Bản án số 28/2025/DS-ST ngày 27/08/2025 của Tòa án nhân dân khu vực 14 - An Giang, tỉnh An Giang về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 28/2025/DS-ST

Tên Bản án: Bản án số 28/2025/DS-ST ngày 27/08/2025 của Tòa án nhân dân khu vực 14 - An Giang, tỉnh An Giang về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: Tòa án nhân dân khu vực 14 - An Giang, tỉnh An Giang
Số hiệu: 28/2025/DS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 27/08/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Tranh chấp hợp đồng vay tài sản giữa ông Lữ Quốc V và bà Nguyễn Thị Bảo Y - Nguyễn Văn Đ
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
KHU VỰC 14 - AN GIANG
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số: 28/2025/DS-ST
Ngày 27 tháng 8 năm 2025
Về việc tranh chấp dân sự
hợp đồng vay tài sản
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN KHU VỰC 14 - AN GIANG
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Trịnh Thị Ngọc Hà
Các Hội thẩm nhân dân: Ông Mai Văn Tài; bà Cao Thị Phương Trang
- Thư phiên tòa: Lê Thị Cẩm Tiên, Thư a án nhân dân khu vực
14 - An Giang
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân khu vực 14 tham gia phiên tòa:
Thị Ngọc Diễm, Kiểm sát viên
Ngày 27 tháng 8 năm 2025 tại trụ sở Tòa án nhân dân khu vực 14 An
Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 30/2025/TLST-DS ngày 14 tháng
02 năm 2025 về “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra
xét xsố 41/2025/QĐXXST-DS ngày 16 tháng 7 năm 2025, Quyết định hoãn
phiên tòa s188/2025/QĐST-DS ngày 15 tháng 8 năm 2025 của Tòa án nhân dân
khu vực 14 - An Giang giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Lữ Quốc V, sinh năm 1984 Nguyễn Thị Bảo Y,
sinh năm 1984; cùng địa chỉ: số D, ấp R, xã C, huyện T, tỉnh An Giang (nay là số
D, ấp R, T, tỉnh An Giang). Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn ông
Lữ Quốc V Nguyễn Thị Bảo Y: Nguyễn Thị N, sinh năm 1990 Trần
Thị Cẩm T, sinh năm 1998; cùng địa chỉ liên hệ: Số A, đường L, khóm F, thị trấn
T, huyện T, tỉnh An Giang (nay là số A, đường L, khóm F, xã T, tỉnh An Giang),
theo Giấy ủy quyền số công chứng 608, quyển số 05/2024/TP/CC-SCC/HĐGD
ngày 16/12/2024, có mặt.
- Bị đơn: Ông Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1982; địa chỉ: Tổ D, ấp B, C,
huyện T, tỉnh An Giang (nay là tổ D, ấp B, xã T, tỉnh An Giang), vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện, lời khai trong qtrình giải quyết vụ án, nguyên đơn
Lữ Quốc V - Nguyễn Thị Bảo Y, người đại diện theo ủy quyền Nguyễn Thị
N trình bày: Do có mối quan hệ quen biết nên ông V và bà Nguyễn Thị Bảo Y
2
cho ông Nguyễn Văn Đ vay tiền như sau:
Lần 1 vào ngày 11/06/2022, ông Đ hỏi vay số tiền 100.000.000 đồng (một
trăm triệu đồng) để mua xe tải, có lập tờ “Hợp đồng vay tiền” bằng giấy viết tay
do ông Đ ghi họ tên. Thời hạn vay là 1 năm với lãi suất 20%/năm. Tuy nhiên
khi đến thời hạn trả số tiền vay, do ông Đ khó khăn nên xin vợ chồng ông V
được trả dần từ từ số tiền đã vay.
Lần 2 ngày 23/10/2023, ông Đ đến gặp vợ chồng ông V vay thêm số tiền
100.000.000 đồng nữa để mua xe tải. Do số tiền lần trước ông Đ vay của vợ chồng
ông V ông Đ còn chưa trả, nên lần này khi vay thêm ông Đ có đưa cho ông V
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất bản chính diện tích 954.3 m
2
, số GCN
DĐ661667, số vào số cấp GCN: CS09117, thuộc thửa đất số 13, tờ bản đồ số 41,
tọa lạc xã C, huyện T, tỉnh An Giang, do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh A cấp
ngày 02/3/2022 cho ông Nguyễn Văn Đ đứng tên, mục đích giao cho ông V giữ
để làm tin, nhằm đảm bảo đối với khoản vay trên và hai bên có lập hợp đồng vay
tiền.
Lần 3, thời gian sau đó không nhớ ngày, ông Đ việc gấp trong gia đình
nên mượn thêm số tiền 65.000.000 (sáu mươi lăm triệu) đồng hứa hẹn vài ngày
sau sẽ thanh toán đủ cho vợ chồng ông V vay thêm stiền 57.600.000 đồng
(năm mươi bảy triệu, sau trăm nghìn đồng) để ông Đ góp hụi chết cho bà Y do
Y chủ hụi ông Đ hụi viên tham gia. Đối với hai khoản tiền vay này là
122.600.000 đồng này, giữa vợ chồng ông V và ông Đ không làm biên nhận, chỉ
thỏa thuận miệng và dựa vào sự tin tưởng ông Đ đã giao cho vchồng ông V
giữ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất bản chính đứng tên ông Đ như đã nêu
trên.
Tổng cộng số tiền ông Đ vay của vợ chồng ông V 03 lần 322.600.000
đồng (Ba trăm hai mươi hai triệu, sáu trăm nghìn đồng).
Kể từ thời điểm vay tiền cho đến nay ông Đ trả cho vợ chồng ông V
được vài tháng tiền lãi và ngưng từ ngày 23/12/2024 cho đến nay không trả thêm
được khoảng tiền nào. Khi đến thời hạn trả số tiền vay gốc ngày 23/10/2024, ông
V yêu cầu ông Đ thực hiện nghĩa vụ trả tiền vay và tiền lãi cho vợ chồng ông
V, tuy nhiên ông Đ hứa hẹn cố tình lãng tránh, nên ông V khởi kiện yêu cầu
buộc Nguyễn Văn Đ trách nhiệm trả cho vợ chồng ông V số tiền gốc một lần
tổng cộng 322.600.000 đồng (ba trăm hai mươi hai triệu, sáu trăm nghìn đồng),
đồng thời yêu cầu ông Đ phải trả cho vợ chồng ông V tiền lãi suất (20%/năm)
tương ứng 1,66%/tháng đối với số tiền trên, vợ chồng ông V sẽ giao trả lại Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất bản chính cho ông Nguyễn Văn Đ.
Theo lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn ông Nguyễn Văn Đ
trình bày: Ông Đ xác nhận vay tiền của Y ông V, tuy nhiên ông không
đồng ý với số tiền bà Y, ông V trình bày. Ông Đ xác nhận còn nợ bà Y, ông V số
tiền 100.000.000 đồng theo hợp đồng vay tài sản ngày 23/10/2023 và 22.000.000
đồng tiền hụi. Ông Đ đồng ý trả dần mỗi tháng là 3.000.000 đồng cho đến khi hết
3
nợ, đề nghị vợ chồng ông V không tính lãi, do hiện nay hoàn cảnh của ông Đ gặp
nhiều khó khăn, không có khả năng chi trả.
Khi vay, ông Đ không thế chấp tài sản cho ông V, Y. Ông Đ không
thừa nhận việc thế chấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông V, Y.
Việc ông V, Y cung cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên ông Đ
thì ông Đ không biết.
Tại phiên tòa, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn bà Nguyễn Thị
N đồng ý ý kiến trình bày của ông Nguyễn Văn Đ, chỉ yêu cầu ông Đ trả khoản
nợ vay 100.000.000 đồng cùng lãi suất vay từ ngày 23/12/2023 đến ngày xét xử
thẩm; đối với tiền vay đóng hụi thì yêu cầu ông Đ trả gốc 22.000.000 đồng,
không yêu cầu trả lãi của khoản vay này. Tự nguyện rút lại một phần yêu cầu
khởi kiện đối với số tiền 200.600.000 đồng.
Đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm:
Việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án dân sự ở giai đoạn
thẩm: Hội đồng xét xử, Thư phiên tòa đã thực hiện đúng, đầy đquy định
của Bộ luật Tố tụng dân sự và các văn bản quy phạm pháp luật liên quan về
việc xét xử vụ án. Người tham gia tố tụng đã làm đúng quy định của Bộ luật Tố
tụng Dân sự năm 2015.
Về nội dung vụ án, xét tại phiên tòa, ông V, bà Y rút lại một phần yêu cầu
khởi kiện, chỉ yêu cầu ông Đ trả số tiền 122.000.000đ, trong đó số tiền
100.000.000đ có ký kết hợp đồng vay tài sản ngày 23/10/2023 và số tiền
22.000.000đ không có lập hợp đồng.
Căn cứ vào các hợp đồng vay tài sản do nguyên đơn cung cấp nhận thấy:
Nội dung hợp đồng thể hiện ông Đ có vay của ông V, bà Y tổng số tiền theo hợp
đồng là 100.000.000đ, thời hạn vay 01 năm, lãi suất 20%/năm, hợp đồng đều có
chữ ký xác nhận của ông Đông Đ cũng thừa nhận có ký tên vào các hợp đồng
nêu trên. Điều đó chứng tỏ, các hợp đồng này được kết trên sở tự nguyện
của các bên, nội dung của hợp đồng không vi phạm điều cấm, không trái đạo đức
của hội nên giá trị pháp làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của các bên.
Do ông Đ vi phạm nghĩa vụ khi thực hiện hợp đồng nên ông Đ phải trách nhiệm
trả cho ông V, bà Y số tiền 100.000.000đ. Riêng đối với số tiền 22.000.000đồng,
nguyên đơn yêu cầu bị đơn thanh toán, không yêu cầu trả lãi, mặc dù không cung
cấp được biên nhận nợ nhưng được bđơn thừa nhận vay số tiền này nên có
sở chấp nhận.
Về lãi vay, các bên đều thống nhất trong thời gian vay trả tiền lãi tuy
nhiên nguyên đơn trình bày, ông Đ có trả tiền lãi đến ngày 23/12/2023 nhưng ông
Đ cho rằng đã trả lãi đến tháng 4/2024. Nhận thấy, việc trả lãi giữa nguyên đơn
và bị đơn đều không có ghi chép sổ sách cũng như chứng cứ chứng minh, việc bị
đơn cho rằng trả tiền lãi đến tháng 4/2024 là không đủ cơ sở xem xét. Do đó căn
cứ vào lời trình bày của nguyên đơn để xác định thời gian đã trả lãi phù hợp.
4
Theo đơn khởi kiện, nguyên đơn yêu cầu tính lãi suất 20%/năm từ sau ngày
23/12/2023 đến ngày xét xử phù hợp với quy định của pháp luật nên chấp nhận.
Đối với giấy chứng nhận QSDĐ số DĐ66166, thuộc thửa đất số 13, tờ bản
đồ số 41, tọa lạc tại C, huyện T (nay T, tỉnh An Giang) do ông Đ đứng
tên, phía nguyên đơn đang giữ nên nguyên đơn có nghĩa vụ trả lại cho ông Đ.
Việc nguyên đơn tự nguyện rút lại một phần yêu cầu khởi kiện đối với số
tiền 200.600.000 đồng là phù hợp, nên đề nghị đình chỉ đối với yêu cầu rút này.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên
tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng:
[1.1] Ông Lữ Quốc V Nguyễn Thị Bảo Y khởi kiện yêu cầu ông
Nguyễn Văn Đ nghĩa vụ trả số tiền vay tranh chấp về “Hợp đồng vay tài
sản”. Đồng thời, bị đơn ông Nguyễn Văn Đ nơi cư trú tại xã C, huyện T, tỉnh
An Giang (nay T, tỉnh An Giang) nên Tòa án nhân dân khu vực 14 An
Giang thụ lý, giải quyết vụ án là đúng theo quy định tại khoản 3 Điều 26, điểm a
khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015, Điều
5, Điều 6 Nghị quyết 01/2025/NQ-HĐTP, ngày 27/6/2025 hướng dẫn áp dụng
một số quy định vtiếp nhận nhiệm vụ, thực hiện thẩm quyền của các Tòa án
nhân dân.
[1.2] Bị đơn không yêu cầu phản tố nên Hội đồng xét xử không đặt ra
để xem xét.
[1.3] Tại phiên tòa, ông Nguyễn Văn Đ đã được triệu tập hợp llần thứ hai
để tham gia phiên a nhưng vắng mặt không lý do chính đáng. Căn cứ điểm b
khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử
tiến hành xét xử vắng mặt ông Nguyễn Văn Đ.
[2] Về nội dung vụ án:
[2.1] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn
Căn cứ khoản 2 Điều 91 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015, đủ sở xác
định giữa ông Lữ Quốc V Nguyễn Thị Bảo Y xác lập hợp đồng vay tài
sản theo “Hợp đồng vay tiền ngày 11/6/2022” với số tiền vay 100.000.000 đồng
“Hợp đồng vay tiền ngày 23/10/2023” với số tiền vay 100.000.000 đồng.
Tuy nhiên, bị đơn ông Nguyễn Văn Đ chỉ thừa nhận đối với “Hợp đồng vay tiền
ngày 23/10/2023” với số tiền vay 100.000.000 đồng. Tại phiên a, nguyên đơn
đồng ý rút lại một phần yêu cầu, không khởi kiện khoản vay tiền ngày 11/6/2022
với s tiền vay là 100.000.000 đồng, chỉ yêu cầu ông Đ trả khoản vay ngày
23/10/2023 cùng lãi vay từ sau ngày 23/12/2023 đến ngày xét xử sơ thẩm.
Xét thấy, việc xác lập giao dịch dân sự giữa các đương sự hoàn toàn tự
nguyện, không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức hội, phù hợp quy
5
định tại Điều 463 Bộ luật Dân sự năm 2015 nên được pháp luật thừa nhận và bảo
vệ, đã phát sinh quyền nghĩa vụ của các bên theo hợp đồng đã giao kết. Quá
trình thực hiện hợp đồng, ông Nguyễn Văn Đ không thực hiện trả nợ như đã cam
kết, đã vi phạm nghĩa vụ trả nợ của bên vay theo quy định tại Điều 466 Bộ luật
Dân sự năm 2015 nên yêu cầu của ông Lữ Quốc V Nguyễn Thị Bảo Y về
việc buộc Nguyễn Văn Đ nghĩa vụ trả số tiền 100.000.000 đồng theo “Hợp
đồng vay tiền ngày 23/10/2023” là có sở sở, phù hợp với quy định của pháp luật
nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.
Đối với khoản vay 65.000.000 đồng 57.600.000 đồng, nguyên đơn yêu
cầu nhưng không cung cấp giấy tờ chứng minh, nên chỉ có căn cứ chấp nhận theo
sự thừa nhận nợ của bị đơn với số tiền 22.000.000 đồng, nguyên đơn không yêu
cầu lãi của khoản này nên chấp nhận.
Tại phiên tòa, nguyên đơn tự nguyện rút lại một phần yêu cầu trả tiền, nên
Hội đồng xét xử căn cứ theo quy định tại Điều 244 Bộ luật Tố tụng Dân sự, đình
chỉ xét xử đối với việc rút lại yêu cầu khởi kiện ông Đ về “Hợp đồng vay tiền
ngày 11/6/2022” với stiền vay 100.000.000 đồng tiền hụi 100.600.000
đồng.
[2.2] Về yêu cầu tính lãi: Theo “Hợp đồng vay tiền ngày 23/10/2023” với
số tiền vay là 100.000.000 đồng, các bên thoả thuận mức lãi suất 20%/năm, theo
nguyên đơn trình bày, ông Đ trả tiền lãi đến ngày 23/12/2023 nhưng ông Đ cho
rằng đã trả lãi đến tháng 4/2024 nhưng không cung cấp chứng cứ nên không đủ
sở xem xét. Do đó căn cứ vào Hợp đồng vay tiền ngày 23/10/2023 được ông
Đ thừa nhận nợ để xác định thời gian tính lãi phù hợp. Tại phiên tòa, nguyên
đơn yêu cầu tính lãi suất 20%/năm tsau ngày 23/12/2023 đến ngày xét xử
thẩm tính tròn tháng lãi căn cứ phù hợp với quy định của pháp luật nên
chấp nhận. Tính từ ngày 24/12/2023 đến ngày xét xử sơ thẩm là 01 năm 08 tháng
là 33.328.000 đồng.
[2.3] Như vậy, buộc ông Đ trả cho ông V, bà Y tổng số tiền 155.328.000
đồng (gồm tiền nợ vay gốc 100.000.000 đồng, lãi vay 01 năm 8 tháng là
33.328.000 đồng, tiền hụi 22.000.000 đồng) là phù hợp.
[2.4] Kể từ ngày bn án hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp
quan thi hành án quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày
đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải
trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản
tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn
phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự
năm 2015.
[2.5] Mặc ông Đ không thừa nhận bản chính Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất bản chính diện tích 954.3 m
2
, số GCN DĐ661667, số vào số cấp GCN:
CS09117, thuộc thửa đất số 13, tờ bản đồ số 41, tọa lạc C, huyện T, tỉnh An
Giang, do Sở Tài nguyên Môi trường tỉnh A cấp ngày 02/3/2022 cho ông
6
Nguyễn Văn Đ đã thế chấp cho ông V1, bà Y, nhưng qua đương sự cung cấp hiện
nay, ông Lữ Quốc V và Nguyễn Thị Bảo Y đang giữ bản chính giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất của ông Đ.
Xét thấy, ông V và Y giữ bản chính giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
của ông Đ để đảm bảo vay tài sản là không đúng quy định, cần buộc ông Lữ Quốc
V Nguyễn Thị Bảo Y giao trả lại bản chính Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất bản chính diện tích 954.3 m
2
, số GCN DĐ661667, số vào số cấp GCN:
CS09117, thuộc thửa đất số 13, tờ bản đồ số 41, tọa lạc C, huyện T, tỉnh An
Giang, do Sở Tài nguyên Môi trường tỉnh A cấp ngày 02/3/2022 cho ông
Nguyễn Văn Đ.
[3] Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Lữ Quốc V Nguyễn
Thị Bảo Y được chấp nhận nên không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.
Bị đơn phải chịu án phí dân sự thẩm, nhưng do ông Nguyễn Văn Đ
sổ hộ nghèo, cận nghèo do UBND C (cũ), huyện T, tỉnh An Giang cấp s
120/GCN-HN.HCN ngày 03/01/202 (nay UBND T, tỉnh An Giang) nên
được miễn án ptheo Ngh quyết s 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của
Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
[4] Về quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo Bản án theo
quy định tại Điều 271 và Điều 273 Bộ luật Tố tụng Dân sự.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào:
- Điều 463, 466, 468; khoản 2 Điều 357 Bộ luật Dân sự.
- Khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều
147, Điều 271, Điều 227, 228, 244, 273 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015, Điều
5, Điều 6 Nghị quyết 01/2025/NQ-HĐTP, ngày 27/6/2025 hướng dẫn áp dụng
một số quy định về tiếp nhận nhiệm vụ, thực hiện thẩm quyền của các Tòa án
nhân dân;
- Khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016
của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.
[1] Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, buộc ông Nguyễn Văn
Đ trả cho ông Lữ Quốc V bà Nguyễn Thị Bảo Y số tiền 155.328.000 đồng
(gồm tiền nợ vay gốc 100.000.000 đồng, lãi vay 33.328.000 đồng, tiền hụi
22.000.000 đồng).
[2] Đình chỉ xét xử đối với việc nguyên đơn rút lại yêu cầu khởi kiện ông
Đ về “Hợp đồng vay tiền ngày 11/6/2022” với số tiền vay 100.000.000 đồng
tiền hụi 100.600.000 đồng.
7
[3] Buộc ông Lữ Quốc V Nguyễn Thị Bảo Y trả lại bản chính Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất bản chính diện tích 954.3 m
2
, số GCN DĐ661667,
số vào số cấp GCN: CS09117, thuộc thửa đất số 13, tờ bản đồ số 41, tọa lạc xã C,
huyện T, tỉnh An Giang, do Sở Tài nguyên Môi trường tỉnh A cấp ngày
02/3/2022 cho ông Nguyễn Văn Đ.
[4] Về án phí: Hoàn trả lại cho ông Lữ Quốc V Nguyễn Thị Bảo Y số
tiền đã nộp 9.678.000 đồng theo biên lai số 0013015 ngày 11/02/2025 của Chi
cục Thi hành án Dân sự huyện Tri Tôn (nay là Phòng THADS khu vực 14 An
Giang). Miễn án phí dân sự sơ thẩm cho ông Nguyễn Văn Đ.
[5] Đương sự có mặt tại phiên tòa được quyn kháng cáo Bản án trong hạn
15 (mười lăm) ngày k t ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt tại phiên tòa được
quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được
Bản án hoặc Bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật
Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân
sự quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành
án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi
hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30
Luật thi hành án dân sự.
Nơi nhận:
- TAND tỉnh An Giang;
- VKSND tỉnh An Giang;
- VKSND khu vực 14 – An Giang;
- Phòng THADS khu vực 14 An Giang;
- Đương sự;
- Văn phòng;
- Lưu hồ sơ.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Trịnh Thị Ngọc Hà
Tải về
Bản án số 28/2025/DS-ST Bản án số 28/2025/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 28/2025/DS-ST Bản án số 28/2025/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất