Bản án số 498/2024/DSPT ngày 17/12/2024 của TAND tỉnh Cà Mau về tranh chấp quyền sử dụng đất
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 498/2024/DSPT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 498/2024/DSPT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 498/2024/DSPT
Tên Bản án: | Bản án số 498/2024/DSPT ngày 17/12/2024 của TAND tỉnh Cà Mau về tranh chấp quyền sử dụng đất |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp quyền sử dụng đất |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Cà Mau |
Số hiệu: | 498/2024/DSPT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 17/12/2024 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Không chấp nhận kháng cáo |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH CÀ MAU
Bản án số: 498/2024/DS-PT
Ngày 17 – 12 – 2024
V/v tranh chấp quyền sử dụng đất
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH CÀ MAU
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Dương Hùng Quang.
Các Thẩm phán: Bà Bùi Thị Phương Loan
Bà Châu Minh Hoàng.
- Thư ký phiên tòa: ông Nguyễn Trọng Bằng- Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh
Cà Mau Cà Mau.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau tham gia phiên toà: Bà
Phạm Thị Hồng Yến – Kiểm sát viên.
Ngày 17 tháng 12 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau xét xử
phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 401/2024/TLPT-DS ngày 15 tháng 10
năm 2024, về việc tranh chấp quyền sử dụng đất.
Do bản án dân sự sơ thẩm số: 279/2024/DS-ST ngày 04 tháng 9 năm 2024
của Tòa án nhân dân huyện Đầm Dơi bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 310/2024/QĐ-PT ngày
28 tháng 10 năm 2024 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Phan Văn M, sinh năm 1948. Địa chỉ cư trú: Ấp M, xã
N, huyện Đ, tỉnh Cà Mau.
Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Anh Phan Văn H, sinh năm
1989. Địa chỉ cư trú: Ấp M, xã N, huyện Đ, tỉnh Cà Mau. (có mặt).
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn:
Ông Quách Trọng P – Là Luật sư thuộc Chi nhánh Văn phòng L1 – Đoàn
Luật sư thành phố H (có mặt).
- Bị đơn: Bà Đinh Thị P1, sinh năm 1974. Địa chỉ cư trú: Ấp M, xã N, huyện
Đ, tỉnh Cà Mau.
Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn: Ông Nguyễn Xuân T, sinh năm
1969. Địa chỉ cư trú: Ấp M, xã N, huyện Đ, tỉnh Cà Mau - Văn bản ủy quyền ngày
04/01/2024 (có mặt).
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ có liên quan:
2
1. Bà Lê Thị S, sinh năm 1950. Địa chỉ cư trú: Ấp M, xã N, huyện Đ, tỉnh
Cà Mau (vắng mặt).
2. Anh Phan Văn H, sinh năm 1989. Địa chỉ cư trú: Ấp M, xã N, huyện Đ,
tỉnh Cà Mau (có mặt).
3. Chị Lưu Kim T1, sinh năm 1988. Địa chỉ cư trú: Ấp M, xã N, huyện Đ,
tỉnh Cà Mau (vắng mặt).
4. Ông Nguyễn Xuân T, sinh năm 1969. Địa chỉ cư trú: Ấp M, xã N, huyện
Đ, tỉnh Cà Mau (có mặt).
5. Chị Nguyễn Diễm T2, sinh năm 1998. Địa chỉ cư trú: Ấp M, xã N, huyện
Đ, tỉnh Cà Mau (vắng mặt).
6. Chị Nguyễn Thúy N, sinh năm 2000. Địa chỉ cư trú: Ấp M, xã N, huyện
Đ, tỉnh Cà Mau (vắng mặt).
7. Anh Nguyễn Chí T3, sinh năm 2005. Địa chỉ cư trú: Ấp M, xã N, huyện
Đ, tỉnh Cà Mau (vắng mặt).
- Người kháng cáo: Ông Phan Văn M là nguyên đơn trong vụ án.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
* Theo đơn khởi kiện của nguyên đơn, lời trình bày của đại diện theo ủy
quyền chị Phan Kim N1, thể hiện:
Năm 1965 ông Phan Văn M, bà Lê Thị S có tự khai phá phần đất tại ấp M,
xã N, huyện Đ, tỉnh Cà Mau, năm 1994 được cấp giấy chứng nhận số C 121843 tại
thửa số 82, 83, 84 tờ bản đồ số 12 có tổng diện tích 47.780m
2
và sử dụng cho đến
nay.
Phần đất ông M phía Đông giáp đất của ông Đinh Công Ý; ông Ý sử chuyển
nhượng một phần cho bà Đinh Thị P1 (con ông Ý) và phần còn lại sau đó ông Ý
cho ông Đinh Hữu Đ (cũng là con ông Ý); ông Đ sử dụng đến năm 2012 thì sang
nhượng lại cho bà P1. Hiện nay bà P1 quản lý, sử dụng toàn bộ phần đất của ông Ý
trước đây. Tháng 01/2023, giấy chứng nhận của ông M hết hạn sử dụng nên làm
thủ tục cấp lại, khi đo đạc bà P1 xác định phần bờ ranh giữa hai bên là của bà P1,
từ đó phát sinh tranh chấp nên ông M khởi kiện yêu cầu bà P1 trả lại phần bờ tranh
chấp là 334m
2
(ngang mặt tiền 01m, mặt hậu là 1 điểm, dài 668m). Do khi đo đạc
mới đo phần đất ông Ý sang mà chưa đo phần đất ông Đ sang cho bà P1 nên ông
M đã rút đơn khởi kiện để làm thủ tục khởi kiện lại và yêu cầu đo đạc toàn bộ phần
đất bà P1 đã sang.
Sau khi khởi kiện lại, Tòa án đã tiến hành xem xét, thẩm định lại; qua kết
quả thẩm định nguyên đơn yêu cầu xác định ranh giới giữa ông M, bà P1 theo các
vị trí anh H xác định khi đo đạc và yêu cầu gia đình bà P1 trả lại phần bờ tranh
chấp theo mảnh trích đo hiện trạng ngày 18/6/2024 tại thửa số 7 diện tích 71,1m
2
,
thửa số 8 diện tích 216,8 m
2
, thửa số 9 diện tích 144,1m
2
và thửa số 10 diện tích
17,2m
2
, tổng diện tích là 449,2m
2
. Thống nhất giá trị đất là 65.000 đồng/m
2
, các
cây trồng trên đất yêu cầu tự di dời, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
3
* Theo văn bản giải trình của bà Đinh Thị P1, lời trình bày trong quá trình
giải quyết vụ án và tại phiên tòa của ông Nguyễn Xuân T, thể hiện:
Trước đây, ông Đinh Công Ý có phần đất có hướng giápđất ông M; vào năm
2002 ông Ý sang nhượng một phần cho bà P1 (phía tiếp giáp đất của ông M)diện
tích 23.306m
2
bằng 15 lượng vàng 24k, đến ngày 27/01/2003bà P1 được cấp giấy
chứng nhận. Trong năm 2003 ông Ý1 cho ông Đinh Hữu Đ(con ông Ý) phần đất
còn lại, ông Đ làm thủ tục và được cấp giấy chứng nhận,sử dụng đến năm 2012 thì
sang nhượng lạicho bà P1, đến ngày 04/01/2013 bà P2 cấp giấy chứng nhận diện
tích 26.436m
2
. Hiện nay bà P1 quản lý, sử dụng toàn bộ phần đất của ông Ý trước
đây cùng với ông Nguyễn Xuân T (chồng) và các con, gồm: Nguyễn Diễm
T2,Nguyễn Thúy Ngoanvà Nguyễn Chí T3.
Phần giáp đất ông M ranh đất các bên đã sử dụng ổn định mỗi bên ½ bờ, khi
làm thủ tục cấp giấy chứng nhận cho bà P1 vào năm 2003 đã cắm trụ đá (hiện nay
còn 02 trụ) không có tranh chấp. Đầu năm 2023, ông M làm thủ tục chuyển tên cho
anh Phan Văn H (con ông M), khi đo đạc bà P1 xác định mỗi bên ½ bờ nhưng ông
M không đồng ý nên phát sinh tranh chấp và khởi kiện yêu cầu trả lại phần đất
ngang 1m, dài 668m từ tiền tới hậu (diện tích 668m
2
); sau khi có kết quả đo đạc,
Tòa án chuẩn bị đưa vụ án ra xét xử thì ông M rút yêu cầu khởi kiện và Tòa án
đình chỉ giải quyết vụ án.
Sau khi rút yêu cầu, ông M tiếp tục khởi kiện lại vẫn với nội dung như trên
nên bà P1 không đồng ý vì hai bên sử dụng ổn định mỗi bên ½ bờ từ trước đến nay
không tranh chấp, khi đo đạc cấp giấy cho bà P1 thì ông M có ký tên hộ giáp ranh
và đã cắm cột mốc từ năm 2002 đến nay không thay đổi vị trí. Ông T không chấp
nhận theo yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, ông T yêu cầu xác định ranh giới
giữa ông M, bà P1 theo các vị trí đã xác định khi đo đạc và thống nhất giá trị đất là
65.000 đồng/m
2
và các cây trồng trên đất tự di dời, không yêu cầu Tòa án giải
quyết.
* Lời trình bày trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa của anh
Phan Văn H, thể hiện: Thống nhất theo trình bày và yêu cầu của Luật sư Quách
Trọng P, không bổ sung gì thêm.
* Đối với bà Lê Thị S, chị Lưu Kim T1, chị Nguyễn Diễm T2, chị Nguyễn
Thúy N và anh Nguyễn Chí T3: Có đơn đề nghị xét xử vắng mặt và không có ý
kiến về việc giải quyết vụ án.
Tại bản án dân sự sơ thẩm số:279/2024/DS-ST ngày 04 tháng 9 năm 2024
của Tòa án nhân dân huyện Đầm Dơi tuyên Xử:
1. Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của Phan Văn M về việc yêu
cầu bà Đinh Thị P1 trả lại phần đất bờ tranh chấp tại ấp M, xã N, huyện Đ, tỉnh Cà
Mau, gồm: Thửa số 7 diện tích 71,1m
2
, thửa số 8 diện tích 216,8 m
2
, thửa số 9 diện
tích 144,1m
2
và thửa số 10 diện tích 17,2m
2
(tổng diện tích là 449,2m
2
) theo mảnh
trích đo hiện trạng ngày 18/6/2024 của Công ty TNHH P3.
4
2. Chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ: Ông Phan Văn M phải chịu
34.431.480 đồng (ba mươi bốn triệu bốn trăm ba mươi mốt nghìn bốn trăm tám
mươi đồng), ông M đã đối chiếu, thanh toán xong.
Ngoài ra án sơ thẩm còn tuyên về án phí quyền kháng cáo của các đương sự.
Ngày 18/9/2024, ông Phan Văn M kháng cáo yêu cầu cấp phúc thẩm sửa án
sơ thẩm theo hướng chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Ông cho
là không có ký giáp ranh với bà P1, bản đo vẽ ngày 04/4/2024 không có chữ ký
của ông D
Tại phiên tòa phúc thẩm: Đại diện nguyên đơn vẫn giữ nguyên đơn khởi
kiện và đơn kháng cáo; Đại diện bị đơn yêu cầu giữ nguyên bản án sơ thẩm
Luật sư tham gia tranh luận: Yêu cầu xem xét giám định chữ ký chữ viết của
ông M trong biên bản ranh giới, mốc giới năm 2002. Trường hợp không chấp nhận
yêu cầu này thì đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên
đơn.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau tham gia phiên toà phát biểu:
Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán trong quá trình giải quyết vụ án; của Hội
đồng xét xử và những người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng tại phiên tòa
đúng quy định pháp luật. Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 308 của
Bộ luật tố tụng dân sự, không chấp nhận kháng cáo của ông Phan Văn M. Giữ
nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Xét kháng cáo của ông Phan Văn M còn trong hạn luật định. Ông M yêu
cầu Tòa án cho giám định chữ ký, chữ viết ký giáp ranh của ông. Yêu cầu cấp phúc
thẩm sửa án sơ thẩm, theo hướng chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn.
Qua xem xét biên bản xác định ranh giới, mốc giới thửa đất năm 2002 có sai
sót về thủ tục hành chính và chữ ký, chữ viết trong biên bản là một trong các văn
bản trong hồ sơ để cấp giấy chứng nhận của bà P1, nhưng đây không phải là chứng
cứ xác định ranh giới quyền sử dụng đất giữa ông M và bà P1 nên không chấp
nhận yêu cầu của ông M và các Luật sư về nội dung này là phù hợp.
[2] Theo các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ thể hiện: Phần đất ông Phan
Văn M được Ủy ban nhân dân huyện Đ cấp giấy chứng nhận vào năm 1994 tại các
thửa 82, 83, 84 tờ bản đồ số 12 tổng diện tích 47.780m
2
(có cạnh hướng đông tiếp
giáp đất bà Đinh Thị P1).
Phần đất bà P1 gồm 02 phần đất, một phần được Ủy ban nhân dân huyện Đ
cấp giấy chứng nhận vào năm 2003 tại các thửa đất số 81, 80, 79 tờ bản đồ số 12
tổng diện tích 23.306m
2
(có cạnh hướng tây giáp ông M) và phần còn lại được cấp
giấy chứng nhận vào năm 2013 tại các thửa số 33, 66 tờ bản đồ số 8 tổng diện tích
26.436m
2
.
Ngày 04/4/2024 Tòa án tiến hành xem xét, thẩm định tại chỗ, phần đất tranh
chấp tại ấp M, xã N, huyện Đ. Theo mảnh trích đo hiện trạng ngày 18/6/2024 thì
phần đất tranh chấp tại các thửa, gồm: Thửa số 7 diện tích 71,1m
2
, thửa số 8 diện
5
tích 216,8 m
2
, thửa số 9 diện tích 144,1m
2
và thửa số 10 diện tích 17,2m
2
, tổng
diện tích là 449,2m
2
. Gia đình ông M đang quản lý, sử dụng (phần không tranh
chấp), gồm: Thửa số 1 diện tích 4.193,4m
2
và thửa số 2 diện tích 49.108,5m
2
; Gia
đình bà P1 đang quản lý, sử dụng (phần không tranh chấp), gồm: Thửa số 3 diện
tích 1.1701m
2
, thửa số 4 diện tích 21.271,6m
2
, thửa số 5 diện tích 746,9m
2
và thửa
số 6 diện tích 24.571m
2
.
[3] Quá trình xem xét, thẩm định tại chỗ và kết quả thẩm định gia đình ông
M và gia đình bà P1 thống nhất được ranh đất tại các vị trí M33, M39 các vị trí còn
lại không thống nhất (trong đó tranh chấp phần mặt tiền là 2,32m và phía hậu là
0,83m). Theo ông T, vị trí mặt tiền đã được cắm trụ bê tông từ năm 2002-2003 khi
ông Đinh Công Ý làm thủ tục chuyển tên cho bà P1 (hiện trụ đá vẫn còn) và trụ bê
tông này trùng với vị trí cây xà cừ mà gia đình ông M đã trồng từ trước. Theo anh
H xác định ranh đất của ông M cách vị trí ông T chỉ hướng qua đất bà P1 là 2,32m
(vị trí này chưa có điểm cố định).
Diện tích theo giấy chứng nhận của ông M là 47.780m
2
và của bà P1 (02
giấy) là 49.742m
2
; kết quả đo đạc (không tính phần tranh chấp) thì ông M sử dụng
53.301,9m
2
và bà P1 sử dụng là 48.290,5m
2
. Như vậy, phần đất thực tế ông M sử
dụng nhiều hơn trong khi bà P1 sử dụng ít hơn diện tích đất theo giấy chứng nhận.
[4] Xét thấy các bên đã sử dụng bờ đất ranh giới mỗi bên ½ từ lâu ổn định.
Khi cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không đac đạc thực tế chiều ngang,
dài của phần đất. Mặt khác, theo sổ theo dõi thu tiền làm lộ giao thông thể hiện
phần mặt tiền theo lộ xe của ông M là 120m và của bà P1 (ông T) là 91m nhưng
kết quả đo đạc (không tính phần tranh chấp) thì phần của ông M có chiều dài
121,24 m trong khi của bà P1 chỉ có 88,87m. Như vậy, phần mặt tiền theo lộ xe
của ông M nhiều hơn và của bà P1 thì ít hơn so với việc thực hiện nghĩa vụ nộp chi
phí làm lộ giao thông.
[5] Đối với các xác nhận của ông Trương Văn L, ông Trương Hoàng B, ông
Ngô Vũ X, ông Ngô Vũ N2, ông Huỳnh Văn Ấ thể hiện năm 2002 mặc dù được
Trưởng ấp M xác nhận nhưng chưa được Ủy ban nhân dân xã N xác nhận nhưng
các xác nhận này phù hợp với tài liệu, chứng cứ khác đã được thu thập nên Hội
đồng xét xử không chỉ căn cứ vào các xác nhận này mà còn phải xem xét, đánh giá
chứng cứ khác khi quyết định. Ranh đất giữa ông M và bà P1 do anh H xác định
không phù hợp với phần đất thực tế sử dụng nên việc ông M khởi kiện yêu cầu bà
P1 trả lại phần bờ tại các thửa số 7, 8, 9 và 10 diện tích 449,2m
2
theo mảnh trích đo
hiện trạng ngày 18/6/2024 là không có cơ sở, Án sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu
khởi kiện của nguyên đơn là phù hợp.
[6] Chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ: Do yêu cầu của ông M không được
chấp nhận nên ông M phải chịu.
Án phí dân sự sơ thẩm và phúc thẩm: Ông Phan Văn M phải chịu, do là
người cao tuổi thuộc trường hợp được miễn.
Vì các lẽ trên;
6
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 308, của Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy
định về án phí, lệ phí Tòa án.
Không chấp nhận kháng cáo của ông Phan Văn M.
Giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số 279/2024/DS-ST ngày 04 tháng 9 năm
2024 của Tòa án nhân dân huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau.
1.Tuyên xử:
Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của Phan Văn M về việc yêu cầu
bà Đinh Thị P1 trả lại phần đất bờ tranh chấp tại ấp M, xã N, huyện Đ, tỉnh Cà
Mau, gồm: Thửa số 7 diện tích 71,1m
2
, thửa số 8 diện tích 216,8 m
2
, thửa số 9 diện
tích 144,1m
2
và thửa số 10 diện tích 17,2m
2
(tổng diện tích là 449,2m
2
) theo mảnh
trích đo hiện trạng ngày 18/6/2024 của Công ty TNHH P3.
2. Chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ: Ông Phan Văn M phải chịu
34.431.480 đồng (ba mươi bốn triệu bốn trăm ba mươi mốt nghìn bốn trăm tám
mươi đồng), ông M đã thanh toán xong.
3. Án phí dân sự sơ thẩm và phúc thẩm: Do ông Phan Văn M là người cao
tuổi nên được miễn toàn bộ.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau;
- Tòa án nhân dân huyện Đầm Dơi;
- Chi cục THADS huyện Đầm Dơi;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ;
- Lưu án văn;
- Lưu VT(TM:TANDTCM).
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(Đã ký)
Dương Hùng Quang
7
Tải về
Bản án số 498/2024/DSPT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 498/2024/DSPT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 24/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 24/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 20/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 20/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 19/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 19/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 17/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 13/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 13/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 12/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 12/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 11/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 10/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 10/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 10/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 10/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 10/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 09/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 09/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm