Bản án số 28/2024/DS-ST ngày 24/09/2024 của TAND huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc về tranh chấp quyền sử dụng đất
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 28/2024/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 28/2024/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 28/2024/DS-ST
Tên Bản án: | Bản án số 28/2024/DS-ST ngày 24/09/2024 của TAND huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc về tranh chấp quyền sử dụng đất |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp quyền sử dụng đất |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND huyện Lập Thạch (TAND tỉnh Vĩnh Phúc) |
Số hiệu: | 28/2024/DS-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 24/09/2024 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Nguyễn Tiến Bình- Nguyễn Văn Tuân |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TÒA ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN LẬP THẠCH
TỈNH VĨNH PHÚC
Bản án số: 28/2024/DSST
Ngày 24 tháng 9 năm 2024
V/v Tranh chấp quyền sử dụng đất và yêu
cầu tháo dỡ tài sản trên đất
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LẬP THẠCH, TỈNH VĨNH PHÚC
Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: Bà Hoàng Thị Quỳnh
Các Hội thẩm nhân dân:
1. Ông Nguyễn Trung Thành
2. Bà Trần Thị Kim Khuyên
- Thư ký phiên toà: Bà Phan Minh Triều- Thư ký Toà án nhân dân huyện
Lập Thạch.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Lập Thạch tham gia phiên
tòa: Bà Vũ Thị Phương Thanh- Kiểm sát viên.
Ngày 24 tháng 7 và ngày 24 tháng 9 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân
huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý
số 46/2023/TLST-DS ngày 11 tháng 10 năm 2023 về việc Tranh chấp quyền sử
dụng đất và yêu cầu tháo dỡ tài sản trên đất, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử
số 46/2024/QĐXXST-DS ngày 11 tháng 4 năm 2024, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Nguyễn Tiến B, sinh năm 1972; trú tại: Thôn B, xã
Bắc Bình, huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc;
Người đại diện theo ủy quyền của ông B: Ông Nguyễn Tiến T, sinh năm
1972; địa chỉ: Thôn H, xã B, huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc, có mặt.
- Bị đơn: Ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1970; trú tại: Thôn B, xã B,
huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc, có mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
+ Ông Nguyễn Tiến T, sinh năm 1972; địa chỉ: Thôn H, xã B, huyện Lập
Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc, có mặt.
+ Bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1976; địa chỉ: Thôn H, xã B, huyện Lập
Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc.
Người đại diện theo ủy quyền của bà T: Ông Nguyễn Tiến T, sinh năm
1972; địa chỉ: Thôn Hữu P, xã B, huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc, có mặt.
2
+ Bà Lưu Thị H, sinh năm 1972; địa chỉ: Thôn B, xã B, huyện Lập Thạch,
tỉnh Vĩnh Phúc, có mặt.
+ Ủy ban nhân dân xã B; địa chỉ: Xã B, huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh
Phúc.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Phan Thế Đ- Chủ tịch Ủy ban nhân
dân xã Bắc Bình, vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện đề ngày 06 tháng 10 năm 2023 cùng các lời khai tiếp
theo nguyên đơn ông B và người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn ông T
(đồng thời là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người đại diện theo ủy
quyền của bà T thống nhất trình bày:
Gia đình ông B có thửa đất số 376 tờ bản đồ số 02, diện tích 140m
2
, địa
chỉ tại thôn B, xã B, huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc, đã được Ủy ban nhân
dân huyện Lập Thạch cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 13/4/2010.
Thửa đất này từ khi được cấp giấy chứng nhận gia đình ông B chưa sử dụng, có
cho ông H trồng cây. Thời gian gần đây ông B làm thủ tục chuyển nhượng thửa
đất trên cho anh trai là ông Nguyễn Tiến T (nhưng chưa làm thủ tục sang tên
theo quy định). Khi ông T đến nhận đất thì phát hiện gia đình ông Nguyễn Văn
T xây dựng chuồng trại lên diện tích đất nhà ông khoảng 70m. Ông đã yêu cầu
gia đình ông T tháo dỡ công trình để trả lại đất cho ông nhưng ông T không
đồng ý. Nay ông đề nghị ông T phải tháo dỡ công trình trả lại cho ông phần diện
tích đất đã lấn chiếm là 73,5m
2
theo hiện trạng đo đạc.
Bị đơn ông Nguyễn Văn T và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà
Lưu Thị H thống nhất trình bày: Về nguồn gốc thửa đất số 377 tờ bản đồ số 02
diện tích 140m
2
tại xã B, huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc, ông T bà H được
Nhà nước giao quyền sử dụng đất và được Ủy ban nhân dân huyện Lập Thạch
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 19/3/2008. Vợ chồng ông bà đã
xây dựng nhà và các công trình trên đất ở ổn định. Phía trước mặt thửa đất của
ông bà là quốc lộ 2C, chiều rộng thửa đất là 7m, sâu 20m và hành lang giao
thông là 10m. Phía sau thửa đất của ông B và ông T trước đây là đất khai hoang,
vợ chồng ông T bà D đã cải tạo đất để canh tác trồng trọt, sau đó không canh tác
nữa nên đã để lại cho vợ chồng ông T bà H sử dụng. Hiện nay ông T bà H có
xây dựng tường rào và chuồng trại chăn nuôi trên phần đất khai hoang này. Việc
xây dựng chuồng trại cũng như trồng trọt cây cối trên đất là vợ chồng ông T bà
H xây, các con của ông bà không liên quan gì. Khi xây dựng tường rào bao
quanh phần đất nhận lại của ông bà D- T thì ông H cũng biết nhưng không ý
kiến gì. Vợ chồng ông T bà H sử dụng toàn bộ phần diện tích đất từ khi nhận lại
của ông bà D Th cho đến nay không tranh chấp với ai. Nay ông B cho rằng vợ
chồng ông Tn bà H lấn chiếm đất nhà ông B là không đúng, ông T bà H không
đồng ý theo yêu cầu khởi kiện của ông B.
3
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Ủy ban nhân dân xã B đại diện là
ông Đ trình bày: Đối với phần diện tích đất mà ông T, bà H đã xây dựng chuồng
trại chăn nuôi phía sau diện tích đất của ông B, ông T là đất của UBND xã B
quản lý. Việc các hộ sử dụng lấn chiếm ra phần đất do UBND xã quản lý,
UBND xã sẽ giải quyết theo thủ tục hành chính đối với các hộ có lấn chiếm.
UBND xã không đề nghị giải quyết trong vụ án này.
Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Lập Thạch, tỉnh
Vĩnh Phúc phát biểu quan điểm về việc tuân theo các quy định tố tụng của Thẩm
phán về quá trình nhận đơn, thụ lý vụ án, thu thập chứng cứ đã thực hiện đúng
theo pháp luật tố tụng dân sự. Tại phiên tòa Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư
ký tòa án, người tham gia tố tụng đã tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật tố
tụng dân sự. Viện kiểm sát nhân dân huyện Lập Thạch không yêu cầu hay kiến
nghị gì. Nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, đã thực
hiện đúng các quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của Bộ luật tố tụng
dân sự.
Về đường lối giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận
yêu cầu khởi kiện của ông B về việc yêu cầu ông T bà H phải tháo dỡ công trình
đã xây dựng, trả lại diện tích đất đã lấn chiếm 73,5m
2
.
Về án phí và chi phí tố tụng: Các đương sự phải chịu theo quy định của
pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên
tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1]. Về thủ tục tố tụng:
- Quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết vụ án: Theo đơn khởi kiện
đề ngày 06/10/2023, ông B cho rằng quyền sử dụng thửa đất số 376, tờ bản đồ
số 02, diện tích 140m
2
, địa chỉ thửa đất tại thôn B, xã B, huyện Lập Thạch, tỉnh
Vĩnh Phúc đã được Uỷ ban nhân dân (UBND) huyện Lập Thạch cấp Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ) cho hộ ông Nguyễn Tiến B nên thuộc
quyền quản lý, sử dụng của hộ ông B. Nay ông T xây dựng trái phép trên đất của
ông B, lấn chiếm đất của ông B, do đó ông B khởi kiện đề nghị Toà án giải
quyết buộc ông Nguyễn Văn T phải trả lại diện tích 73,5m
2
đất, đồng thời yêu
cầu tháo dỡ toàn bộ công trình đã xây dựng trái phép. Ông T không đồng ý với
yêu cầu khởi kiện của ông B vì cho rằng không lấn chiếm đất của ông B, phần
diện tích đất ông T xây dựng chuồng trại chăn nuôi không phải là đất của ông B.
Như vậy, quan hệ pháp luật tranh chấp là "Tranh chấp quyền sử dụng đất và yêu
cầu tháo dỡ tài sản trên đất". Tài sản tranh chấp là bất động sản có địa chỉ tại xã
B, huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc nên căn cứ điểm a khoản 1 Điều 35, điểm c
khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của
Tòa án nhân dân huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc.
4
- Thời hiệu khởi kiện: Căn cứ Điều 155 Bộ luật dân sự và Điều 184, Điều
185 Bộ luật Tố tụng dân sự, đối với tranh chấp về quyền sử dụng đất thì không
áp dụng thời hiệu khởi kiện.
[2]. Về yêu cầu khởi kiện: Ông B khởi kiện yêu cầu ông T phải trả lại diện
tích đất đã lấn chiếm là 73,5m
2
tại thửa đất số 376, tờ bản đồ 02 ở địa chỉ thôn
B, xã B, huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc (đã được Ủy ban nhân dân huyện
Lập Thạch cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 13/4/2010 đứng tên hộ
ông Nguyễn Tiến B); buộc tháo dỡ các tài sản trên diện tích đất đã lấn chiếm. Bị
đơn ông T và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà H không đồng ý yêu cầu
khởi kiện của nguyên đơn vì cho rằng không lấn chiếm đất của nguyên đơn, diện
tích đất tranh chấp không phải đất của ông B.
Tòa án tiến hành xem xét thẩm định tại chỗ và xác định phần đất tranh
chấp có diện tích 73,5m
2
được giới hạn bởi các điểm (1,2,3,8,1) theo sơ đồ hiện
trạng thửa đất tại thửa đất số 376, tờ bản đồ 02 ở địa chỉ thôn B, xã B, huyện
Lập Thạch. Trên đất hiện có chuồng trại chăn nuôi, các công trình khác do ông
T bà H xây dựng trước khi xảy ra tranh chấp (2017-2018) và các cây trồng như
cây xưa, cây nhót, cây bơ ... do ông T bà H trồng. Hiện nay ông T và bà H đang
trực tiếp quản lý, sử dụng toàn bộ diện tích đất đang tranh chấp.
[2.1]. Về nguồn gốc đất tranh chấp: Cả nguyên đơn, bị đơn, người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đều thừa nhận: Diện tích đất đang tranh chấp trước
đây là khu vực Lò Gạch T, thuộc thôn B do Ủy ban nhân dân xã B quản lý.
Trong khoảng thời gian từ năm 2004 đến năm 2008, theo chủ trương của Ủy ban
nhân dân huyện Lập Thạch, UBND xã B tiến hành khảo sát, căn cứ vào nhu cầu
của các hộ trong địa phương chưa có đất ở để cắt đất bán cho người dân. Hộ ông
B được UBND xã B giao quyền sử dụng một ô đất khu vực Lò Gạch T và đã
được Ủy ban nhân dân huyện Lập Thạch cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất số “H” 01783/QSDĐ/ số 438/QĐ-UBND ngày 13/4/2010 địa chỉ thửa đất tại
khu vực Lò Gạch T, thôn B, xã B, huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc, diện tích
140m
2
; hộ ông T được UBND xã B giao quyền sử dụng một ô đất khu vực Lò
Gạch T và đã được Ủy ban nhân dân huyện Lập Thạch cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất số “H” 01505/QSDĐ/số 452/QĐ-UBND ngày 19/3/2008 địa
chỉ thửa đất tại khu vực Lò Gạch T, thôn B, xã B, huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh
Phúc, diện tích 140m
2
. Quá trình sử dụng đất các hộ đều sử dụng ổn định, không
có tranh chấp hay khiếu kiện gì. Đến khoảng năm 2022 mới xảy ra tranh chấp.
Xét thấy: Tại Biên bản xác minh ngày 30/5/2024 UBND xã B xác định:
Trước năm 2004 diện tích đất đang có tranh chấp thuộc khu vực Lò Gạch T,
thôn B, xã B do Ủy ban nhân dân xã B quản lý. Năm 2004-2008, theo chủ
trương của UBND huyện, tập trung đầu tư xây dựng đổi đất lấy hạ tầng, căn cứ
vào chủ trương đó của huyện, UBND xã B tiến hành khảo sát, căn cứ vào nhu
cầu của các hộ trong địa phương chưa có đất ở rồi UBND xã tiến hành quy
5
hoạch các vị trí trong đó có lô đất Lò Gạch T thuộc thôn B. Về quy hoạch tại
phần đất Lò Gạch T theo chủ trương giao 40m chiều sâu trong đó hành lang giao
thông 20m còn lại dân sử dụng 20m. Hộ ông B, ông T được giao mỗi hộ 07m
chiều rộng, 20m chiều dài. Theo VN2000, thửa đất số 376, tờ bản đồ số 02, diện
tích 140m
2
có chiều rộng 7m, dài 20m và 20m là hành lang giao thông. Vào
khoảng năm 2007-2008 trở đi, Ủy ban nhân dân xã có nghe nói về việc điều
chỉnh quy hoạch hành lang giao thông nhưng không nắm được chủ trương, nội
dung cụ thể. Theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho hộ ông Nguyễn
Tiến T ngày 19/3/2008; giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho hộ ông
Nguyễn Văn T ngày 19/3/2008; giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho hộ
ông Nguyễn Tiến B ngày 13/4/2010 thì quy hoạch hành lang giao thông là 10m
theo tỷ lệ 1/500.
Đối với phần diện tích đất mà ông T, bà H đã xây dựng chuồng trại chăn
nuôi phía sau thửa đất của ông B, ông T có diện tích 73,5m
2
là đất nông nghiệp
do Ủy ban nhân dân xã B quản lý, việc các hộ sử dụng lấn chiếm ra phần đất do
Ủy ban nhân dân xã quản lý thì Ủy ban nhân dân xã sẽ giải quyết theo thủ tục
hành chính đối với các hộ có lấn chiếm sau, Ủy ban xã không đề nghị giải quyết
trong vụ án này. Hội đồng định giá xác định giá đất nông nghiệp là
375.000đ/1m
2
. Như vậy phần diện tích đất 73,5m
2
đang có tranh chấp trị giá
27.562.500đ.
Về phía Phòng Tài nguyên và môi trường huyện Lập Thạch có cung cấp:
Trong trích lục bản đồ hiện trạng và thiết kế mặt bằng xin bổ sung quy hoạch sử
dụng đất khu vực Lò Gạch T, thôn B thể hiện các lô đất có hành lang giao thông
rộng 20m tính từ mặt đường quốc lộ 2C, tuy nhiên đến khi cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất cho hộ ông Nguyễn Văn T, ông Nguyễn Tiến T, hộ ông
Nguyễn Đức H (sau đó hộ ông H chuyển nhượng cho hộ ông Nguyễn Tiến B)
đều thể hiện hành lang giao thông 10m và tại mục “V- sơ đồ thửa đất” của cả ba
hộ đều được đo đạc theo tỷ lệ “1/500”. Theo quy định tại khoản 16 Điều 3 Luật
đất đai năm 2013, quy định: “16. Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở
hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất là chứng thư pháp lý để Nhà nước xác
nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở, tài sản khác gắn liền với đất hợp
pháp của người có quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và quyền sở hữu tài
sản khác gắn liền với đất”. Do vậy việc xác định hành lang giao thông đối với 03
thửa đất của 03 hộ ông B, ông T, ông T phải được xác định theo chứng thư pháp
lý là giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho 3 hộ ông B, ông T, ông T là
10m.
Như vậy, mặc dù năm 2005 quy hoạch sử dụng đất khu vực Lò Gạch T
với phần hành lang giao thông là 20m, nhưng sau đó nhà nước quy hoạch mở
rộng tuyến đường quốc lộ 2C đi V, đi B N, đi Tuyên Quang nên đã điều chỉnh
quy hoạch hành lang giao thông tại khu vực Lò Gạch T, thôn B, xã B là 10m và
6
điều này phù hợp như trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của cả ba hộ đã
được cấp là ông B, ông T, ông T đều thể hiện được đo đạc theo tỷ lệ 1/500, được
điều chỉnh quy hoạch hành lang giao thông là 10m.
Theo kết quả đo đạc ngày 15/12/2023 trên cơ sở chỉ dẫn của đương sự thể
hiện phần diện tích đất tranh chấp là 73,5m
2
được giới hạn bởi các điểm 1, 2, 3,
8, 1 theo bản vẽ có vị trí nằm phía ngoài thửa đất số 376, tờ bản đồ số 02, diện
tích được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là 140m
2
. Diện tích đo đạc
hiện trạng sử dụng do các đương sự chỉ dẫn là 247,9m
2
, phần diện tích nằm
trong hành lang giao thông là 107,9m
2
, phần diện tích các đương sự đang tranh
chấp có diện tích 73,5m
2
. Tuy nhiên căn cứ vào việc điều chỉnh quy hoạch của
UBND huyện Lập Thạch do Phòng Tài nguyên và Môi trường cung cấp thì thửa
đất số 376, tờ bản đồ số 02 có quy hoạch hành lang giao thông là 10m, phù hợp
với giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho hộ ông Nguyễn Tiến B, ông
Nguyễn Văn T. Do vậy thửa đất của hộ ông Nguyễn Tiến B vẫn giữ nguyên hiện
trạng, không bị lấn chiếm.
Từ những phân tích và nhận định nêu trên, Hội đồng xét xử thấy yêu cầu
khởi kiện của ông B là không có căn cứ chấp nhận.
Đối với việc ông T, bà H trình bày, phần diện tích đất đang có tranh chấp
73,5m
2
không phải là đất của ông B mà là đất của Ủy ban nhân dân xã B quản
lý, trước đó phần đất này là do ông bà D- T cải tạo và canh tác trồng trọt, sau đó
ông Tbà H đã hỗ trợ cho ông bà D- T công cải tạo đất và ông bà D- T đã để cho
ông T bà H sử dụng diện tích đất đó, như vậy phần diện tích đất 73,5m
2
mà các
đương sự đang tranh chấp là đất do UBND xã B quản lý, quá trình giải quyết vụ
án, Ủy ban nhân dân xã B không đề nghị giải quyết trong vụ án này, sẽ giải
quyết theo thủ tục hành chính đối với các hộ dân, do vậy Hội đồng xét xử không
xem xét giải quyết.
[5]. Về án phí và chi phí tố tụng:
- Về chi phí tố tụng: Do yêu cầu khởi kiện không được chấp nhận nên
nguyên đơn ông Nguyễn Tiến B phải chịu toàn bộ chi phí xem xét thẩm định và
định giá tài sản (xác nhận ông B đã nộp đủ chi phí tố tụng).
- Về án phí: Do yêu cầu khởi kiện của ông Bình không được chấp nhận nên
ông B phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định. Ông B phải nộp (73,5m
2
x
375.000đ/1m
2
= 27.562.500đ x 5% = 1.378.000đ.
Vì các lẽ trên!
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào Điều 26, Điều 35, Điều 39, Điều 147, Điều 157; Điều 165 của
Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Điều 160, 166 Bộ luật dân sự năm 2015, Điều
203 Luật đất đai năm 2013; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016
của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp,
quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.
7
1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Tiến B về việc
yêu cầu ông Nguyễn Văn T trả lại 73,5m2 đã lấn chiếm và tháo dỡ tài sản trên
phần đất lấn chiếm tại thửa đất số 376, tờ bản đồ 02 ở địa chỉ thôn B, xã B,
huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc (đã được Ủy ban nhân dân huyện Lập Thạch
cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 13/4/2010 đứng tên hộ ông
Nguyễn Tiến B).
2. Về chi phí xem xét thẩm định tại chỗ, định giá và đo đạc: Ông Nguyễn
Tiến B phải chịu 9.721.000đ, xác nhận đã nộp đủ.
3. Về án phí dân sự sơ thẩm:
Ông Nguyễn Tiến B phải chịu 1.378.000đ án phí dân sự sơ thẩm nhưng
được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000đ theo biên lai thu số
0001431 ngày 11/10/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lập Thạch.
Ông B còn phải nộp tiếp 1.078.000đ án phí dân sự sơ thẩm.
Ông Nguyễn Văn T không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.
4. Quyền kháng cáo: Đương sự có mặt có quyền kháng cáo bản án trong
thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Đương sự vắng mặt có quyền
kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể
từ ngày bản án được niêm yết theo quy định.
Nơi nhận:
- TAND tỉnh Vĩnh Phúc;
- VKSND huyện Lập Thạch;
- Chi cục THADS huyện Lập Thạch;
- Các đương sự;
- Lưu: HS- VP.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa
Đã ký
Hoàng Thị Quỳnh
Tải về
Bản án số 28/2024/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 28/2024/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 24/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 24/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 20/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 20/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 19/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 19/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 17/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 17/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 13/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 13/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 12/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 12/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 11/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 10/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 10/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 10/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 10/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 10/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 09/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
20
Ban hành: 09/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm