Bản án số 29/2024/HNGĐ-PT ngày 30/08/2024 của TAND tỉnh Bến Tre về tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 29/2024/HNGĐ-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 29/2024/HNGĐ-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 29/2024/HNGĐ-PT
Tên Bản án: | Bản án số 29/2024/HNGĐ-PT ngày 30/08/2024 của TAND tỉnh Bến Tre về tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Bến Tre |
Số hiệu: | 29/2024/HNGĐ-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 30/08/2024 |
Lĩnh vực: | Hôn nhân gia đình |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Không chấp nhận kháng cáo của ông Trần Văn T |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
1
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẾN TRE
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa:
Ông Phạm Văn Ngọt
Các Thẩm phán:
Ông Nguyễn Hữu Lương
Bà Phạm Thị Thu Trang
- Thư ký phiên tòa: Bà Lê Thị Thu Hiền – Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh
Bến Tre.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bến Tre tham gia phiên tòa: Bà
Trần Thị Kim Ngân– Kiểm sát viên.
Ngày 30 tháng 8 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre xét
xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 20/2024/TLPT-HNGĐ ngày 19 tháng 7
năm 2024 về việc “Chia tài sản sau khi ly hôn, tranh chấp nghĩa vụ tài sản của
vợ chồng sau khi ly hôn” do Bản án hôn nhân và gia đình sơ thẩm số
91/2024/HNGĐ-ST ngày 06 tháng 6 năm 2024 của Tòa án nhân dân huyện
Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 2788/2024/QĐPT-
HNGĐ ngày 02 tháng 8 năm 2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre giữa các
đương sự:
- Nguyên đơn: bà Lê Thị A, sinh năm 1963. (có mặt)
Địa chỉ: ấp G (Ấp G), xã T, huyện G, tỉnh Bến Tre.
- Bị đơn: ông Trần Văn T, sinh năm 1951.
Địa chỉ: ấp G (Ấp G), xã T, huyện G, tỉnh Bến Tre.
Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn:Bà Trần Thị T1, sinh năm 1989.
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH BẾN TRE
Bản án số: 29/2024/HNGĐ-PT
Ngày: 30 – 8 – 2024
Về việc chia tài sản sau khi ly
hôn, tranh chấp nghĩa vụ tài sản
của vợ chồng sau khi ly hôn
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
2
Địa chỉ: ấp G (Ấp G), xã T, huyện G, tỉnh Bến Tre. (theo văn bản ủy quyền
ngày 27/6/2024, có mặt)
Người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của bị đơn: Luật sư Phan Thị Hồng
H - Văn phòng L thuộc Đoàn Luật sư tỉnh B.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:Bà Trần Thị T1, sinh năm
1989.Địa chỉ: ấp G (Ấp G), xã T, huyện G, tỉnh Bến Tre.(có mặt)
- Người kháng cáo: Bị đơn ông Trần Văn T.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo bản án sơ thẩm:
Trong đơn khởi kiện, văn bản trình bày ý kiến, biên bản hòa giải, nguyên
đơn là bà Lê Thị A trình bày:
Bà và ông Trần Văn T đã ly hôn theo Quyết đinh số
22/2022/QĐCNTTLH ngày 11/5/2022 của Tòa án nhân dân huyện Giồng Trôm.
Trong quá trình giải quyết việc ly hôn, do bà và ông T muốn tự thỏa thuận về
việc phân chia tài sản chung nên ông bà không yêu cầu Tòa án giải quyết về tài
sản chung. Tuy nhiên, sau khi ly hôn, ông bà vẫn chưa thỏa thuận được việc
phân chia tài sản chung nên bà khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết.
Bà và ông T có tạo lập được một số tài sản chung cụ thể như sau:
- Thửa đất số 167, tờ bản đồ số 10, diện tích 2912,6m
2
(qua đo đạc là
2910,5m
2
), mục đích sử dụng đất là cây lâu năm, tại ấp G, xã T, huyện G, tỉnh
Bến Tre do Ủy ban nhân dân huyện G cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
cho hộ ông Trần Văn T, bà Lê Thị A vào ngày 31/01/2013. Nguồn gốc đất do
cha của ông T cho bà và ông T vào năm 1984, diện tích đất khoảng 2000m
2
(các
thửa đất số 167a, 167d, 167e), phần diện tích đất còn lại (các thửa đất số 167c,
167b) là do bà và ông T nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất trong thời kỳ
hôn nhân nhưng bà không nhớ thời gian nhận chuyển nhượng là khi nào.
- Thửa đất số 161, tờ bản đồ số 10, diện tích 998m
2
mục đích sử dụng đất
là cây lâu năm, tại ấp G, xã T, huyện G, tỉnh Bến Tre do Ủy ban nhân dân huyện
G cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ ông Trần Văn T, bà Lê Thị A
vào ngày 31/01/2013. Nguồn gốc đất do cha của ông T cho bà và ông T vào năm
1984. Trong quá trình canh tác bà và ông T có mua thêm 01 phần đất liền kề
nhưng do diện tích đất nhỏ nên bà không nhớ diện tích cụ thể là bao nhiêu.
- 01 căn nhà cấp 4, có diện tích khoảng 100m
2
(nền lót gạch men, vách
tường, mái lợp tole, cột bê tông), xây vào năm 2008 thuộc thửa đất số 167, tờ
bản đồ số 10 nêu trên.
Thời điểm cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, hộ ông T gồm ông T,
bà, ông Trần Văn Đ (hiện đã chết), bà Trần Thị T1. Thửa đất số 167 và thửa đất
số 161 trước đây là 01 thửa, do làm lộ nên tách ra làm 02 phần.
3
Bà yêu cầu Tòa án giải quyết chia tài sản chung như sau:
1. Về đất:
- Đối với thửa đất số 167, tờ bản đồ số 10, bà yêu cầu được nhận phần đất
theo kết quả đo đạc thực tế là thuộc các thửa đất số 167c, 167d, 167e; ông T
được nhận các thửa đất số 167a, 167b. Tài sản thuộc phần đất của người nào thì
người đó có quyền chiếm hữu.
- Đối với thửa đất số 161, tờ bản đồ số 10, bà yêu cầu được nhận phần đất
theo kết quả đo đạc thực tế là thuộc thửa đất số 161b; ông T được nhận thửa đất
số 161a. Tài sản thuộc phần đất của người nào thì người đó có quyền chiếm hữu.
2. Về nhà: bà yêu cầu chia đôi nhà. Ông T tiếp tục quản lý, sử dụng nhà
và trả lại cho bà ½ giá trị nhà. Đối với giá trị công trình nhà tắm (nhà vệ sinh) là
không lớn nên bà đồng ý để ông T quản lý, sử dụng mà không yêu cầu chia.
Trên thửa đất số 161a có căn nhà, chuồng trại của bà T1, ông T và bà T1
tự thỏa thuận với nhau.
Về nợ chung, trong thời kỳ hôn nhân, bà và ông T có nợ tiền mua thức ăn
chăn nuôi của ông T2 là 36.610.000 đồng (ba mươi sáu triệu sáu trăm mười
nghìn đồng) và nợ tiền mua thức ăn chăn nuôi của ông B là 42.000.000 đồng
(bốn mươi hai triệu đồng). Thời gian bắt đầu và chấm dứt hợp đồng mua bán với
ông T2 và ông B thì bà không nhớ chính xác nhưng việc mua bán này trong thời
kỳ hôn nhân của bà và ông T. Việc hợp đồng mua bán thức ăn là do bà tự hợp
đồng với ông T2 và ông B nhưng khi đó ông T biết. Tiền thu nhập từ việc chăn
nuôi bà dùng để xây cất nhà và đưa cho ông T mua bò. Do đó đây là nợ chung
của bà và ông T nên bà yêu cầu chia đôi nợ chung. Bà và ông T, mỗi người phải
có nghĩa vụ trả nợ cho ông T2 là 18.305.000 đồng (mười tám triệu ba trăm lẻ
năm nghìn đồng) và trả nợ cho ông B là 21.000.000 đồng (hai mươi mốt triệu
đồng). Từ khi bà và ông T chung sống với nhau, việc ai nấy làm, tiền ai nấy giữ,
không xài tiền chung.
Đối với yêu cầu phản tố của ông T yêu cầu chia đôi số vàng, bà có ý kiến
như sau: bà có dùng 05 chỉ vàng 24k (vàng nhẫn) là tài sản chung của vợ chồng
để đi làm răng. Việc người đại diện theo ủy quyền của ông T trình bày bà và ông
T có thêm 22 chỉ vàng khác là không đúng. Bà không có đưa vàng cho con riêng
của bà, vàng đó là bà giữ giùm của người con riêng này và bà cũng đã trả vàng
lại cho người này với số vàng là 12 chỉ vàng 24k (vàng nhẫn trơn). Về số tiền
hụi, trong thời kỳ hôn nhân với ông T, bà có chơi hụi của bà T3 (cùng ấp) và hốt
hụi cách đây 03 năm được số tiền 36.000.000 đồng (ba mươi sáu triệu đồng).
Tiền đóng hụi là tiền bà bán dừa chung của bà và ông T và tiền bà đi làm. Khi bà
hốt hụi thì bà dùng số tiền này để trả nợ riêng của bà. Bà không đồng ý chia số
tiền hụi vì không còn. Do 05 chỉ vàng 24k bà trồng răng trong thời kỳ hôn nhân,
hiện không còn số vàng này nên không thể chia cho ông T.
Tháng 8/2018, gia đình bà T1 sống ở xã T không hạnh phúc nên bà có
4
rước bà T1 về sống trên thửa đất 161 (lúc này sửa chuồng gà để ở tạm, ở riêng
nhà của bà và ông T), ở được gần 05 tháng thì bà T1 đi. Bà T1 nói bà cho đất là
không có. Việc cho đất là ông T tự cho, bà có ngăn cản nhưng không được. Bà
T1 tự ý cất nhà vào tháng 8/2021.
Tại đơn phản tố, bản tự khai, biên bản hòa giải, bị đơn là ông Trần Văn T
và người đại diện theo ủy quyền của ông T là ông Đỗ Hiệp P và ông Nguyễn
Minh B1 trình bày:
Ông T và bà A trước đây là vợ chồng chung sống với nhau vào khoảng
năm 1983. Do mục đích hôn nhân không đạt được nên ông bà đã ly hôn vào năm
2022. Theo quyết định ly hôn, ông bà không yêu cầu Tòa án nhân dân huyện
Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre giải quyết vấn đề tài sản chung nhưng hiện nay bà A
khởi kiện yêu cầu chia tài sản chung thì ông T có ý kiến như sau:
- Thửa đất số 167, tờ bản đồ số 10 tại xã T: ông T nhận các thửa đất số
167a, 167b, 167e; bà A nhận các thửa đất số 167c, 167d. Tài sản thuộc phần đất
của người nào thì đó có quyền chiếm hữu. Các thửa đất số 167c, 167b là do ông
T và bà A cùng nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất trong thời kỳ hôn nhân.
Các thửa đất số 167a, 167d, 167e là do cha mẹ ông T (ông Trần Văn T4, bà
Nguyễn Thị K) tặng cho ông T. Ông T sử dụng phần đất này từ năm 1975, đến
năm 1982 ông T được cho luôn phần đất này.
- Thửa đất số 161, tờ bản đồ số 10 tại xã T: nguồn gốc đất do cha mẹ ông
T (ông Trần Văn T4, bà Nguyễn Thị K) tặng cho ông T trước khi ông T kết hôn
với bà A. Ông T sử dụng phần đất này từ năm 1975, đến năm 1982 ông T được
cho luôn phần đất này. Hiện bà T1 đang canh tác thửa đất này, ông T cho bà T1
canh tác thửa đất này từ tháng 8/2021. Ông T không đồng ý chia thửa đất này.
Ông T nhận thửa đất này để cho con là bà T1.
Đối với căn nhà của ông T và bà A được xây dựng trong thời kỳ hôn
nhân. Ông T đồng ý giao cho bà A ½ căn nhà nhưng giao hiện vật (tháo dỡ, di
dời), không đồng ý giao giá trị.
Tại Đơn phản tố ngày 06/9/2022 và Biên bản hòa giải ngày 06/9/2022,
ông T yêu cầu chia 30 chỉ vàng có giá trị khoảng 150.000.000 đồng (một trăm
năm mươi triệu đồng), tiền bán heo khoảng 20.000.000 đồng (hai mươi triệu
đồng) và tiền hốt hụi khoảng 40.000.000 đồng (bốn mươi triệu đồng), tổng cộng
khoảng 210.000.000 đồng (hai trăm mười triệu đồng). Ông T yêu cầu bà A giao
lại cho ông ½ số tiền này là khoảng 105.000.000 đồng (một trăm lẻ năm triệu
đồng). Tại Biên bản hòa giải ngày 29/3/2024, ông T thay đổi yêu cầu phản tố,
yêu cầu chia vàng và tiền hụi trong thời kỳ hôn nhân. Về vàng, số vàng 22 chỉ
vàng 24k mà bà A đã đưa cho con riêng của bà A cất nhà và số vàng 05 chỉ vàng
24k mà bà A đã dùng để trồng răng. Ông T yêu cầu chia đôi vàng vì số vàng này
là tài sản chung của ông bà, bà A phải giao lại cho ông T 13,5 chỉ vàng 24k. Về
tiền hụi, bà A hốt hụi được số tiền là 39.000.000 đồng (ba mươi chín triệu đồng)
và bà A giữ số tiền này, đây cũng là tài sản chung của ông bà nên ông T yêu cầu
5
chia. Bà A phải giao lại cho ông T ½ số tiền hụi này là 19.500.000 đồng (mười
chín triệu năm trăm nghìn đồng).
Về nợ, do đây là vụ án tranh chấp chia tài sản sau khi ly hôn nên đề nghị
tách nợ thành 01 vụ kiện khác. Trường hợp không tách vụ án thì ông T không
đồng ý vì việc bà A giao dịch mua bán với ông T2 và ông B, ông T không biết,
đây là nợ riêng của bà A nên ông T không đồng ý cùng bà A trả số tiền này cho
ông T2 và ông B. Trong quyết định ly hôn của Tòa án, ông T và bà A cũng trình
bày là không có nợ chung.
Tại đơn yêu cầu độc lập, văn bản trình bày ý kiến, biên bản hòa giải
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Trần Thị T1 trình bày:
Bà là con của ông T và bà A. Từ nhỏ bà sống chung với ông T và bà A.
Năm 2005, bà lấy chồng và sống bên chồng khoảng 02 năm thì về nhà cha mẹ
ruột sống.
Ông T đứng tên chủ hộ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với 02
thửa đất là thửa đất số 167, tờ bản đồ số 10, diện tích 2912,6m
2
và thửa đất số
161, tờ bản đồ số 10, diện tích 998m
2
cùng tọa lạc tại Ấp G, xã T, huyện G, tỉnh
Bến Tre. Cả 02 thửa đất này là tài sản của hộ gia đình trong đó có bà. Trong thời
gian chung sống trong hộ gia đình bà có đóng góp công sức vào 02 thửa đất nêu
trên.
Năm 2012, bà có gia đình lần 02, vợ chồng bà cất nhà trên thửa đất số
167, ở được khoàng 01 năm thì về bên chồng ở xã T (bà A đuổi đi, ông T không
đuổi). Bà sống ở xã T được gần 10 năm. Năm 2018, bà thôi chồng về cất nhà
trên thửa đất số 161. Năm 2019, bà lấy chồng và đi làm, ở trọ. Tháng 8/2021,
ông T và bà A cho bà phần đất thuộc thửa đất số 161 để cất nhà. Trên thửa đất
số 161 có nhà của bà và cây trái bà trồng.
Tại Đơn yêu cầu độc lập ngày 19/7/2022, Biên bản hòa giải ngày
06/9/2022, bà T1 yêu cầu được nhận thửa đất số 161, tờ bản đồ số 10, diện tích
đất 998m
2
, tọa lạc tại Ấp G, xã T, huyện G, tỉnh Bến Tre. Tại Biên bản hòa giải
ngày 29/3/2024, bà thống nhất với ý kiến của ông T, bà không tranh chấp gì
trong vụ án.
Tại đơn yêu cầu giải quyết, bản tự khai, biên bản hòa giải người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Phan Văn B2 trình bày:
Bà A có hợp đồng mua bán thức ăn với ông, hiện hai bên đã chấm dứt hợp
đồng và bà A còn nợ tiền mua thức ăn của ông là 42.000.000 đồng (bốn mươi
hai triệu đồng). Do khi giao thức ăn cho bà A, ông T biết và việc mua bán thức
ăn giữa hai bên diễn ra lúc bà A và ông T còn là vợ chồng. Đồng thời, bà A và
ông T cùng làm ăn tạo ra khối tài sản chung và yêu cầu Tòa án chia tài sản
chung này. Như vậy, nợ này phát sinh trong thời kỳ hôn nhân của bà A và ông T
nên ông yêu cầu bà A và ông T có trách nhiệm trả cho ông số tiền này. Ngoài ra
ông không yêu cầu gì khác. Yêu cầu Tòa án giải quyết phần nợ trong vụ án này.
6
Tại đơn yêu cầu độc lập, bản tự khai, biên bản hòa giải, đơn yêu cầu giải
quyết, xét xử vắng mặt, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Phan Huy
T5 và người đại diện theo ủy quyền của ông T5 là bà Lê Thị Yến N trình bày:
Vào khoảng năm 2015, ông T5 có bán thức ăn chăn nuôi heo, gà cho bà
A. Hai bên mua bán thuận lợi đến khoảng năm 2017, sau khi bà A bán heo, gà
nhưng không thanh toán tiền cho ông T5 và còn nợ lại ông T5 số tiền là
36.610.000 đồng (ba mươi sáu triệu sáu trăm mười nghìn đồng). Hiện hai bên đã
chấm dứt hợp đồng. Mặc dù chỉ có bà A giao dịch với ông T5, ông T không có
trực tiếp giao dịch nhưng mục đích bà A chăn nuôi heo, gà là để phát triển kinh
tế gia đình, khoản nợ này phát sinh trong thời kỳ hôn nhân của bà A và ông T.
Đồng thời, khi giao thức ăn đến nhà bà A thì ông T đều biết và nhận hàng,
không có ý kiến nên ông T5 yêu cầu bà A và ông T có nghĩa vụ liên đới trả cho
ông số tiền này, không yêu cầu trả lãi. Ngoài ra ông T5 không có yêu cầu gì
khác. Yêu cầu Tòa án giải quyết phần nợ trong vụ án này.
Vì lý do sức khỏe nên bà N đề nghị Tòa án nhân dân huyện Giồng Trôm
tiến hành giải quyết, xét xử vụ án vắng mặt bà.
Tại phiên tòa, các đương sự thống nhất với tất cả các tài liệu, chứng cứ có
trong hồ sơ vụ án, đồng ý với kết quả đo đạc, định giá ngày 02/8/2022, không
yêu cầu Tòa án thu thập thêm tài liệu, chứng cứ.
Bà A trình bày, ông Đ là con của bà và ông T, ông Đ đã chết vào năm
2020, ông Đ không có vợ con. Bà xác định lại năm sinh của ông T là năm 1951.
Bà yêu cầu chia tài sản chung của bà và ông T các thửa đất theo đo đạc thực tế
là 161a, 161b, 167a, 167b, 167c, 167d, 167e, không tranh chấp đối với thửa đất
số 167f.
Bà chung sống với ông T từ khi bà 21 tuổi (vào năm 1984), sống trên các
thửa đất số 161, 167 tờ bản đồ số 10 này. Ngoài phần đất bà và ông T nhận
chuyển nhượng vào năm 1989 thì phần đất còn lại của các thửa đất số 161, 167
có nguồn gốc của cha ông T (ông Hai T6) cho ông T trước khi bà về chung sống
với ông T. Lúc đó do ở gần nên bà biết được phần đất này của cha ông T cho
ông T. Khi bà về chung sống với ông T thì thu nhập hoa lợi trên đất là do bà giữ.
Khi nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất thì phần đất này là đất ruộng, sau
khi nhận chuyển nhượng thì lên bờ trồng dừa. Bà và ông T chung sống hạnh
phúc được 39 năm, trong khoảng thời gian này có nhiều lần ông bà không chung
sống với nhau do ông T hay nhậu say, quậy phá làm cho cuộc sống vợ chồng
không hạnh phúc. Lúc đó do con còn nhỏ nên bà cố gắng sống với ông T đến
năn 2022 bà mới ly hôn với ông T. Hiện tại bà đang sống với người con riêng
của bà được 02 năm 01 tháng. Sau khi ly hôn với ông T, từ năm 2022 cho đến
nay bà không còn sinh sống, canh tác trên các thửa đất số 161, 167 này nữa. Mộ
trên thửa đất số 167 là của cha ông T và ông Đ. Đối với thửa đất số 161, theo
ông T và bà T1 trình bày thửa đất này hiện do bà T1 đang canh tác. Do bà yêu
cầu được nhận thửa đất số 161b nên bà đề nghị bà T1 phải trả lại cho bà quyền
7
sử dụng đất thửa đất này. Bà thống nhất dừa từ 01 đến 04 năm là do bà T1 trồng,
bà đồng ý trả lại giá trị những cây dừa này trên phần đất bà được nhận cho bà
T1. Bà xin rút lại yêu cầu chia căn nhà, bà yêu cầu chia đất theo quy định pháp
luật, các tài sản gắn liền với đất thuộc phần đất của người nào nhận thì người đó
được quyền sở hữu, không phải trả lại giá trị chênh lệch. Trường hợp Tòa án
chấp nhận yêu cầu chia tài sản sau khi ly hôn của bà đối với các thửa đất nêu
trên thì bà yêu cầu Tòa án kiến nghị cơ quan có thẩm quyền điều chỉnh và cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà đối với các thửa đất mà bà được
nhận.
Bà làm răng (thẩm mỹ) cách nay 04 năm, do răng hư nên bà làm, không
phải theo chỉ định của bác sĩ, chi phí là 05 chỉ vàng 24k (vàng nhẫn trơn). Bà
thống nhất giá vàng 24k là 7.406.000 đồng (bảy triệu bốn trăm lẻ sáu nghìn
đồng)/chỉ. Đối với số tiền hụi mà bà chơi hụi của bà T3, bà không nhớ đã hốt
được số tiền bao nhiêu do thời gian đã lâu, bà thống nhất với lời trình bày của bà
T3 về số tiền hụi mà bà đã hốt hụi là 39.000.000 đồng (ba mươi chín triệu đồng).
Bà mua thức ăn chăn nuôi của ông B2 đến năm 2020 thì hai bên chấm dứt
hợp đồng mua bán và bà còn nợ ông B2 số tiền là 42.000.000 đồng (bốn mươi
hai triệu đồng). Việc mua bán thức ăn, ông T không quan tâm, bàn bạc gì ông T
cũng không nghe nên tự một mình bà làm. Khi chăn nuôi có lời thì bà đầu tư
nuôi thêm, sau đó thua lỗ dẫn đến thiếu nợ. Bà nợ tiền mua thức ăn của ông T5
cách nay khoảng 10 năm trước khi nợ ông B2. Bà mua thức ăn của ông T5 chăn
nuôi có lời và lấy tiền lời này xây nhà vào năm 2010. Tuy nhiên, bà không có
chứng cứ chứng minh thu nhập của việc bà chăn nuôi dùng vào mục đích nhằm
đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình.
Ông B2 trình bày: ông vẫn giữ nguyên yêu cầu độc lập, yêu cầu bà A và
ông T có nghĩa vụ liên đới trả cho ông số tiền mua thức ăn chăn nuôi còn nợ là
42.000.000 đồng (bốn mươi hai triệu đồng), ông không yêu cầu tính lãi. Ông và
bà A hợp đồng mua bán thức ăn vào năm 2015 đến năm 2020, hai bên chấm dứt
hợp đồng. Ông mua bán trực tiếp với bà A. Khi bà A nợ tiền, ông có đến thông
báo cho ông T biết nhưng ông T nói bà A nợ thì bà A trả. Ông không cung cấp
được chứng cứ chứng minh theo thông báo về việc giao nộp tài liệu, chứng cứ
của Tòa án.
Do hòa giải không thành, Tòa án nhân dân huyện Giồng Trôm đưa vụ án ra xét
xử.
Tại Bản án hôn nhân và gia đình sơ thẩm số 91/2024/HNGĐ-ST ngày 06 tháng
6 năm 2024,Tòa án nhân dân huyện Giồng Trôm quyết định:
Căn cứ vào các Điều 430, 440 Bộ luật Dân sự; Điều 33, khoản 3 Điều 45,
Điều 59 của Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 147, khoản 1 Điều 217, khoản 2
Điều 218, các khoản 1, 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; các Điều 12, 27
Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban
8
Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử
dụng án phí và lệ phí Tòa án, tuyên xử:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Lê Thị A về
việc yêu cầu chia tài sản sau khi ly hôn đối với các thửa đất số 161, 167 cùng tờ
bản đồ số 10, tọa lạc tại xã T, huyện G, tỉnh Bến Tre.
1.1. Bà Lê Thị A được toàn quyền sử dụng đất và các tài sản gắn liền với
đất đối với thửa đất số 167c, diện tích 467,6m
2
, thửa đất số 167d+167e, diện
tích 874,3m
2
, thửa đất số 161b, diện tích 381,5m
2
cùng tờ bản đồ số 10, tọa lạc
tại xã T, huyện G, tỉnh Bến Tre.
Buộc ông Trần Văn T có nghĩa vụ giao lại cho bà Lê Thị A quyền sử dụng
đất thửa đất số 167c, diện tích 467,6m
2
, thửa đất số 167d+167e, diện tích
874,3m
2
, cùng tờ bản đồ số 10, tọa lạc tại xã T, huyện G, tỉnh Bến Tre và các tài
sản gắn liền với đất.
Buộc bà Trần Thị T1 có nghĩa vụ trả lại cho bà Lê Thị A quyền sử dụng
đất thửa đất số 161b, diện tích 381,5m
2
cùng tờ bản đồ số 10, tọa lạc tại xã T,
huyện G, tỉnh Bến Tre và các tài sản gắn liền với đất.
(có hồ sơ đo đạc theo yêu cầu của Tòa án kèm theo)
Buộc bà Lê Thị A có nghĩa vụ trả cho bà Trần Thị T1 giá trị 02 cây dừa
từ 01 đến 04 năm là 1.100.000 đồng (một triệu một trăm nghìn đồng).
1.2. Ông Trần Văn T được toàn quyền sử dụng đất và các tài sản gắn liền
với đất đối với thửa đất số 167b, diện tích 418,7m
2
, thửa đất số 167a, diện tích
1149,9m
2
, thửa đất số 161a, diện tích 616,3m
2
cùng tờ bản đồ số 10, tọa lạc tại
xã T, huyện G, tỉnh Bến Tre.
(có hồ sơ đo đạc theo yêu cầu của Tòa án kèm theo)
Ghi nhận bà Trần Thị T1 không tranh chấp với ông Trần Văn T các tài
sản gắn liền với đất thửa đất số 161a, diện tích 616,3m
2
cùng tờ bản đồ số 10,
tọa lạc tại xã T, huyện G, tỉnh Bến Tre.
1.3. Buộc bà Lê Thị A có nghĩa vụ giao lại cho ông Trần Văn T giá trị
chênh lệch là 42.430.000 đồng (bốn mươi hai triệu bốn trăm ba mươi nghìn
đồng).
Kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền điều chỉnh, cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất phù hợp như án tuyên khi đương sự có yêu cầu.
2. Đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu khởi kiện của Lê Thị A về việc yêu
cầu chia tài sản sau khi ly hôn đối với căn nhà có kết cấu nhà chính móng cột
dầm bê tông cốt thép, tường bao che, ngăn phòng xây gạch dày 10cm, sơn nước
không trần, nền lát gạch ceramic, mái tôn fbrôximăng; nhà sau cột gỗ tạp, vách
lá + tôn, không trần, nền xi măng mái tôn tráng kẽm.
3. Đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu phản tố của ông Trần Văn T về việc
9
yêu cầu chia tài sản sau khi ly hôn là 27 chỉ vàng 24k và số tiền hụi là
39.000.000 đồng (ba mươi chín triệu đồng).
4. Đình chỉ giải quyết yêu cầu độc lập của bà Trần Thị T1 về việc yêu cầu
được nhận thửa đất số 161, tờ bản đồ số 10, tọa lạc tại xã T, huyện G, tỉnh Bến
Tre.
5. Chấp nhận một phần yêu cầu độc lập của ông Phan Văn B2 về việc yêu
cầu bà Lê Thị A và ông Trần Văn T có nghĩa vụ liên đới trả cho ông số tiền nợ
mua thức ăn là 42.000.000 đồng (bốn mươi hai triệu đồng).
Buộc bà Lê Thị A có nghĩa vụ trả cho ông Phan Văn B2 số tiền nợ mua
thức ăn là 42.000.000 đồng (bốn mươi hai triệu đồng). Ghi nhận ông Phan Văn
B2 không yêu cầu bà Lê Thị A có nghĩa vụ trả lãi đối với số tiền này.
Không chấp nhận một phần yêu cầu độc lập của ông Phan Văn B2 về việc
yêu cầu ông Trần Văn T có nghĩa vụ liên đới với bà Lê Thị A trả cho ông số tiền
trên.
6. Chấp nhận một phần yêu cầu độc lập của ông Phan Huy T5 về việc yêu
cầu bà Lê Thị A và ông Trần Văn T có nghĩa vụ liên đới trả cho ông số tiền nợ
mua thức ăn là 36.610.000 đồng (ba mươi sáu triệu sáu trăm mười nghìn đồng).
Buộc bà Lê Thị A có nghĩa vụ trả cho ông Phan Huy T5 số tiền nợ mua
thức ăn là 36.610.000 đồng (ba mươi sáu triệu sáu trăm mười nghìn đồng). Ghi
nhận ông Phan Huy T5 không yêu cầu bà Lê Thị A có nghĩa vụ trả lãi đối với số
tiền này.
Không chấp nhận một phần yêu cầu độc lập của ông Phan Huy T5 về việc
yêu cầu ông Trần Văn T có nghĩa vụ liên đới với bà Lê Thị A trả cho ông số tiền
trên.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về chi phí tố tụng, nghĩa vụ thi hành
án, án phí sơ thẩm và quyền kháng cáo của các đương sự.
Ngày 27/6/2024,bị đơn ông Trần Văn T có đơn kháng cáo một phần bản
án sơ thẩm, yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre sửa một phần bản án sơ thẩm
theo hướng:
Ông yêu cầu chia cho ông nhận 70% diện tích các thửa đất 161, 167, cùng
tờ bản đồ số 10; chia cho bà A nhận 30% diện tích các thửa đất này. Ai nhận đất
nhiều hơn sẽ trả chênh lệch giá trị theo định giá của Tòa án.
Ông yêu cầu chia đôi 30 chỉ vàng 24k, tiền hốt hụi 39.000.000 đồng là tài
sản trong thời kỳ hôn nhân do bà A đã giữ số vàng và số tiền nên yêu cầu bà ai
trả lại cho ông 1 chỉ vàng 24k và số tiền 19.500.000 đồng.
Tại phiên tòa phúc thẩm: Bà Trần Thị T1 là người đại diện theo ủy
quyền của ông Trần Văn T giữ nguyên yêu cầu kháng cáo của ông T. Nguyên
đơn bà Lê Thị A không đồng ý yêu cầu kháng cáo của ông T và đề nghị Hội
10
đồng xét xử giữ nguyên bản án sơ thẩm. Các bên đương sự không thỏa thuận
được về việc giải quyết vụ án.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho ông T trình bày: Quá trình
giải quyết vụ án, bà A có thừa nhận nguồn gốc các thửa đất 161, 167 cùng tờ
bản đồ số 10 có nguồn gốc của cha mẹ ông T cho ông T vào năm 1982 nên ông
T kháng cáo yêu cầu chia cho ông T các thửa đất 161, 167 theo tỉ lệ ông T nhận
70%, bà A nhận 30% diện tích các thửa đất trên là phù hợp.
Đối với kháng cáo của ông T yêu cầu chia ½ số vàng 30 chỉ vàng 24k và
½ số tiền hốt hụi 39.000.000 triệu đồng là có căn cứ. Vì vậy, đề nghị Hội đồng
xét xử sửa một phần bản án sơ thẩm theo yêu cầu kháng cáo của ông Trần Văn
T.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bến Tre phát biểu:
Về tố tụng: Những người tiến hành tố tụng đã tuân theo đúng các quy định
của Bộ luật tố tụng dân sự; những người tham gia tố tụng đã thực hiện quyền và
nghĩa vụ tố tụng của mình theo quy định của pháp luật.
Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 1 Điều 308 Bộ
luật Tố tụng dân sự, tuyên xử theo hướng: Không chấp nhận kháng cáo của bị
đơn ông Trần Văn T; Giữ nguyên Bản án hôn nhân và gia đình sơ thẩm số:
91/2024/HNGĐ-ST ngày 06 tháng 6 năm 2024 của Tòa án nhân dân huyện
Giồng Trôm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm
tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh tụng. Xét kháng cáo của bị đơn ông
Trần Văn T và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bến Tre. Hội
đồng xét xử nhận định.
Về tố tụng: Bị đơn ông Trần Văn T kháng cáo và thực hiện các thủ tục
kháng cáo hợp lệ trong thời hạn luật định nên được xem xét giải quyết theo trình
tự thủ tục phúc thẩm.
Về nội dung:
[1]Bà Lê Thị A và ông Trần Văn T đã ly hôn theo Quyết định công nhận
thuận tình ly hônsố 22/2022/QĐCNTTLH ngày 11/5/2022 của Tòa án nhân dân
huyện Giồng Trôm. Do bà A và ông T tự thỏa thuận về việc phân chia tài sản
chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết về tài sản chung.
[1.1] Sau khi ly hôn, ông T và bà A chưa thỏa thuận được việc phân chia
tài sản chung nên bà A khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết chia tài sản chung
sau khi ly hôn, bao gồm: Thửa đất 161 diện tích 998m
2
; thửa đất 167 diện tích
2.912,6m
2
, cùng tờ bản đồ số 10; căn nhà cấp 4 (nền lót gạch men, vách tường,
mái lợp tol, cột bê tông) cất trên thửa đất 167, nhà và đất tọa lạc ấp G, xã T,
11
huyện G, tỉnh Bến Tre.Tại phiên tòa sơ thẩm, bà A rút lại yêu cầu chia tài sản là
căn nhà chính có kết cấu(móng cột dầm bê tông cốt thép, tường bao che, ngăn
phòng xây gạch dày 10cm, sơn nước không trần, nền lát gạch ceramic, mái tôn
fbrôximăng); nhà sau có kết cấu(cột gỗ tạp, vách lá + tôn, không trần, nền xi
măng mái tôn tráng kẽm).Do đó, Tòa án cấp sơ thẩmcăn cứ quy định tại điểm c
khoản 1 Điều 217 Bộ luật Tố tụng dân sự, đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu
này của bà A là phù hợp.
[1.2] Ông T có đơn phản tố yêu cầu chia đôi số vàng và số tiền mà ông
cho rằng bà A đang quản lý gồm: 27 chỉ vàng 24k và 39.000.000 đồng tiền hốt
hụi; ông T yêu cầu bà A giao lại cho ông 13,5 chỉ vàng 24k và 19.500.000 đồng
tiền hụi. Bà T1 có yêu cầu độc lập yêu cầu được nhận thửa đất 161, tờ bản đồ số
10, tọa lạc tại xã T, huyện G, tỉnh Bến Tre. Do ông T và bà T1 đã được Tòa án
triệu tập hợp lệ mà vắng mặt tại phiên tòa đến lần thứ hai không có lý do nênTòa
án cấp sơ thẩm đình chỉ giải quyết yêu cầu phản tố của ông T và đình chỉ giải
quyết yêu cầu độc lập của bà T1.
[1.3] Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết phân chia tài sản chung của bà A và
ông T; đồng thời giải quyết yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan có yêu cầu độc lập là ông Phan Văn B2, ông Phan Huy T5, bà Trần
Thị T1.
[1.4] Do không đồng ý về phần chia tài sản chung là quyền sử dụng đất;
về số vàng, về tiền hốt hụi nên ông T kháng cáo một phần bản án sơ thẩm, yêu
cầu chia lại quyền sử dụng đất: Chia cho ông nhận 70%, chia cho bà A nhận
30% diện tích các thửa đất 161, 167.Ngoài ra ông T7 cầu bà A giao cho ông ½
số vàng là 15 chỉ vàng 24k và ½ số tiền hụi là 19.500.000 đồng.
[1.5] Các phần khác của Quyết định bản án sơ thẩm các đương sự không
có kháng cáo, Viện kiểm sát không có kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ
ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
[2]Xét kháng cáo của ông Trần Văn T về chia tài sản chung là quyền sử
dụng đất:
[2.1] Về nguồn gốc đất thửa 161, thửa 167, cùng tờ bản đồ số 10, bà Lê
Thị A và ông Trần Văn T thống nhất thửa 167: 418,7 m
2
và thửa 167c: 467,6 m
2
là do ông T và bà A nhận chuyển nhượng nên xác định là tài sản chung của ông
T và bà A.
[2.2] Đối với các thửa 167a: 1.149,9 m
2
, 167d: 623,7 m
2
, 167e: 250,6
m
2
và thửa 161a: 616,3 m
2
, thửa 161b: 381,5 m
2
, ông T và bà A thống nhất là của
cha mẹ ông T (ông Trần Văn T4, bà Nguyễn Thị K), tuy nhiên bà A cho rằng
cha mẹ ông T cho bà A và ông T năm 1984, còn ông T cho rằng cha mẹ ông cho
ông sử dụng đất này từ năm 1975, đến năm 1982 ông được cho luôn đất, cho
trước khi ông kết hôn với bà A.
12
[2.3] Căn cứ hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (BL 49-83) thể
hiện: ...Ngày 24/6/1998 hộ ông Trần Văn T được cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất gồm các thửa 524, 1453, cùng tờ bản đồ số 02, diện tích 3.055 m
2
.
Năm 2008, ông T mất giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Ngày 09/12/2011,
ông T có đơn đề nghị cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, kèm theo có
Danh sách công khai các trường hợp đủ điều kiện cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất thể hiện: nguồn gốc đất do cha mẹ ruột ông T cho ông T năm 1982 sử
dụng ổn định đến năm 1998 được Ủy ban nhân dân huyện G cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất và đến năm 2008 làm thất lạc giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất đến nay không tìm lại được... Ngày 31/01/2013, hộ ông T và bà A
được cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất với thửa mới là thửa 161, tờ
bản đồ số 10, diện tích 998 m
2
và thửa 167, tờ bản đồ số 10, diện tích 2.912,6
m
2
. Ông T không có ý kiến hay khiếu nại về việc bà A cùng ông đứng tên giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất toàn bộ phần đất trong đó có phần đất cha mẹ
ông T cho ông T năm 1982. Như vậy, ông T đã thừa nhận một phần thửa 167
(gồm thửa 167a: 1.149,9 m
2
, thửa 167d: 623,7 m
2
,thửa 167e: 250,6 m
2
) và toàn
bộ thửa 161 (gồm: thửa 161a: 616,3 m
2
, thửa 161b: 381,5 m
2
) là tài sản chung
vợ chồng của ông T và bà A. Do đó, bà A khởi kiện yêu cầu chia tài sản chung
vợ chồng sau khi ly hôn là thửa 161, thửa 167, cùng tờ bản đồ số 10 nêu trên (cụ
thể là: các thửa 167a: 1.149,9 m
2
, thửa 167b: 418,7 m
2
, thửa 167c: 467,6 m²,
thửa 167d: 623,7 m², thửa 167e: 250,6 m² và thửa 161a: 616,3 m², thửa 161b:
381,5 m²) là có căn cứ.
[2.4] Tuy nhiên xét về nguồn gốc đất, trong đó có: một phần thửa 167
gồm thửa 167b: 418,7 m² và thửa 167c: 467,6 m² là do ông T, bà A nhận chuyển
nhượng, Tòa sơ thẩm đã xem xét chia cho ông T, bà A mỗi người nhận ½ (50%)
và một phần thửa 167 còn lại gồm: thửa 167a: 1.149,9 m
2
, thửa 167d: 623,7 m
2
,
167e: 250,6 m
2
và toàn bộ thửa 161 (gồm thửa 161a: 616,3 m
2
, thửa 161b: 381,5
m
2
) là do cha mẹông T cho ông T năm 1982 trước khi kết hôn với bà A, do đó
Tòa sơ thẩm đã xem xét chia cho ông T nhận 60% và bà A nhận 40% thuộc một
phần thửa 167 còn lại và toàn bộ thửa 161, cùng tờ bản đồ số 10 (cụ thể xem xét
cho: bà A nhận các thửa 167c: 467,6 m
2
, thửa 167d: 623,7 m
2
, 167e: 250,6 m
2
và thửa 161b: 381,5 m
2
. Ông T nhận các thửa 167a: 1.149,9 m
2
, 167b: 418,7 m
2
và thửa 161a: 616,3 m
2
), đồng thời có xem xét buộc bà A hoàn giá trị đất chênh
lệch (trên giá trị các thửa đất bà A, ông T được chia nêu trên) cho ông T với số
tiền 42.430.000đ theo bản án sơ thẩm đã tuyên là có căn cứ. Do đó, ông T kháng
cáo yêu cầu chia cho ông nhận 70% và bà A nhận 30% thuộc toàn bộ thửa 167
và toàn bộ thửa 161, cùng tờ bản đồ số 10 nêu trên là không có cơ sở để chấp
nhận.
[3] Xét kháng cáo của ông T yêu cầu bà A giao lại cho ông ½ số vàng 30
chỉ 24k và ½ số tiền hốt hụi 39.000.000 đồng, nhận thấy:
[3.1] Bị đơn ông T có yêu cầu phản tố yêu cầu chia 27 chỉ vàng 24k và số
tiền hụi là 39.000.000 đồng (ba mươi chín triệu đồng).Do ông T đã được Tòa án
13
triệu tập hợp lệ mà vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai không có lý do (BL: 261-
262; 295-296; 302, 304; 305); ông T không có người đại diện theo ủy quyền cho
ông T tham gia phiên tòa, cũng không có yêu cầu xét xử vắng mặt, nên xem như
ông T từ bỏ yêu cầu phản tố; Do đó Tòa án cấp sơ thẩm đình chỉ giải quyết yêu
cầu phản tố của ông T là đúng quy định. Ông T có quyền khởi kiện lại yêu cầu
phản tố theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, khi Quyết định đình chỉ Tòa án
cấp sơ thẩm không căn cứ quy định tại điểm c khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng
dân sự mà căn cứ quy định tại điểm c khoản 1 Điều 217 Bộ luật Tố tụng dân sự
là không đúng nên cấp phúc thẩm điều chỉnh lại cho phù hợp.
[3.2] Xét thấy, Tòa án cấp sơ thẩm đình chỉ giải quyết yêu cầu phản tố của
ông T đối với yêu cầu chia ½ số vàng 27 chỉ 24k nhưng ông T kháng cáo yêu
cầu chia ½ số vàng 30 chỉ 24k là cũng vượt quá yêu cầu phản tố.
[4] Xét thấy, ông T kháng cáo nhưng không có chứng cứ gì mới để chứng
minh tại phiên tòa phúc thẩm, do đó toàn bộ kháng cáo của ông T không có cơ
sở để chấp nhận.
[5] Đề nghị của người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của bị đơn là không
phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên không được chấp nhận.
[6] Quan điểm của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bến Tre là phù
hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.
[7] Từ những nhận định nêu trên, Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp
nhận kháng cáo của ông Trần Văn T; giữ nguyên Bản án hôn nhân và gia đình
sơ thẩm số: 91/2024/HNGĐ-ST ngày 06 tháng 6 năm 2024 của Tòa án nhân dân
huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre.
[8] Về án phí phúc thẩm: Do kháng cáo của ông Trần Văn T không được
chấp nhận nên ông T phải chịu án phí phúc thẩm. Tuy nhiên ông T thuộc diện
người cao tuổi nên được miễn án phí (theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12
Nghị quyết số326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ
Quốc hội về án phí, lệ phí tòa án).
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn ông Trần Văn T;
Giữ nguyên Bản án hôn nhân và gia đình sơ thẩm số: 91/2024/HNGĐ-ST
ngày 06 tháng 6 năm 2024 của Tòa án nhân dân huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến
Tre.
Căn cứ vào các Điều 430, 440 Bộ luật Dân sự; Điều 33, khoản 3 Điều 45,
Điều 59 của Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 147, khoản 1 Điều 217, khoản 2
Điều 218, điểm c khoản 2 Điều 227, các khoản 1, 3 Điều 228 của Bộ luật Tố
14
tụng dân sự; điểm đ khoản 1 Điều 12; Điều 27 Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 củaỦy ban Thường vụ Quốc
hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ
phí Tòa án, tuyên xử:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Lê Thị A về
việc yêu cầu chia tài sản sau khi ly hôn đối với các thửa đất số 161, 167 cùng tờ
bản đồ số 10, tọa lạc tại xã T, huyện G, tỉnh Bến Tre.
1.1. Bà Lê Thị A được toàn quyền sử dụng đất và các tài sản gắn liền với
đất đối với thửa đất số 167c, diện tích 467,6m
2
, thửa đất số 167d+167e, diện tích
874,3m
2
, thửa đất số 161b, diện tích 381,5m
2
cùng tờ bản đồ số 10, tọa lạc tại xã
T, huyện G, tỉnh Bến Tre.
Buộc ông Trần Văn T có nghĩa vụ giao lại cho bà Lê Thị A quyền sử
dụng đất thửa đất số 167c, diện tích 467,6m
2
, thửa đất số 167d+167e, diện tích
874,3m
2
, cùng tờ bản đồ số 10, tọa lạc tại xã T, huyện G, tỉnh Bến Tre và các tài
sản gắn liền với đất.
Buộc bà Trần Thị T1 có nghĩa vụ trả lại cho bà Lê Thị A quyền sử dụng
đất thửa đất số 161b, diện tích 381,5m
2
cùng tờ bản đồ số 10, tọa lạc tại xã T,
huyện G, tỉnh Bến Tre và các tài sản gắn liền với đất.
(có hồ sơ đo đạc theo yêu cầu của Tòa án kèm theo)
Buộc bà Lê Thị A có nghĩa vụ trả cho bà Trần Thị T1 giá trị 02 cây dừa từ
01 đến 04 năm là 1.100.000 đồng (một triệu một trăm nghìn đồng).
1.2. Ông Trần Văn T được toàn quyền sử dụng đất và các tài sản gắn liền
với đất đối với thửa đất số 167b, diện tích 418,7m
2
, thửa đất số 167a, diện tích
1149,9m
2
, thửa đất số 161a, diện tích 616,3m
2
cùng tờ bản đồ số 10, tọa lạc tại
xã T, huyện G, tỉnh Bến Tre.
(có hồ sơ đo đạc theo yêu cầu của Tòa án kèm theo)
Ghi nhận bà Trần Thị T1 không tranh chấp với ông Trần Văn T các tài
sản gắn liền với đất thửa đất số 161a, diện tích 616,3m
2
cùng tờ bản đồ số 10,
tọa lạc tại xã T, huyện G, tỉnh Bến Tre.
1.3. Buộc bà Lê Thị A có nghĩa vụ giao lại cho ông Trần Văn T giá trị
chênh lệch là 42.430.000 đồng (bốn mươi hai triệu bốn trăm ba mươi nghìn
đồng).
Kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền điều chỉnh, cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất phù hợp như án tuyên khi đương sự có yêu cầu.
2. Đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu khởi kiện của Lê Thị A về việc yêu
cầu chia tài sản sau khi ly hôn đối với căn nhà có kết cấu nhà chính móng cột
dầm bê tông cốt thép, tường bao che, ngăn phòng xây gạch dày 10cm, sơn nước
không trần, nền lát gạch ceramic, mái tôn fbrôximăng; nhà sau cột gỗ tạp, vách
15
lá + tôn, không trần, nền xi măng mái tôn tráng kẽm.
3. Đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu phản tố của ông Trần Văn T về việc
yêu cầu chia tài sản sau khi ly hôn là 27 chỉ vàng 24k và số tiền hụi là
39.000.000 đồng (ba mươi chín triệu đồng).
4. Đình chỉ giải quyết yêu cầu độc lập của bà Trần Thị T1 về việc yêu cầu
được nhận thửa đất số 161, tờ bản đồ số 10, tọa lạc tại xã T, huyện G, tỉnh Bến
Tre.
5. Chấp nhận một phần yêu cầu độc lập của ông Phan Văn B2 về việc yêu
cầu bà Lê Thị A và ông Trần Văn T có nghĩa vụ liên đới trả cho ông số tiền nợ
mua thức ăn là 42.000.000 đồng (bốn mươi hai triệu đồng).
Buộc bà Lê Thị A có nghĩa vụ trả cho ông Phan Văn B2 số tiền nợ mua
thức ăn là 42.000.000 đồng (bốn mươi hai triệu đồng). Ghi nhận ông Phan Văn
B2 không yêu cầu bà Lê Thị A có nghĩa vụ trả lãi đối với số tiền này.
Không chấp nhận một phần yêu cầu độc lập của ông Phan Văn B2 về việc
yêu cầu ông Trần Văn T có nghĩa vụ liên đới với bà Lê Thị A trả cho ông số tiền
trên.
6. Chấp nhận một phần yêu cầu độc lập của ông Phan Huy T5 về việc yêu
cầu bà Lê Thị A và ông Trần Văn T có nghĩa vụ liên đới trả cho ông số tiền nợ
mua thức ăn là 36.610.000 đồng (ba mươi sáu triệu sáu trăm mười nghìn đồng).
Buộc bà Lê Thị A có nghĩa vụ trả cho ông Phan Huy T5 số tiền nợ mua
thức ăn là 36.610.000 đồng (ba mươi sáu triệu sáu trăm mười nghìn đồng). Ghi
nhận ông Phan Huy T5 không yêu cầu bà Lê Thị A có nghĩa vụ trả lãi đối với số
tiền này.
Không chấp nhận một phần yêu cầu độc lập của ông Phan Huy T5 về việc
yêu cầu ông Trần Văn T có nghĩa vụ liên đới với bà Lê Thị A trả cho ông số tiền
trên.
7. Về chi phí tố tụng khác:
Buộc ông Trần Văn T có nghĩa vụ trả lại cho bà Lê Thị A số tiền
7.120.200 đồng (bảy triệu một trăm hai mươi nghìn hai trăm đồng).
8.Về án phí dân sự sơ thẩm:
8.1. Bà Lê Thị A và ông Trần Văn T được miễn án phí.
8.2. Bà Lê Thị A được nhận lại số tiền tạm ứng án phí đã nộp là
10.123.000 đồng (mười triệu một trăm hai mươi ba nghìn đồng) theo biên lai thu
tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0008241 ngày 05 tháng 7 năm 2022 của Chi
cục Thi hành án dân sự huyện Giồng Trôm.
8.3. Ông Phan Văn B2 được nhận lại số tiền tạm ứng án phí đã nộp là
1.050.000 đồng (một triệu không trăm năm mươi nghìn đồng) theo biên lai thu
16
tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0011151 ngày 28 tháng 11 năm 2022 của Chi
cục Thi hành án dân sự huyện Giồng Trôm.
8.4. Ông Phan Huy T5 được nhận lại số tiền tạm ứng án phí đã nộp là
915.250 đồng (chín trăm mười lăm nghìn hai trăm năm mươi đồng) theo biên lai
thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0004886 ngày 02 tháng 4 năm 2024 của Chi
cục Thi hành án dân sự huyện Giồng Trôm.
8.5. Sung vào công quỹ nhà nước số tiền tạm ứng án phí bà Trần Thị T1
đã nộp là 8.750.000 đồng (tám triệu bảy trăm năm mươi nghìn đồng) theo Biên
lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0009002 ngày 21 tháng 7 năm 2022 của
Chi cục Thi hành án dân sự huyện Giồng Trôm.
Kể từ ngày quyết định có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ
quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày
có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền
phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi
hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức
lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015, trừ trường
hợp pháp luật có quy định khác.
9. Về án phí phúc thẩm: Ông Trần Văn T được miễn án phí phúc thẩm (do
ông T thuộc diện người cao tuổi).
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2
Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành
án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện
thi hành án, hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b
và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy
định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- TAND cấp cao tại TP.HCM;
- VKSND tỉnh Bến Tre;
- TAND huyện Giồng Trôm;
- Chi cục THADS huyện Giồng Trôm;
- Các đương sự;
- Phòng KTNV&THAHS tỉnh
Bến Tre;
- Lưu hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Phạm Văn Ngọt
17
Tải về
Bản án số 29/2024/HNGĐ-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 29/2024/HNGĐ-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 18/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 26/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 26/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 26/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 25/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 24/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 17/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 13/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 11/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 10/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 05/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 29/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 26/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 26/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 21/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 20/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 20/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 16/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 12/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm