Bản án số 340/2024/DS-ST ngày 30/09/2024 của TAND TP. Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk về tranh chấp về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 340/2024/DS-ST

Tên Bản án: Bản án số 340/2024/DS-ST ngày 30/09/2024 của TAND TP. Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk về tranh chấp về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND TP. Buôn Ma Thuột (TAND tỉnh Đắk Lắk)
Số hiệu: 340/2024/DS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 30/09/2024
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Bà Nguyễn Thị H kiện đòi bà Nguyễn Thị T
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TP. BUÔN MA THUỘT
TỈNH ĐẮK LẮK
Bản án số: 340/2024/DS-ST
Ngày: 30/9/2024.
V/v tranh chấp kiện đòi tài sản.
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập- Tự do- Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BUÔN MA THUỘT, TỈNH ĐẮK LẮK
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Thanh
Các Hội thẩm nhân dân: Bà Nguyễn Thị Bình và bà Nguyễn Thị Bạn.
- Thư ký phiên tòa:
Bà Phạm Thị Thùy Linh – Thư ký Tòa án nhân dân thành
phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk.
-
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk
Lắk tham gia phiên tòa
: Bà Nguyễn Thị Diệu Linh – Chức vụ: Kiểm sát viên.
Ngày 27 ngày 30 tháng 9 năm 2024 tại trụ sTòa án nhân dân thành
phố Buôn Ma Thuột xét xử thẩm vụ án dân sự thụ số:
383/2024/TLST-DS
ngày 17/5/2024 về việc: “Tranh chấp kiện đòi tài sảntheo Quyết định đưa vụ án
ra xét xử số: 282
/
2024/QĐXXST-DS ngày 27/8/2024 Quyết định hoãn phiên
tòa số: 412/2024/QĐST-DS ngày 12/9/2024, giữa các đương sự:
1.Nguyên đơn:
Nguyễn Thị H, sinh năm: 1970; Địa chỉ: T3, N, huyện
Đ, tỉnh Đắk Nông, mặt.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Phương Ngọc D, sinh năm: 1982; Địa chỉ:
Số 19 đường Q, phường N, thành phố G, tỉnh Đắk Nông, có mặt.
2. Bị đơn:
Nguyễn Thị T, sinh năm: 1967; Địa chỉ: 59/10 đường H,
phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk, mặt.
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
Ông Trương Công K, sinh năm: 1965; Địa chỉ: T3, N, huyện Đ, tỉnh Đắk
Nông, vắng mặt.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Phương Ngọc D, sinh năm: 1982; Địa chỉ:
Số 19 đường Q, phường N, thành phố G, tỉnh Đắk Nông, có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
1. Theo đơn khởi kiện quá trình tham gia tố tụng tại phiên tòa, ông
Phương Ngọc D người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn bà Nguyễn Th
H và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Trương Công K trình bày:
2
Vợ chồng Nguyễn Thị H, ông Trương Công K bà Nguyễn Thị T bạn
đồng thời bạn hàng. Trong quá trình làm ăn, vào ngày 17/5/2003 bà T vay
của bà H 13.312,5kg pnhân đủ độ, hẹn cuối năm 2003 trả đủ. Tuy nhiên
từ đó đến nay, bà H đã nhiều lần yêu cầu bà T trả số cà phê trên nhưng bà T không
trả như cam kết.
Nay bà H khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết: Buộc bà Nguyễn Thị T trả cho
Nguyễn Thị H 13.312,5 kg phê nhân đủ độ, tạm tính giá trị của số lượng
cà phê trên là 1.300.000.000 đồng.
Đối với ý kiến của bà T cho rằng đã trả đủ số cà phê cho nguyên đơn theo nội
dung 5 giấy chuyển tiền thì phía nguyên đơn không thừa nhận, số tiền này T trả
cho khoản nợ khác của bà H, ông K.
Đối với 05 giấy nộp tiền bị đơn cung cấp thì H không đồng ý trong
các giấy chuyển tiền này không nội dung trả tiền cho khoản vay phê liên
quan đến khoản 13.312,5kg cà phê R2 của bà H và không đồng ý cách quy đổi của
bị đơn ttiền bằng giá trị phê tại thời điểm đó bản chất thỏa thuận giữa hai
bên là trả bằng cà phê.
Theo bản tự khai của bị đơn cho rằng 01 chiếc điện thoại trị giá là 25.000.000
đồng, thì nguyên đơn không đồng ý tại thời điểm đó không điện thoại nào trị
giá 25.000.000 đồng. Nguyên đơn chỉ đồng ý với bị đơn về số tiền bao 700 cái bao
x 7.700 đồng/cái = 5.390.000 đồng.
Theo nguyên đơn giá trị điện thoại tại thời điểm năm 2003 trị giá là 3.800.000
đồng (ba triệu tám trăm nghìn đồng).
Nguyên đơn yêu cầu bị đơn trả 13.312,5 kg phê nhân đủ độ quy ra giá
trị bằng tiền tại thời điểm xét xử.
Tại phiên tòa nguyên đơn người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn
chấp nhận 04 giấy chuyển tiền của bị đơn bà Nguyễn Thị T cụ thể:
Giấy chuyển tiền ngày 15/01/2004 trả 10.000.000 đồng
Giấy chuyển tiền ngày 02/02/2005 trả 10.000.000 đồng
Giấy chuyển tiền ngày 25/01/2006 trả 17.000.000 đồng
Giấy chuyển tiền ngày 05/02/2008 trả 15.000.000 đồng chấp nhận giá
phê quy ra tại thời điểm bị đơn chuyển tiền theo như bị đơn T trình bày trong
bản tự khai tại Tòa án.
2. Quá trình tham gia tố tụng bđơn Nguyễn Thị T trình bày:
và ông
Trương Công K trước đây bạn học. Ngày 17/5/2003 thì viết giấy
nhận nợ vợ chồng ông K, bà H số lượng 13.312,5kg cà phê R2 thành phẩm. Chúng
tôi còn thống nhất số bao ông K nợ 700 bao x 7.700đồng/cái = 5.390.000
đồng số tiền chiếc điện thoại Iphone 25.000.000 đồng, tổng số tiền ông K nợ
là 30.390.000 đồng. Sau đó, đã nhiều lần thanh toán tiền cà phê cho ông K
H, cụ thể như sau:
3
- Ngày 15/01/2004 trả 10.000.000 đồng vào tài khoản của ông Trương
Công K tại Ngân hàng N Chi nhánh tỉnh Đắk Nông. Như vậy, tính đến ngày
15/01/2004 đã trả cho ông K H tổng số tiền 30.390.000 đồng + 10.000.000
đồng = 40.390.000 đồng x giá cà phê tại thời điểm này là 8.850 đồng/kg tương ứng
đã trả 4.563,8 kg cà phê;
- Ngày 02/02/2005 trả 10.000.000 đồng vào tài khoản của ông Trương
Công K tại Ngân hàng N– Chi nhánh tỉnh Đắk Nông, giá phê tại thời điểm này
là 10.700 đồng/kg = 934,6 kg cà phê;
- Ngày 25/01/2006 trả 17.000.000 đồng vào tài khoản của ông Trương Công
K tại Ngân hàng TMCP Đ - tỉnh Đắk Nông, giá phê tại thời điểm này 21.500
đồng/kg = 790,7 kg cà phê;
- Ngày 05/02/2008 trả 15.000.000 đồng vào tài khoản của ông Trương Công
K tại Ngân hàng TMCP Đ - tỉnh Đắk Nông, giá phê tại thời điểm này 37.000
đồng/kg = 697,7 kg cà phê;
- Ngày 07/8/2012 hai bên thống nhất giá cả số lượng thu nợ của khó
khăn sau 4 lần cố gắng gom trả nợ nên đã trả được 178.520.000 đồng vào tài
khoản của bà Nguyễn Thị H tại Ngân hàng TMCP Đ - tỉnh Đắk Nông.
Như vậy đã thanh toán xong hết khoản nợ cho vợ chồng ông K, H
nhưng do chủ quan tin tưởng bạn nên đã không yêu cầu ông K, H hủy
bỏ giấy nhận nợ mà đã viết. Từ đó đến nay hai bên không phát sinh quan hệ
mua bán gì cho đến nay.
Nay nguyên đơn H lấy giấy nhận nợ để khởi kiện yêu cầu tòa án giải
quyết buộc trả cho Nguyễn Thị H 13.312,5 kg phê nhân đủ độ thì
không đồng ý đã thanh toán xong nợ. Hiện nay không nợ ông K, H số
cà phê nào.
xác định các lần chuyển tiền để trả nợ cho ông K là món nợ phê ngoài
ra không còn món nợ nào khác.
Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân Tp. B phát biểu như sau:
-Về tố tụng: Quá trình điều tra, thu thập chứng cứ của vụ án từ khi thụ đến
khi quyết định đưa ván ra xét xử, Thẩm phán đã giải quyết đúng trình tự của
Bộ luật tố tụng dân sự, tại phiên tòa HĐXX đương sự đã chấp hành tốt các quy
định của pháp luật.
-Về nội dung: Căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và lời trình bày của
các đương sự tại phiên tòa xét thấy:
Nguyên đơn Nguyễn Thị H khởi kiện yêu cầu bị đơn Nguyễn Thị T trả
cho nguyên đơn bà H 13.312,5 kg cà phê nhân xô đủ độ. Quá trình giải quyết vụ án
bị đơn bà T đã cung cấp 05 giấy chuyển tiền cho nguyên đơn để khấu trừ vào số cà
phê đã nợ. Tại phiên tòa nguyên đơn thừa nhận 04 giấy chuyển tiền ngày
15/01/2004 chuyển 10.000.000 đồng, ngày 02/02/2005 chuyển 10.000.000 đồng,
4
ngày 25/01/2006 chuyển 17.000.000 đồng, ngày 05/02/2008 chuyển 15.000.000
đồng và 700 cái bao x 7.700 đồng/cái = 5.390.000 đồng.
Nguyên đơn không thừa nhận khoản tiền 178.520.000 đồng chuyển vào ngày
07/8/2012 cái điện thoại trị giá 25.000.000 đồng. Nguyên đơn đề nghị HĐXX
khấu trừ số tiền đã trả quy ra phê tại thời điểm chuyển tiền còn lại yêu cầu b
đơn trả cho nguyên đơn bà H số cà phê còn lại.
Xét thấy: Đối với 04 giấy trả tiền của bđơn và 700 cái bao x 7.700 đồng/cái
= 5.390.000 đồng nguyên đơn thừa nhận nên cần chấp nhận khấu trừ cho bị đơn.
Đối với điện thoại bị đơn cho rằng trị g25.000.000 đồng, nhưng không được bị
đơn đồng ý bị đơn cũng không chứng cứ chứng minh tại thời điểm đó điện
thoại trị giá 25.000.000 đồng. Nguyên đơn đồng ý tại thời điểm đó giá trị chiếc
điện thoại 3.800.000 đồng nên cần chấp nhận lời trình bày của nguyên đơn.
Đối với giấy nộp tiền ngày 07/8/2012, T cho rằng đã trả cho H được
178.520.000 đồng vào tài khoản của Nguyễn Thị H tại Ngân hàng TMCP Đ -
tỉnh Đắk Nông. Tuy nhiên tại phiên tòa nguyên đơn xác nhận không nhận số tiền
trên số tài khoản thụ hưởng cũng không phải của nguyên đơn. Xét thấy căn cứ
vào các tài liệu do các bên cung cấp quan thẩm quyền cung cấp thì
nguyên đơn H không nhận khoản tiền 178.520.000 đồng do T chuyển trả,
mặt khác bà T cũng không có chứng cứ gì chứng minh mình chuyển tiền cho bà H,
vì vậy không có căn cứ để chấp nhận khoản tiền này.
Tại phiên tòa nguyên đơn chấp nhận gphê nhân tại thời điểm bđơn
trả tiền quy ra cà phê. vậy sau khi khấu trừ số tiền chuyển trả quy ra phê còn
lại cần buộc bị đơn bà T nghĩa vụ trả cho nguyên đơn có căn cứ, phù hợp với
các chứng cứ mà các bên cung cấp. Vì vậy đề nghị Hội đồng xét xử tuyên xử:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Nguyễn Thị H buộc bị đơn
bà Nguyễn Thị T trả cho nguyên đơn bà Nguyễn Thị H 9.013,4 kg
cà phê nhân xô.
Đương sự phải chịu án pvà các chi phí tố tụng khác theo quy định của pháp
luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
1. Về thẩm quyền quan hệ tranh chấp: Quan htranh chấp giữa nguyên
đơn Nguyễn Thị H với bị đơn Nguyễn Thị T tranh chấp kiện đòi tài sản,
được quy định tại khoản 2 Điều 26 của Bộ luật tố tụng dân snên thuộc thẩm
quyền giải quyết của Toà án. Bị đơn có nơi cư trú tại thành phố B nên Tòa án nhân
dân thành phố B, tỉnh Đắk Lắk thụ lý giải quyết là phù hợp với quy định tại điểm a
khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.
2. Về nội dung:
2.1. Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn H, Hội đồng xét xử thấy
rằng:
Ngày 17/5/2003 Nguyễn Thị H cho Nguyễn Thị T vay 13.312, 5kg
phê nhân đủ độ, hẹn cuối năm 2003 trả đủ. Tuy nhiên, H cho rằng T
5
chưa trả số phê trên nên đã khởi kiện yêu cầu T phải trả cho 13.312,5 kg
phê nhân đủ độ quy ra giá trị bằng tiền tại thời điểm xét xử. Quá trình giải
quyết vụ án, bị đơn Nguyễn Thị T thừa nhận vay H số phê trên. Tuy
nhiên đã trả xong số phê trên cung cấp các giấy nộp tiền. Tại phiên tòa
nguyên đơn thừa nhận 04 giấy trả tiền của bị đơn T đề nghị Hội đồng xét xử
khấu trừ số tiền đã trả quy ra cà phê tại thời điểm trả tiền còn lại yêu cầu bị đơn trả
cho nguyên đơn số còn lại. Hội đồng xét xử xét thấy:
2.2. Xét các tài liệu, chứng cứ là giấy nộp tiền do bị đơn cung cấp và tại phiên
tòa nguyên đơn thừa nhận 04 giấy chuyển tiền của bị đơn cụ thể:
2.2.1. Đối với giấy nộp tiền ngày 15/01/2004, H trả 10.000.000 đồng vào
tài khoản của ông Trương Công K tại Ngân hàng N Chi nhánh tỉnh Đắk Nông.
Tại phiên tòa nguyên đơn đồng ý giá phê theo bản tự khai của bị đơn bà T đã
trình bày trong hồ sơ vụ án, do đó cần chấp nhận giá phê theo ý kiến của bị đơn
đưa ra là 8.850 đồng/kg là phù hợp.
Tại thời điểm giấy nhận nợ ngày 17/5/2003, các bên thống nhất ông K,
H còn nợ T 700 cái bao x 7.700đồng/cái = 5.390.000 đồng. Số tiền này được
các bên thống nhất nên cần chấp nhận. Đối với chiếc điện thoại bị đơn cho rằng có
giá trị 25.000.000 đồng nhưng không có tài liệu, chứng cứ gì chứng minh và không
được nguyên đơn thừa nhận, nên cần chấp nhận theo ý kiến của nguyên đơn, chiếc
điện thoại có giá trị thành tiền là 3.800.000 là phù hợp.
Như vậy, số tiền bị đơn đã trả cho nguyên đơn tính đến ngày 15/01/2004
19.190.000 đồng, quy ra số cà phê là 2.168,4kg.
2.2.2. Đối với giấy nộp tiền ngày 02/02/2005, H trả 10.000.000 đồng vào
tài khoản của ông Trương ng K tại Ngân hàng N Chi nhánh tỉnh Đắk Nông.
Tại phiên tòa nguyên đơn đồng ý giá phê theo bản tự khai của bị đơn bà T đã
trình bày trong hồ sơ vụ án, do đó cần chấp nhận giá phê theo ý kiến của bị đơn
đưa ra là 10.700 đồng/kg là phù hợp, quy ra số cà phê đã trả là 934,6kg.
2.2.3. Đối với giấy nộp tiền ngày 25/01/2006, H trả 17.000.000 đồng vào
tài khoản của ông Trương Công K tại Ngân hàng TMCP Đ - tỉnh Đắk Nông. Tại
phiên tòa nguyên đơn đồng ý giá phê theo bản tkhai của bđơn T đã trình
bày trong hồ vụ án, do đó cần chấp nhận giá phê theo ý kiến của bị đơn đưa
ra là 21.500 đồng/kg, quy ra số cà phê đã trả là 790,7kg.
2.2.4. Đối với giấy nộp tiền ngày 05/02/2008, H trả 15.000.000 đồng vào
tài khoản của ông Trương Công K tại Ngân hàng TMCP Đ - tỉnh Đắk Nông. Tại
phiên tòa nguyên đơn đồng ý giá phê theo bản tkhai của bđơn T đã trình
bày trong hồ sơ vụ án, do đó cần chấp nhận giá phê theo ý kiến của bị đơn đưa
ra là 37.000 đồng/kg, quy ra số cà phê đã trả là 405,4kg.
2.2.5. Đối với giấy nộp tiền ngày 07/8/2012, T cho rằng đã trả cho H
được 178.520.000 đồng vào tài khoản của Nguyễn Thị H tại Ngân hàng TMCP
Đ - tỉnh Đắk Nông. Bị đơn cho rằng các bên thống nhất chốt nợ nhưng không được
nguyên đơn thừa nhận. Vì nguyên đơn xác nhận số tài khoản thụ hưởng trên không
6
phải số tài khoản của nguyên đơn và nguyên đơn cũng không nhận số tiền trên. Tại
công văn số 1391 ngày 24/9/2024 Công văn bổ sung số 1417 ngày 27/9/2024
của Ngân hàng TMCP Đ Chi nhánh Đắk Nông thể hiện người thụ hưởng không
phải nguyên đơn Nguyễn Thị H, sinh năm 1970, lời trình bày của bị đơn cũng
không cung cấp tài liệu chứng cứ chứng minh sự thống nhất chốt nợ khoản
tiền này bà H cũng không nhận nên không có căn cứ để chấp nhận.
3. Như vậy, tổng 04 lần bị đơn trả tiền, quy ra số cà phêbị đơn T đã trả
cho H 2.168,4kg + 934,6kg + 790,7kg + 405,4kg = 4.299,1kg, nên số còn lại
9.013,4 kg pchưa trả. Căn cứ Điều 256 Bộ luật dân snăm 2005 thì H
quyền yêu cầu T phải trả lại cho H số phê chưa trả trên. Do đó, cần
chấp nhận yêu cầu khởi kiện của H, buộc T phải nghĩa vụ trả cho bà H số
phê 9.013,4 kg phê nhân xô, quy thành tiền tại thời điểm xét xử là 9.013,4
kg x 122.000 đồng/kg = 1.099.634.800 đồng là phù hợp nên cần chấp nhận.
4. Về án phí dân sự sơ thẩm:
Bị đơn bà Nguyễn Thị T phải chịu án phí dân sự thẩm đối với phần yêu
cầu khởi kiện của nguyên đơn được Tòa án chấp nhận theo mức tính: 36.000.000
đồng + 3% (1.099.634.800 đồng - 800.000.000 đồng) = 44.989.000 đồng (làm
tròn)
Nguyên đơn Nguyễn Thị H không phải chịu án phí dân sự thẩm nên
được nhận lại số tiền 25.500.000 đồng tạm ứng án phí do ông Phương Ngọc D nộp
thay theo biên lai thu sAA/2023/0009998 ngày 06/5/2024 tại Chi cục Thi hành
án dân sự thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.
Vì các lẽ trên:
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào khoản 2 Điều 26, Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147,
Điều 227, Điều 228, Điều 271, Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 256 của Bộ
luật dân sự năm 2005; Khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự 2015; Khoản 4 Điều
26, khoản 1 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy
ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, min, giảm, thu, nộp, quản l s
dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị H.
Buộc bị đơn bà Nguyễn Thị T phải trả cho bà Nguyễn Thị H là 9.013,4 kg
phê nhân xô, quy thành tiền tại thời điểm xét xử 1.099.634.800 đồng.
Kể tngày đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án đối với
khoản tiền phải trả cho người được thi hành án cho đến khi thi hành xong, bên
phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền phải thi hành án theo mức
lãi suất tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015.
2. Về án phí dân sự sơ thẩm:
7
Bị đơn bà Nguyễn Thị T phải chịu 44.989.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm đối
với phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được Tòa án chấp nhận.
Nguyên đơn Nguyễn Thị H không phải chịu án phí dân sự thẩm được
nhận lại số tiền 25.500.000 đồng tạm ứng án phí do ông Phương Ngọc D nộp thay
theo biên lai thu số AA/2023/0009998 ngày 06/5/2024 tại Chi cục Thi hành án dân
sự thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.
Đương sự vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn
15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hợp lệ.
Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2
Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án
dân sự quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi
hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9
Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại
Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Nơi nhận:
-
Phòng KTNV&THATAND tỉnh Đắk Lắk
;
- VKSND tỉnh Đắk Lắk;
- VKSND Tp. B;
- Chi cục THADS Tp.B;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Đã ký
Nguyễn Thị Thanh
8
Tải về
Bản án số 340/2024/DS-ST Bản án số 340/2024/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 340/2024/DS-ST Bản án số 340/2024/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất