Bản án số 208/2024/DS-ST ngày 28/11/2024 của TAND TX. Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng về tranh chấp quyền sử dụng đất
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 208/2024/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 208/2024/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 208/2024/DS-ST
Tên Bản án: | Bản án số 208/2024/DS-ST ngày 28/11/2024 của TAND TX. Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng về tranh chấp quyền sử dụng đất |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp quyền sử dụng đất |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND TX. Vĩnh Châu (TAND tỉnh Sóc Trăng) |
Số hiệu: | 208/2024/DS-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 28/11/2024 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
1
TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
THỊ XÃ VĨNH CHÂU Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
TỈNH SÓC TRĂNG
Bản án số: 208/2024/DS-ST
Ngày: 28/11/2024
“V/v tranh chấp quyền sử dụng đất"
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ VĨNH CHÂU, TỈNH SÓC TRĂNG
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Dương Chiêu Hùng
Các Hội thẩm nH3 dân: Ông Trịnh Văn Lộc
Bà Nguyễn Thị Mỹ Hạnh
- Thư ký phiên tòa: Bà Nguyễn Hồng Nhi – Thư ký Tòa án nhân dân thị xã
Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng tham
gia phiên tòa: Bà Phạm Thị Diệp – Kiểm sát viên.
Ngày 28 tháng 11 năm 2024 tại trụ sở Toà án nH3 dân thị xã Vĩnh Châu, tỉnh
Sóc Trăng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 235/2022/TLST- DS ngày 07
tháng 12 năm 2022 về việc: “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 91/2024/QĐXXST-DS, ngày 06 tháng
6 năm 2024 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Bùi Ngọc H, sinh năm 1963 (có mặt)
Ông Sơn Thanh H1, sinh năm 1956. (vắng mặt)
Cùng địa chỉ: Địa chỉ: khóm T, phường H, thị xã VC, tỉnh Sóc Trăng.
Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn ông Sơn Thanh H1 là bà Bùi
Ngọc H, sinh năm 1963; Địa chỉ: khóm T, phường H, thị xã VC, tỉnh Sóc Trăng.
(có mặt)
- Bị đơn: Ông Nguyễn Văn C, sinh năm 1968; (vắng mặt)
Địa chỉ: khóm T, phường H, thị xã VC, tỉnh Sóc Trăng.
Bà Nguyễn Hồng N, sinh năm 1958; (vắng mặt)
Địa chỉ: khóm T, phường H, thị xã VC, tỉnh Sóc Trăng.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1/ Bà Sơn Ngọc H3, sinh năm 2002; Địa chỉ: khóm T, phường H, thị xã VC,
tỉnh Sóc Trăng.(có mặt)
2
2/ Ông Nguyễn Thanh S, sinh năm 1973; Địa chỉ: khóm T, phường H, thị xã
VC, tỉnh Sóc Trăng. ( vắng mặt)
3/ Bà Triệu Thu Y, sinh năm 1982; Địa chỉ: khóm T, phường H, thị xã VC,
tỉnh Sóc Trăng. (vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn khởi kiện đề ngày 09/12/2019 (BL11), các biên bản ghi lời khai
ngày 09/01/2020 (BL45), trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa sơ
thẩm, nguyên đơn bà Bùi Ngọc H trình bày: Bà Bùi Ngọc H và ông Sơn Thanh H1
có quyền sử dụng đất thửa số 98, tờ bản đồ số 23, diện tích 1.107,7m
2
đất tọa lạc
khóm T, phường H, thị xã VC, tỉnh Sóc Trăng được Sở Tài nguyên và Môi trường
tỉnh Sóc Trăng cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng số BV 416560 ngày 18/01/2018.
Nguồn gốc đất là nhận chuyển nhượng từ cậu bà H là ông Nguyễn Văn Đ vào năm
1999 (Hiện ông Đ đã chết). Vợ chồng bà H sử dụng đất từ năm 1999 đến năm 2001
mới đi đăng ký quyền sử dụng đất được Ủy ban nhân dân huyện VC (Nay là thị xã
VC) cấp quyền sử dụng đất vào năm 2001 thửa đất số 87, tờ bản đồ số 02 (Nay là
thửa đất thửa số 98, tờ bản đồ số 23, diện tích 1.107,7m
2
tọa lạc tại khóm T, phường
H, thị xã VC, tỉnh Sóc Trăng như đã nêu trên). Vị trí thửa đất: Hướng Đông giáp
đất ông Nguyễn Thanh H; bà Nguyễn Hồng N và ông Nguyễn Văn C; Hướng Tây
giáp tỉnh lộ 935; Hướng Nam giáp đất ông Nguyễn Thanh H; Hướng Bắc giáp diện
tích đất của bà Bùi Ngọc H.
Quá trình sử dụng đất thửa đất vợ chồng bà H đều cặm trụ đá để làm ranh đất
với những hộ có đất liền kề, phần đất của vợ cH1 bà H nằm phía ngoài giáp tỉnh lộ
935, còn đất ông Nguyễn Văn C và bà Nguyễn H1 N, ông Nguyễn Thanh H nằm
phía trong thửa đất của vợ chồng bà H, những hộ này đã tự ý chiếm diện tích đất
của vợ chồng bà H phía ngoài giáp tỉnh lộ 935 sử dụng. Cụ thể ông Nguyễn Văn C
đã lấn chiếm đất của vợ chồng bà H chiều dài 25,1 mét; chiều Ngang 4,5 mét, diện
tích 112,95m
2
. Bà Nguyễn Hồng N chiếm đất của vợ chồng bà H chiều dài 5 mét;
chiều Ngang 3,5 mét, diện tích 17,5m
2
. Sự việc tranh chấp đã có yêu cầu Ủy ban
nhân dân phường H hòa giải nhưng không thành.
Nay tại phiên tòa nguyên đơn bà Bùi Ngọc H cũng là người đại diện theo ủy
quyền của nguyên đơn ông Sơn Thanh H1 yêu cầu Tòa án giải quyết: Buộc bà
Nguyễn Hồng N trả lại cho bà H và ông H1 diện tích đất đã lấn chiếm theo kết quả
đo đạc thực tế là 14,5m
2
nằm trong thửa thửa số 98, tờ bản đồ số 23, tọa lạc tại khóm
T, phường H, thị xã VC, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do bà Bùi Ngọc H và
ông Sơn Thanh H1 đứng tên, do bà N đã xây dựng hàng rào nên yêu cầu trả lại bằng
giá trị theo kết quả định giá của Công ty TNHH định giá Đỉnh Vàng. Đối với ông
3
Nguyễn Văn C trước đây bà H và ông H1 có yêu cầu ông C trả lại diện tích đất đã
lấn chiếm theo kết quả đo đạc thực tế là 105,2m
2
nằm trong thửa thửa số 98, tờ bản
đồ số 23, tọa lạc tại khóm T, phường H, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do bà
Bùi Ngọc H và ông Sơn Thanh H1 đứng tên nay xin rút lại yêu cầu, không yêu cầu
Tòa án giải quyết đối với ông Nguyễn Văn C.
- Tại biên bản ghi lời khai ngày 01/4/2024 cũng như quá trình giải quyết vụ
án bị đơn ông Nguyễn Văn C trình bày: Ông C mua đất của ông T là mua đến mí lộ,
đất ông T đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, nếu phía trước là đất bà
H thì ông C không có mua, khi mua xong ông đã S lấp mặt bằng từ đất ruộng lên
đất bằng phẳng lúc đó gia đình bà H cũng không có ý kiến.
- Bị đơn bà Nguyễn Hồng N vắng mặt tại các buổi giải quyết của Tòa án nên
không có ý kiến trình bày.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Vĩnh Châu phát biểu ý
kiến: Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán và Hội đồng xét xử đã chấp hành
đúng pháp luật tố tụng dân sự. Từ khi Tòa án thụ lý vụ án đến tại phiên tòa hôm
nay, nguyên đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Sơn Ngọc H3 chấp
hành đúng theo quy định pháp luật. Bị đơn và những người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan còn lại chưa chấp hành đúng theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự,
còn vi phạm thời hạn chuẩn bị xét xử và cần xác định lại quan hệ pháp luật tranh
chấp, chứng cứ được thu thập đầy đủ, đảm bảo quyền lợi hợp pháp cho các đương
sự.
Về nội dung giải quyết vụ án: Qua xem xét các tài liệu, chứng cứ có trong hồ
sơ vụ án, lời trình bày của nguyên đơn, lời trình bày của bị đơn, lời trình bày của
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và các tài liệu, chứng cứ do Tòa án tiến hành
thu thập được: Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của
nguyên đơn về việc buộc bị đơn bà Nguyễn Hồng N trả lại phần đất đã lấn chiếm
có diện tích 14,5m
2
tại thửa 98, tờ bản đồ 23, tọa lạc tại khóm T, phường H. Đối với
bị đơn ông Nguyễn Văn C thì nguyên đơn đã xin rút lại yêu cầu khởi kiện nên cần
đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn đối với bị đơn ông Nguyễn
Văn C. Về chi phí tố tụng và án phí xử lý theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TOÀ ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên
tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng: Tòa án đã tống đạt hợp lệ Giấy triệu tập xét xử đến lần thứ hai
cho bị đơn ông Nguyễn Văn C và bà Nguyễn Hồng N và những người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Thanh S, bà Triệu Thu Y nhưng các đương sự vẫn
4
vắng mặt không có lý do. Hội đồng xét xử căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227, khoản
3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự xét xử vắng mặt các đương sự nêu trên theo
quy định pháp luật.
[2] Về quan hệ pháp luật tranh chấp: Khi thụ lý vụ án Tòa án xác định quan
hệ pháp luật tranh chấp là “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất”,
là chưa chính xác, trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa thấy rằng các bên
tranh chấp quyền sử dụng đất với nhau, nên Hội đồng xét xử xác định lại quan hệ
pháp luật tranh chấp là “Tranh chấp quyền sử dụng đất” cho phù hợp theo quy định
pháp luật.
[3] Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Theo đơn khởi kiện đề ngày 16/11/2022
nguyên đơn yêu cầu Tòa án giải quyết buộc các bị đơn trả lại phần đất đã lấn chiếm,
bị đơn và đất tranh chấp ở khóm T, phường H, thị xã VC, tỉnh Sóc Trăng. Căn cứ
vào khoản 9 Điều 26, điểm a khoản 1, Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật
Tố tụng Dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử xác định việc Tòa án nhân dân thị xã
Vĩnh Châu, thụ lý, giải quyết theo trình tự sơ thẩm là đúng quy định của pháp luật
về thẩm quyền giải quyết vụ án.
[4] Về nội dung: Qua các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ và lời trình bày
của các đương sự đã xác định được như sau:
Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn yêu cầu Tòa án giải quyết buộc bị đơn
bà Nguyễn Hồng N trả lại phần đã lấn chiếm theo đo đạc thực tế tổng diện tích là
14,5m
2
tại thửa đất số 98, tờ bản đồ số 23, đất tọa lạc khóm T, phường H, thị xã VC,
tỉnh Sóc Trăng.
[4.1] Về diện tích phần đất đang tranh chấp:
- Phần đất tranh chấp giữa nguyên đơn và bị đơn bà Nguyễn Hồng N là phần
đất nằm ở hai thửa đất là thửa số 98 của nguyên đơn và thửa số 29 của bị đơn, nhưng
theo nét ranh giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cũ cấp thì diện tích tranh chấp
nằm toàn bộ trong thửa đất số 29 của bị đơn N (thuộc một phần thửa 103, tờ bản đồ
số 02 cũ). Theo kết quả đo đạc, thẩm định của Tòa án thì phần đất tranh chấp có số
đo thực tế là 14,5m
2
, có tứ cận như sau:
- Hướng Đông giáp thửa 29, có số đo 5,35m.
- Hướng Tây giáp đường 935, có số đo 5,34m.
- Hướng Nam giáp phần đất còn lại của thửa 98, có số đo 2,51m.
- Hướng Bắc giáp phần còn lại của thửa đất 98, có số đo 2,91m.
Tổng diện tích: 14,5m
2
(loại đất trồng lúa nước).
Tài sản trên đất tranh chấp gồm: Hàng rào ngang 5,3m x dài hướng Bắc 2,9m,
dài hướng Nam 2,5m. Kết cấu: hàng rào tường xây cao 01m + khung sắt, cột bê
5
tông cốt thép, nền láng xi măng, cửa rào bằng sắt.
- Phần đất tranh chấp giữa nguyên đơn và bị đơn ông Nguyễn Văn C là phần
đất nằm ở hai thửa đất là thửa số 98 của nguyên đơn và thửa số 28 của bị đơn, nhưng
theo nét ranh giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cũ cấp thì diện tích tranh chấp
nằm một phần thửa 98 và một phần thửa số 28 bị đơn C (thuộc một phần thửa 103,
tờ bản đồ số 02 cũ). Theo kết quả đo đạc, thẩm định của Tòa án thì phần đất tranh
chấp có số đo thực tế là 105,2m
2
, có tứ cận như sau:
- Hướng Đông giáp thửa 28, có số đo 25,83m.
- Hướng Tây giáp đường tỉnh lộ 935, có số đo 23,71m + 1,73m.
- Hướng Nam giáp phần đất còn lại của thửa 98, có số đo 2,91m.
- Hướng Bắc giáp phần còn lại của thửa đất 98, có số đo 4,50m + 0,81m
Tổng diện tích: 105,2m
2
(loại đất trồng lúa nước).
Tại phiên tòa nguyên đơn và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Sơn
Ngọc H3 thống nhất với kết quả đo đạc, thẩm định phần đất tranh chấp có số đo
thực tế là 14,5m
2
và thống nhất với kết quả định giá tài sản của Công ty TNHH định
giá Đỉnh Vàng. Đối với bị đơn và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan còn
lại không ý có ý kiến gì về phần diện tích đất tranh chấp và kết quả định giá tài sản,
mặc nhiên các đương sự đã đồng ý với kết quả đo đạc và định giá mà Tòa án đã
Thông báo cho các đương sự biết.
[3.2] Xét về nguồn gốc phần đất tranh chấp: Nguyên đơn bà H cho rằng nguồn
gốc phần đất tranh chấp trước đây là nhận chuyển nhượng của cậu bà H là ông
Nguyễn Văn Đ (đã chết), nguyên đơn dựa vào giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
được cấp để làm cơ sở khởi kiện bị đơn đã lấn chiếm đất nguyên đơn. Còn phía bị
đơn N trình bày: Vào năm 2000 bà N có mua đất của ông Huỳnh Văn T (đã chết) là
đất ruộng giáp đến lộ nhựa cùng với ông Nguyễn Văn H, đến năm 2006 vợ ông T
mới bán phần đất cặp bà N về hướng Bắc cho ông D, ông D mua không sử dụng
mới chuyển nhượng lại cho ông Nguyễn Văn C, phần đất bà N, ông Hoàng, ông C
chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do khi mua là giấy tay, phần đất
này còn nằm trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của bà 7 T (Huỳnh Văn T,
Phạm Thị M) đối với phần đất bà N xây dựng hàng rào là đất của nhà nước vì khi
xây dựng hàng rào Ủy ban nhân dân phường H đã đến lập biên bản ngăn cản, sau
đó bà N có cam kết khi Nhà nước sử dụng đất sẽ tự tháo dỡ hàng rào và không yêu
cầu bồi thường (BL32).
[3.3] Xét về quá trình sử dụng đất thấy rằng: Phần đất tranh chấp có diện tích
14,5m
2
là phần ranh đất trước mặt nhà bà N cặp lộ 935, hiện nay bà N xây dựng
hàng rào trước nhà bà N cặp tỉnh lộ 935.
6
[3.4] Xét về hiện trạng phần đất tranh chấp: Hiện tại trên phần đất tranh chấp
là trước mặt nhà bị đơn N, nhà bị đơn đã xây hàng rào kiên cố, nguyên đơn cho rằng
khi bị đơn xây dựng hàng rào là lấn vô đất của nguyên đơn nên nguyên đơn yêu cầu
bị đơn N phải trả lại phần đất đã lấn chiếm.
[3.5] Xét về trình tự, thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất: Đối với
phần đất đã cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ bà Bùi Ngọc H và ông
Sơn Thanh H1 đứng tên trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được cấp năm
2018 tại thửa đất số 98, tờ bản đồ số 23 có tổng diện tích 1.107,7m
2
. Đối với đất của
bị đơn bà Nguyễn Hồng N vẫn chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Theo Công văn số 1829/STNMT-VPĐK ngày 10/7/2023 (BL142) trả lời căn
cứ vào giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền
với đất của hộ bà Bùi Ngọc H và ông Sơn Thanh H1 thì thời điểm cấp giấy chứng
nhận số BV 416560 do sở Tài nguyên và môi trường tỉnh Sóc Trăng ký ngày
18/01/2018 thuộc thửa đất số 98, tờ bản đồ số 23, diện tích 1.107,7m
2
có tiến hành
đo đạc hiện trạng thửa đất.
Theo Công văn số 1099/CNVC ngày 13/11/2023 (BL124) của Chi nhánh văn
phòng đăng ký đất đai thị xã Vĩnh Châu trả lời thửa đất 98, tờ bản đồ số 23, đất tọa
lạc tại khóm T, phường H, thị xã VC, tỉnh Sóc Trăng hiện nay đã chuyển nhượng
lại cho ông Nguyễn Thanh S và bà Triệu Thu Y đứng tên trên giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất số BV 416560 ngày 06/6/2023.
Theo biên bản xác minh ngày 05/3/2024, được bà Triệu Thu Y cho biết vào
ngày 29/5/2023 vợ cH1 bà Y có chuyển nhượng quyền sử dụng đất của bà Bùi Ngọc
H và ông Sơn Thanh H1 cùng với con là Sơn Ngọc H3, chuyển nhượng đến giáp
phần đất của ông Nguyễn Văn C.
Theo biên bản xác minh ngày 14/10/2024 được bà Phạm Thị M trình bày:
vào khoảng năm 2000 vợ chồng bà Mai (Phạm Thị M, Huỳnh Văn T) có chuyển
nhượng một phần đất cho bà Nguyễn Hồng N và ông Nguyễn Thanh H, thời điểm
chuyển nhượng quyền sử dụng đất thì gia đình bà M đã có giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất, hiện nay giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do ông Nguyễn Văn C
giữ, phần đất đang tranh chấp giữa bà H với bà N không ảnh hưởng quyền lợi của
gia đình bà M, vì bà M đã chuyển nhượng xong, thời điểm bà M chuyển nhượng đất
cho bà N với ông H là không có dính vào phần đất của bà H, phần đất bà H chỉ giáp
đến phần đất ông Nguyễn Văn C.
[4] Hội đồng xét xử xét thấy: Phía nguyên đơn cho rằng ranh đất của nguyên
đơn là toàn bộ phần đang tranh chấp có tổng diện tích 14,5m
2
là dính một phần đất
gắn liền với hàng rào nhà bà N, bị đơn xây dựng nhà và làm hàng rào thì nguyên
7
đơn không có ý kiến, chỉ có Ủy ban nhân dân phường H lập biên bản ngăn cản xây
dựng hàng rào trước mặt nhà bà N, sau đó bà N có cam kết khi nào Nhà nước trưng
cầu sử dụng sẽ tự tháo dỡ.
Theo đo đạc thực tế diện tích đất nguyên đơn đòi bị đơn N trả lại theo ranh
pháp lý đất nằm ngoài giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được cấp cho nguyên
đơn và hiện nay giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho nguyên đơn tại thửa
98, tờ bản đồ 23, địa chỉ thửa đất tại khóm T, phường H, thị xã VC, tỉnh Sóc Trăng
đã chuyển nhượng hết lại cho ông Nguyễn Thanh S và bà Triệu Thu Y được Văn
phòng đăng ký đất đai thị xã Vĩnh Châu chỉnh lý trang tư vào ngày 06/6/2023.
[4.1] Đối với tranh chấp đất cần phải xem xét quá trình sử dụng. Qua đo đạc
thực tế thì chiều Ngang trước mặt nhà bà N có số đo 5,35m, chiều dài hướng Nam
có số đo 2,51m, chiều dài hướng bắc có số đo 2,91m, hiện trang là hàng rào do nhà
bà N xây dựng vào khoảng năm 2019 khi đó Ủy ban nhân dân phường H có lập biên
bản do xây dựng hàng rào nằm trong hành lang lộ giới của tỉnh lộ 935 và hiện nay
thửa đất của nguyên đơn được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cũng đã
chuyển nhượng cho người khác, như vậy phía nguyên đơn cho rằng bị đơn lấn chiếm
diện tích 14,5m
2
là không có cơ sở để Hội đồng xét xử chấp nhận.
[4.2] Đối với phần đất tranh chấp với bị đơn Nguyễn Văn C thì vào ngày
11/6/2024 nguyên đơn có đơn xin rút lại một phần yêu cầu khởi kiện, không yêu
cầu Tòa án giải quyết với bị đơn C nên cần đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của
nguyên đơn là có cơ sở để Hội đồng xét xử chấp nhận.
Từ những phân tích nêu trên Hội đồng xét xử thấy yêu cầu khởi kiện của
nguyên đơn là không có căn cứ để Hội đồng xét xử chấp nhận.
[6] Về chi phí thẩm định, định giá tài sản là 10.638.000 đồng (mười triệu sáu
trăm ba mươi tám nghìn đồng) do yêu cầu của nguyên đơn không được chấp nhận
nên căn cứ vào khoản 1 Điều 157; khoản 1 Điều 165 Bộ luật Tố tụng dân sự năm
2015 thì nguyên đơn phải chịu, nguyên đơn đã thực hiện xong.
[5] Về án phí dân sự sơ thẩm: Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn không
được chấp nhận, nên nguyên đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm đối với yêu cầu
không được chấp nhận theo quy định của pháp luật. Nhưng do nguyên đơn là người
cao tuổi và có đơn xin miễn tạm ứng án phí nên căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 của
Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 thì nguyên đơn được miễn
án phí.
[7] Xét thấy đề nghị của vị Kiểm sát viên là có cơ sở, nên Hội đồng xét xử
chấp nhận.
Vì các lẽ trên.
8
QUYẾT ĐỊNH:
- Căn cứ khoản 9 Điều 26; Điểm a khoản 1 Điều 35; khoản 1 Điều 39; Khoản
4 Điều 91, Điều 147; khoản 1 Điều 157; Điều 158; Khoản 1 Điều 165; Điều 166;
Điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, khoản 2 Điều 244, Điều 271; Khoản
1 Điều 273; Điều 278 và khoản 1 Điều 280 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015.
- Căn cứ Điều 175 của Bộ luật dân sự năm 2015.
- Căn cứ khoản 47 Điều 3; Khoản 1 Điều 236 Luật đất đai năm 2024.
- Căn cứ điểm a khoản 2 Điều 27; Điểm đ khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết
số 326/2016/NQ-UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội.
Tuyên xử:
1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Sơn Thanh H1
và bà Bùi Ngọc H đối với bị đơn bà Nguyễn Hồng N về việc đòi lại quyền sử dụng
đất có số đo tứ cận như sau:
- Hướng Đông giáp thửa 29, có số đo 5,35m.
- Hướng Tây giáp đường 935, có số đo 5,34m.
- Hướng Nam giáp phần đất còn lại của thửa 98, có số đo 2,51m.
- Hướng Bắc giáp phần còn lại của thửa đất 98, có số đo 2,91m.
Tổng diện tích: 14,5m
2
(loại đất trồng lúa nước).
Tài sản trên đất tranh chấp gồm: Hàng rào Nng 5,3m x dài hướng Bắc 2,9m,
dài hướng Nam 2,5m. Kết cấu: hàng rào tường xây cao 01m + khung sắt, cột bê
tông cốt thép, nền láng xi măng, cửa rào bằng sắt.
2. Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Sơn Thanh H1,
bà Bùi Ngọc H đối với bị đơn ông Nguyễn Văn C phần đất tranh chấp có số đo tứ
cận như sau:
- Hướng Đông giáp thửa 28, có số đo 25,83m.
- Hướng Tây giáp đường tỉnh lộ 935, có số đo 23,71m + 1,73m.
- Hướng Nam giáp phần đất còn lại của thửa 98, có số đo 2,91m.
- Hướng Bắc giáp phần còn lại của thửa đất 98, có số đo 4,50m + 0,81m.
Tổng diện tích: 105,2m
2
(loại đất trồng lúa nước).
(Vị trí, số đo tứ cận của phần đất được thể hiện cụ thể trong sơ đồ kèm theo
bản án).
3. Về chi phí tố tụng là: 10.638.000 đồng (mười triệu sáu trăm ba mươi tám
nghìn đồng) nguyên đơn ông Sơn Thanh H1 và bà Bùi Ngọc H phải chịu, nguyên
đơn ông Sơn Thanh H1 và bà Bùi Ngọc H đã thực hiện xong.
4. Án phí dân sự sơ thẩm: Nguyên đơn ông Sơn Thanh H1 và bà Bùi Ngọc H
phải chịu án phí là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm không
9
có giá ngạch. Nhưng do ông H1 và bà H là người cao tuổi và có đơn xin được miễn
án phí nên ông H1 và bà H được miễn tiền án phí.
5. Về quyền kháng cáo bản án: Đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng
cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt tại phiên tòa
có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản
án được niêm yết hợp lệ, để yêu cầu Tòa án cấp trên xét xử lại theo thủ tục phúc
thẩm.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành
án dân sự năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014) thì người được thi hành án dân
sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu
thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại
các điều 6, 7, 7a và 9 của Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm
2014); thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi
hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014).
Nơi nhận:
- TAND tỉnh ST (Phòng KTNV&THA);
- VKSND thị xã Vĩnh Châu;
- Đương sự;
- Chi cục THADS thị xã Vĩnh Châu;
- Lưu HSVA.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN- CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Dương Chiêu Hùng
Tải về
Bản án số 208/2024/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 208/2024/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 24/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 24/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 24/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 20/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 20/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 19/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 19/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 17/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 17/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 17/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 13/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 13/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 12/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 12/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 11/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 10/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 10/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 10/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 10/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
20
Ban hành: 10/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm