01/9/2009 của Chủ tịch UBND huyện N về việc giải quyết khiếu nại
của bà N (sau đây gọi tắt là “Quyết định số 30”); Quyết định số 4834 và buộc
UBND huyện N ban hành quyết định thu hồi đất và bồi thường về đất theo giá thị
trường cho gia đình bà Phạm Thị N theo quy định pháp luật.
Người bị kiện UBND huyện N có văn bản trình bày:
1. Cơ sở pháp lý:
Căn cứ Nghị định số 22/NĐ-CP ngày 24/4/1998 của Chính phủ về đền bù
thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh,
lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng.
Căn cứ Quyết định số 4492/QĐ-UB-QLDA ngày 09/8/1999 của UBND
Thành phố H về việc duyệt dự án tạo quỹ đất dự trữ cho Thành phố của Sở G (sau
đây gọi tắt là “Quyết định số 4492”);
Căn cứ Quyết định số 7319/QĐ-UB-ĐB ngày 29/11/1999 của UBND
Thành phố H về việc di chuyển nhà ở dân cư, các tổ chức và thực hiện đền bù, hỗ
trợ thiệt hại tái bố trí dân cư trong dự án Đầu tư xây dựng đường nối từ đường B
đến khu công nghiệp H và quỹ đất dự trữ cho Thành phố dọc tuyến đường tại
Quận G và huyện N (sau đây gọi tắt là “Quyết định số 7319”);
Căn cứ Quyết định số 2272;
Căn cứ Phương án đền bù số 377/PAÐB ngày 04/11/1999 của Ban quản lý
dự án Ðầu tý xây dựng công trình giao thông công chánh được Giám đốc Sở T5 -
Vật giá Thành phố phê duyệt tại Văn bản số 3536/TCVG-BVG ngày 06/12/1999
về việc phê duyệt phương án giá đền bù, trợ cấp thiệt hại ở dự án Xây dựng đường
N đến khu công nghiệp H và dự án đền bù tạo quỹ đất (sau đây gọi tắt là “Phương
án đền bù số 377”).
2. Việc bồi thường đối với gia đình bà Phạm Thị N:
4
Bà N có diện tích đất bị ảnh hưởng trong dự án là 3.234m
2
thuộc một phần
thửa 153, tờ bản đồ số 03 (theo tài liệu 02/CT-UB), xã P (không có nhà) là hộ
thuộc diện giải tỏa toàn bộ đất trong phạm vi dự án. Căn cứ vào Phương án đền
bù số 377.
Ngày 19/11/1999, UBND huyện N có Biên bản hiệp thương đền bù đối với
bà Phạm Thị N với đơn giá đất nông nghiệp (trồng cây hàng năm) là 25.000
đồng/m
2
, tổng số tiền đền bù là 124.494.000 đồng. Bà N không đồng ý nhận tiền
đền bù, nên số tiền đền bù đã được gửi vào ngân hàng năm 2003. Hiện nay, bà N
chưa đồng ý bàn giao mặt bằng để triển khai thực hiện dự án.
Ngày 14/8/2008, UBND huyện N ban hành Quyết định số 731.
+ Về yêu cầu hủy Quyết định số 23:
Không đồng ý với việc bồi thường của UBND huyện N, bà N khiếu nại yêu
cầu tăng giá tiền đền bù. UBND huyện N đã kiểm tra, rà soát hồ sơ bồi thường,
pháp lý và Phương án bồi thường của dự án để giải quyết cho bà Phạm Thị N.
UBND huyện N đã ban hành Quyết định số 23 về việc giải quyết đơn khiếu nại
của bà Phạm Thị N là phù hợp quy định. Do đó việc bà Phạm Thị N yêu cầu hủy
Quyết định số 23 là không có cơ sở xem xét giải quyết.
Người bị kiện Chủ tịch UBND Thành phố H có văn bản trình bày: Xác
định đến nay không có tình tiết mới để xem xét lại Quyết định 4834, do đó Chủ
tịch UBND Thành phố H giữ nguyên nội dung giải quyết tại Quyết định số 4834,
không chấp nhận nội dung khởi kiện của bà N.
Tại phiên tòa sơ thẩm:
- Người khởi kiện trình bày: Giữ nguyên yêu cầu khởi kiện về hủy Quyết
định số 23, Quyết định số 731, Quyết định số 30, Quyết định số 4834 và buộc
UBND huyện N ban hành quyết định thu hồi đất và bồi thường về đất theo giá thị
trường cho gia đình bà Phạm Thị N theo quy định pháp luật.
- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị kiện trình bày: Các
quyết định hành chính bị kiện được ban hành đúng trình tự, thủ tục theo quy định
pháp luật, nên đề nghị bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Phạm Thị N.
Tại Bản án hành chính sơ thẩm số 2451/2023/HC-ST ngày 15 tháng 11
năm 2023 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, quyết định:
Căn cứ Điều 3, khoản 1 Điều 30, khoản 3 và khoản 4 Điều 32, điểm a khoản
2 Điều 116, khoản 1 Điều 158, điểm a khoản 2 Điều 193, Điều 206 Luật Tố tụng
hành chính năm 2015; Điều 39, Điều 42, Điều 43 Luật Đất đai năm 2003; Điều
11, Điều 18 Luật Khiếu nại năm 2011; Điều 30, Điều 31, khoản 4 Điều 39 Nghị
định số 69/NĐ-CP ngày 13/8/2009 của Chính phủ; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị
quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc
hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ
phí Tòa án;
Tuyên xử:
5
- Bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Phạm Thị N về việc yêu cầu hủy:
Quyết định số 23; Quyết định số 731; Quyết định số 30; Quyết định số 4834 và
buộc UBND huyện N ban hành quyết định thu hồi đất và bồi thường về đất theo
giá đất thị trường cho gia đình bà Phạm Thị N theo quy định pháp luật.
Ngoài ra, bản án hành chính sơ thẩm còn tuyên về án phí, trách nhiệm thi
hành án và quyền kháng cáo theo luật định.
- Ngày 16/11/2023, người khởi kiện bà Phạm Thị N có đơn kháng cáo toàn
bộ bản án sơ thẩm với nội dung kháng cáo:
Đất của gia đình bà là đất vườn không được Tòa cấp sơ thẩm xem xét, các
Quyết định của người bị kiện không được thực hiện đúng theo trình tự, thủ tục.
Do đó, bà N yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xem xét sửa bản án sơ thẩm
theo hướng chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà, huỷ các Quyết định hành
chính mà bà đã bị bác theo quyết định của bản án sơ thẩm nêu trên.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
- Người kháng cáo bà Phạm Thị N, trình bày: Giữ nguyên yêu cầu khởi
kiện và yêu cầu kháng cáo, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ kháng cáo
của bà, sửa án sơ thẩm theo hướng chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà
như nêu trên.
- Luật sư T và Luật sư Quỳnh N2 là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của bà N, cùng trình bày:
+ Về thủ tục: Tòa án cấp sơ thẩm vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng khi
xét xử sơ thẩm, cụ thể: lập Biên bản nghị án không đúng mẫu quy định tại Nghị
quyết 01/2017/NQ-HĐTP ngày 13/01/2017 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân
dân tối cao, không ghi ý kiến cụ thể của từng thành viên Hội đồng xét xử; Tại
phiên tòa sơ thẩm Kiểm sát viên phát biểu quan điểm “Đề nghị Hội đồng xét xử
chấp nhận đơn khởi kiện của bà N”. Nhưng bài phát biểu của Kiểm sát viên có
trong hồ sơ vụ án thì hoàn toàn ngược lại là “Viện kiểm sát đề nghị bác đơn khởi
kiện của bà N”; UBND huyện N là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nhưng
án sơ thẩm xác định UBND huyện N là người bị kiện là không đúng, UBND
Thành phố H là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nhưng án sơ thẩm không
đưa tham gia tố tụng.
+ Về nội dung: Nhận định và quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm là không
đúng sự thật khách quan của vụ án và không đúng quy định của pháp luật liên
quan, do: Gia đình bà Phạm Thị N bị thu hồi hết diện tích đất là 3.234m
2
, nhưng
bồi thường có 3.125m
2
(mất 109m
2
) thuộc thửa 153 tờ bản đồ số 3 xã P, trang số
4 GCN.QSDĐ của bà N được UBND huyện N điều chỉnh biến động cập nhật toàn
bộ diện tích đất cho gia đình bà N lên đất vườn vào ngày 20/12/1999, chưa có
Quyết định thu hồi đất số 2272/QĐ-UB nhưng án sơ thẩm không xem xét. Việc
bồi thường căn cứ vào Phương án 377 ngày 04/11/1999 là không đúng quy định
của pháp luật, do Phương án 377 “không phê duyệt - không ký tên đóng dấu”, về
mặt hình thức: Phương án 377 đưa vào sử dụng cho dự án quỹ đất Thành phố là
6
sai quy định. Khi thu hồi, bồi thường về đất cho bà N, người bị kiện đã thành lập
Hội đồng bồi thường thiệt hại, giải phóng mặt mặt không đúng quy định tại các
Điều 32 của Nghị định 22/1998/NĐ-CP; Hội đồng đền bù thiệt hại giải phóng mặt
bằng thực hiện Phương án 377 có toàn bộ nội dung đều áp giá cho trục đường 34
và 39, không liên quan đến việc áp giá cho đường N. Tính đường chim bay thì
đường 34 cách đường N khoản 3.000m, đường 39 cách đất bị thu hồi khoản
6.000m. Trong khi đất bị thu hồi cách đường N là 32m nhưng không được sử dụng
áp giá bồi thường; Phương án 377 “Không xác định một cách cụ thể về mức đền
bù, trợ cấp cho người dân có đất bị thu hồi” là sai luật định nên các Quyết định
giải quyết khiếu nại của Chủ tịch UBND hai cấp là trái quy định. Phương án 377
và Dự án Quỹ đất dự trữ cho thành phố không có trong phạm vi điều chỉnh tại
Điều 1 và Hồ sơ dự án tạo quỹ đất dự trữ cho thành phố làm sai quy định tại Điều
28 Nghị định 22/1998/NĐ-CP; Cho mua căn hộ chung cư nhưng đến nay là 25
năm vẫn chưa có dự án tái định cư. Tóm lại, như những phân tích và chứng minh
ở trên, UBND hai cấp chưa thực hiện đúng quy định của pháp luật về đất đai qua
các thời kỳ năm 1993, 1997, 1999, 2003, 2013, nên việc giải quyết khiếu nại lần
1 cũng như lần hai của Chủ tịch UBND hai cấp là không đúng quy định của pháp
luật, gây ảnh hưởng tới quyền lợi hợp pháp chính đáng của người khởi kiện bà
Phạm Thị N. Vì thế, đề nghị Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm chấp nhận kháng cáo
của bàNi, sửa án sơ thẩm theo hướng chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà
N. Trong trường hợp Hội đồng xét xử xét thấy tài liệu trong hồ sơ chưa thu thập
đầy đủ thì Luật sư đề nghị hủy án sơ thẩm để xét xử lại.
Bà N đồng ý đối với lời trình bày và đề nghị của các Luật sư, không tranh
luận bổ sung.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh
phát biểu quan điểm giải quyết vụ án:
- Về tố tụng: Thông qua kiểm sát việc giải quyết vụ án, từ khi thụ lý đến
thời điểm hiện nay thấy rằng Thẩm phán, Hội đồng xét xử và những người tham
gia tố tụng đã chấp hành đúng quy định của Luật Tố tụng hành chính, không có
vi phạm.
- Về nội dung: Khi giải quyết Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét đánh giá toàn
diện chứng cứ, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm là có căn cứ đúng quy định của
pháp luật. Tại cấp phúc thẩm không có căn cứ nào mới, nên đề nghị Hội đồng xét
xử bác kháng cáo của bà Phạm Thị N, giữ nguyên án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên
tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, sau khi nghe đại diện Viện
kiểm sát phát biểu ý kiến, sau khi thảo luận và nghị án, Hội đồng xét xử xét thấy:
- Về thủ tục tố tụng:
[1] Đơn kháng cáo của bà Phạm Thị N trong hạn luật định và hợp lệ được
xem xét tại cấp phúc thẩm theo quy định tại Điều 206 Luật Tố tụng hành chính
năm 2015.
7
[2] Về đối tượng khởi kiện, thời hiệu khởi kiện và thẩm quyền giải quyết
vụ án hành chính, Tòa sơ thẩm xác định là đúng quy định tại khoản 1 Điều 30,
khoản 3 và khoản 4 Điều 32, điểm a khoản 2 Điều 116 Luật Tố tụng hành chính
năm 2015.
[3] Tại phiên tòa phúc thẩm, người bị kiện, những người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt hoặc đã được Tòa án triệu tập
hợp lệ nhưng vắng mặt không có lý do. Vì vậy, căn cứ Điều 225 Luật Tố tụng
hành chính năm 2015, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt.
- Về nội dung:
[1] Về thẩm quyền, trình tự và thủ tục ban hành các quyết định hành chính
bị kiện:
UBND huyện N ban hành Quyết định số 731 là đúng thẩm quyền, trình tự,
thủ tục theo quy định tại Điều 42, Điều 43 Luật Đất đai năm 2003; Chủ tịch UBND
huyện N ban hành Quyết định số 23, Quyết định số 30 và Chủ tịch UBND Thành
phố H ban hành Quyết định số 4834 là đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo
quy định tại Điều 11, Điều 18 Luật Khiếu nại năm 2011.
[2] Về nội dung các quyết định hành chính bị kiện và yêu cầu của người
khởi kiện bà Phạm Thị N:
Gia đình bà Phạm Thị N có phần đất bị ảnh hưởng trong dự án Xây dựng
đường nối đường B đến khu công nghiệp H và dự án đền bù tạo quỹ đất theo
Quyết định số 4121/QÐ-UB-QLDA ngày 19/7/1999 và Quyết định số 4492, với
diện tích bị thu hồi là 3.234m
2
thuộc một phần thửa 153, tờ bản đồ số 03 (theo tài
liệu 02/CT-UB) xã P (không có nhà) là hộ thuộc diện giải tỏa toàn bộ đất trong
phạm vi dự án. Phần đất này bà N được cấp GCN.QSDĐ số 36/QSDĐ ngày
17/5/1997 loại đất mùa.
Ngày 19/11/1999, UBND huyện N có Biên bản hiệp thương đền bù đối với
bà Phạm Thị N với đơn giá đất nông nghiệp (trồng cây hàng năm) là 25.000
đồng/m
2
, tổng số tiền đền bù là 124.494.000 đồng. Bà N chưa nhận tiền đền bù
(số tiền đền bù đã được gửi vào ngân hàng năm 2003) và đã thực hiện việc khiếu
nại. Chủ tịch UBND huyện N đã ban hành Quyết định số 23. Không đồng ý quyết
định trên, bà N tiếp tục khiếu nại đến Chủ tịch UBND Thành phố H. Ngày
12/11/2019, Chủ tịch UBND Thành phố H ban hành Quyết định số 4834. Trước
đó, ngày 14/8/2008, UBND huyện N ban hành Quyết định số 731, sau khi nhận
Quyết định số 731, bà N tiếp tục khiếu nại. Ngày 01/9/2009, Chủ tịch UBND
huyện N ban hành Quyết định số 30. Không đồng ý các quyết định trên bà N khởi
kiện đến Tòa án.
[2.1] Xét nguồn gốc quá trình sử dụng đất của bà N bị ảnh hưởng bởi dự án
tạo quỹ đất đô thị cho thành phố dọc tuyến đường N, huyện N:
Đất có nguồn gốc do cha mẹ để lại, sử dụng ổn định không tranh chấp đã
được cấp GCN.QSDĐ là loại đất mùa có diện tích là 3.234m
2
gồm 800m
2
là loại
đất gò và 2.434m
2
là loại đất mùa thuộc 1 phần thửa thửa 153, tờ bản đồ số 03
8
(theo tài liệu 02/CT-UB) xã P (không có nhà) là hộ thuộc diện giải tỏa toàn bộ đất
trong phạm vi dự án. Tại thời điểm kiểm kê là đất trống. Tháng 11/1999, UBND
huyện N tổ chức hiệp thương đền bù lần đầu tiên nhưng bà N không đồng ý nhận
tiền, qua nhiều lần hiệp thương không thành nên vào năm 2003, UBND huyện N
đã gửi toàn bộ số tiền đền bù của gia đình bà N vào Ngân hàng.
[2.2] Qua đơn khiếu nại ngày 05/09/2005 của bà N về việc tăng giá bồi
thường, Chủ tịch UBND huyện N ban hành Quyết định giải quyết khiếu nại số 23.
Xét quyết định trên, căn cứ vào phần IV mục 1, mục 2 Phương án số 377, áp giá
bồi thường cho gia đình bà N là loại đất trồng cây hàng năm (đất mùa) với đơn giá
25.000 đồng/m
2
và đất trồng cây lâu năm là 65.000 đồng/m
2
là phù hợp và bác yêu
cầu của bà N về việc tăng giá đền bù diện tích 3.125m
2
là đúng quy định pháp luật.
[2.3] Không đồng ý với Quyết định số 23, bà N tiếp tục khiếu nại đến Chủ
tịch UBND Thành phố H. Thanh tra thành phố cũng đã xem xét đề xuất UBND
Thành phố có chính sách đặc thù để hỗ trợ cho các hộ dân bị ảnh hưởng bởi dự án.
Ngày 30/08/2007, UBND Thành phố có thông báo số 611/TB-VP theo đó chỉ đạo:
“Về chính sách bồi thường, hỗ trợ thiệt hại và tái định cư của dự án tạo quỹ đất đô
thị không thay đổi. Tuy nhiên sẽ có chính sách đặc thù cho dự án này là có xem xét
điều kiện chỗ ở cho người dân có đất nông nghiệp bị thu hồi giao Hội đồng thẩm
định bồi thường thành phố chủ trì, phối hợp Ủy ban nhân dân huyện N, Thanh tra
thành phố và các đơn vị liên quan xác định cụ thể số hộ có diện tích đất nông nghiệp
bị thu hồi ở dự án tạo quỹ đất đô thị cho thành phố để đề xuất cụ thể chính sách,
hỗ trợ, mức hỗ, đối tượng được hỗ trợ từ đó xác định bán căn hộ chung cư cho phù
hợp, đề xuất diện tích cần sử dụng để xây dựng chung cư và số căn hộ chung cư
cần có để giải quyết...”. Ngày 13/02/2008, UBND Thành phố có Văn bản
943/UBND-ĐTMT kết luận chỉ đạo về chính sách hỗ trợ cho các hộ dân có đất bị
thu hồi trong dự án. Căn cứ Văn bản số 943/UBND-ĐTMT ngày 13/02/2008 và
Văn bản số 5927/VP-ĐTMT ngày 24/7/2008 của UBND Thành phố, ngày
14/8/2008 UBND huyện N ban hành Quyết định số 731 về hỗ trợ bổ sung như sau:
Bà N được mua một căn hộ chung cư trên địa bàn xã P theo giá thành xây dựng,
tuy nhiên bà N tiếp tục khiếu nại đòi bồi thường theo đơn giá thị trường.
[2.4] Ngày 01/9/2009, Chủ tịch UBND huyện N ban hành Quyết định số
30 với nội dung giữ nguyên Quyết định 731. Bà N tiếp tục khiếu nại theo đơn lập
ngày 25/02/2019, theo đó bà yêu cầu được bồi thường theo đơn giá loại đất mùa
diện tích 2.325m
2
với đơn giá 15.000.000 đồng/m
2
phần đất gò 800m
2
theo đơn
giá 100.000.000 đồng/m
2
và cho rằng không biết khi nào nhận căn hộ và vị trí ở
đâu nên chỉ yêu cầu tăng giá bồi thường; Căn cứ khoản 1, khoản 2 Mục IV Phương
án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư số 377: “Đối với đất trồng cây hàng năm mức
đền bù là 25.000 đồng/m
2
, Đối với đất trồng cây lâu năm mức đền bù là 65.000
đồng/m
2
” và vào năm 2010 UBND Thành phố vẫn giữ nguyên đơn giá bồi thường
đất nông nghiệp và chính sách hỗ trợ mua nhà chung cư đối với các hộ dân bị ảnh
hưởng bởi dự án theo Thông báo số 273/TB-VP ngày 14/5/2010. Như vậy, việc
UBND huyện N ban hành Quyết định số 731 hỗ trợ bổ sung cho bà N là đúng quy
định pháp luật.
9
[2.5] Từ những nhận định trên, việc Chủ tịch UBND huyện N ban hành
Quyết định số 30 về xem xét đơn khiếu nại của bà N khiếu nại Quyết định số 731
về hỗ trợ bổ sung và có nội dung bổ sung cho Quyết định số 23 về giải quyết đơn
khiếu nại của bà N đã được ban hành đúng quy định pháp luật.
[2.6] Từ cơ sở ban hành Quyết định số 23, việc Chủ tịch UBND Thành phố
H ban hành Quyết định số 4834 giải quyết khiếu nại của bà N đối với Quyết định
số 23 là đúng quy định pháp luật. Tại thời điểm ban hành Quyết định số 4834 thì
Quyết định số 731 đã được ban hành, theo đó đã bồi thường, hỗ trợ bổ sung cho
bà N. Bà N cho rằng không biết vị trí căn hộ, giá mua nên không đồng ý việc hỗ
trợ bổ sung và cũng đã thực hiện quyền khiếu nại đòi tăng giá bồi thường nhưng
không cung cấp chứng cứ chứng minh cho đơn giá yêu cầu là có căn cứ và không
cung cấp được các tài liệu, chứng cứ gì mới nên việc Chủ tịch UBND Thành phố
H bác khiếu nại của bà N là có căn cứ.
[2.7] Căn cứ quy định tại khoản 4 Điều 39 Nghị định số 69/NĐ-CP ngày
13/8/2009 của Chính phủ thì đối với những dự án hạng mục đã phê duyệt phương
án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư hoặc đang thực hiện chi trả bồi thường hỗ trợ,
hỗ trợ và tái định cư theo phương án đã được phê duyệt trước khi Nghị định này
có hiệu lực thi hành thì thực hiện theo phương án đã duyệt, không áp dụng hoặc
điều chỉnh theo quy định nghị định này.
Trường hợp bị thu hồi đất của gia đình bà N không thuộc trường phải ra
quyết định thu hồi riêng lẻ và cũng không thuộc trường hợp bồi thường chậm của
cơ quan nhà nước nên không thuộc trường hợp xem xét theo quy định tại điểm a
khoản 2 Điều 9 Nghị định số 197/2004/NĐ-CP. Nhà nước đã thực hiện việc bồi
thường cho gia đình bà N từ năm 2002 do bà N không nhận tiền đền bù nên UBND
huyện N đã gửi toàn bộ số tiền đền bù vào ngân hàng. Căn cứ bảng giá đất do
UBND thành phố phê duyệt thì từ khi lập phương án đến khi có quyết định thu
hồi vào năm 2002 thì giá đất không thay đổi. Điều này thể hiện qua nội dung Văn
bản số 943/UBND-ĐTMT ngày 13/02/2008 UBND Thành phố. Quyết định số
731 được ban hành do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét, hỗ trợ bổ
sung cho những người dân bị ảnh hưởng bởi dự án, không thuộc trường hợp dự
án đang thực hiện.
[2.8] Từ những nhận định trên, căn cứ điểm a khoản 2 Điều 193 Luật Tố
tụng hành chính năm 2015, Tòa sơ thẩm bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà
Phạm Thị N về yêu cầu hủy Quyết định số 23, Quyết định số 731, Quyết định số
30, Quyết định số 4834 và buộc UBND huyện N ban hành quyết định thu hồi đất
và bồi thường về đất theo đúng giá đất thị trường là có căn cứ, đúng pháp luật. Tại
cấp phúc thẩm, không có căn cứ nào mới làm thay đổi nội dung vụ án, nên Hội
đồng xét xử thống nhất theo đề nghị của đại diện Viện kiểm sát; không chấp nhận
đề nghị của các Luật sư; bác kháng cáo của bà Phạm Thị N, giữ nguyên án sơ
thẩm.
[3] Về án phí hành chính phúc thẩm: Bà Phạm Thị N là người cao tuổi, có
đơn xin miễn nộp án phí nên căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy
10
định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án,
miễn án phí hành chính phúc thẩm cho bà N.
[4] Quyết định khác của bản án sơ thẩm về án phí không có kháng cáo,
kháng nghị có hiệu lực thi hành kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 241, Điều 3, khoản 1 Điều 30, khoản 3 và khoản 4
Điều 32, điểm a khoản 2 Điều 116, khoản 1 Điều 158, điểm a khoản 2 Điều 193,
Điều 206 Luật Tố tụng hành chính năm 2015; Điều 39, Điều 42, Điều 43 Luật Đất
đai năm 2003; Điều 11, Điều 18 Luật Khiếu nại năm 2011; Điều 30, Điều 31,
khoản 4 Điều 39 Nghị định số 69/NĐ-CP ngày 13/8/2009 của Chính phủ; điểm đ
khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy
ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và
sử dụng án phí và lệ phí Tòa án,
Tuyên xử:
1. Bác kháng cáo của bà Phạm Thị N, giữ nguyên Bản án hành chính sơ
thẩm số 2451/2023/HC-ST ngày 15 tháng 11 năm 2023 của Tòa án nhân dân
Thành phố Hồ Chí Minh.
2. Bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Phạm Thị N về việc yêu cầu hủy:
Quyết định số 23/QĐ-UBND ngày 03/4/2006 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân
huyện N; Quyết định số 731/QĐ-UBND ngày 14/8/2008 của Ủy ban nhân dân
huyện N; Quyết định số 30/QĐ-UBND ngày 01/9/2009 của Chủ tịch Ủy ban nhân
dân huyện N; Quyết định số 4834/QĐ-UBND ngày 12/11/2019 của Chủ tịch Ủy
ban nhân dân Thành phố H và buộc Ủy ban nhân dân huyện N ban hành quyết
định thu hồi đất và bồi thường về đất theo giá đất thị trường cho gia đình bà Phạm
Thị N theo quy định pháp luật.
3. Về án phí hành chính phúc thẩm: Miễn án phí hành chính phúc thẩm cho
bà Phạm Thị N.
4. Quyết định khác của bản án sơ thẩm về án phí không có kháng cáo, kháng
nghị có hiệu lực thi hành kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
5. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- Tòa án nhân dân tối cao;
- VKSNDCC tại TP. Hồ Chí Minh;
- TAND Thành phố Hồ Chí Minh;
- VKSND Thành phố Hồ Chí Minh;
- Cục THADS Thành phố Hồ Chí Minh;
- Các đương sự;
- Lưu VT (5), HS (2), 20b, (TK-PH).
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Nguyễn Văn Tửu
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 24/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 21/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 17/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 17/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 17/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Bản án số 256/2025/DS-PT ngày 17/04/2025 của TAND tỉnh Tiền Giang về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Ban hành: 17/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Bản án số 168/2025/DS-PT ngày 17/04/2025 của TAND tỉnh Cà Mau về tranh chấp về hụi, họ, biêu, phường
Ban hành: 17/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 16/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 16/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 16/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 16/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 15/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 14/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 14/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 14/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 14/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 11/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 11/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 11/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
20
Ban hành: 10/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm