Bản án số 28/2024/DS-PT ngày 29/09/2024 của TAND tỉnh Lào Cai về tranh chấp quyền sử dụng đất
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 28/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 28/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 28/2024/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 28/2024/DS-PT ngày 29/09/2024 của TAND tỉnh Lào Cai về tranh chấp quyền sử dụng đất |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp quyền sử dụng đất |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Lào Cai |
Số hiệu: | 28/2024/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 29/09/2024 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Lù A G = Lồ A T |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH LÀO CAI
Bản án số: 28/2024/DS-PT
Ngày 29 – 9 – 2024
V/v tranh chấp
quyền sử dụng đất
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH LÀO CAI
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Phùng Lâm Hồng
Các Thẩm phán: Ông Trần Văn Nghĩa
Ông Đặng Phi Long
- Thư ký phiên tòa: Bà Đoàn Khánh Nguyệt – Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh
Lào Cai
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Lào Cai tham gia phiên tòa: Bà
Nguyễn Thị Thu Hương – Kiểm sát viên.
Ngày 29 tháng 9 năm 2024, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố L, tỉnh
Lào Cai, Tòa án nhân dân tỉnh Lào Cai xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý
số: 27/2024/TLPT-DS ngày 16/8/2024 về việc: "Tranh chấp quyền sử dụng
đất”.
Do bản án dân sự sơ thẩm số 15/2024/DS-ST ngày 01 tháng 7 năm 2024
của Toà án nhân dân thị xã S, tỉnh Lào Cai bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 1584/2024/QĐPT-DS
ngày 18 tháng 9 năm 2024 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 1607/2024/QĐ-PT
ngày 24 thnáng 9 năm 2024 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Anh Lù A G
Địa chỉ: Thôn H, xã M, thị xã S, tỉnh Lào Cai. Có mặt.
Người đại diện theo ủy quyền: Anh Phạm Võ Văn P
Địa chỉ: Thôn K, xã Â, huyện H, tỉnh Bình Định. Có mặt
Bị đơn: Ông Lồ A T
Địa chỉ: Thôn H, xã M, thị xã S, tỉnh Lào Cai. Có mặt.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan với bên nguyên đơn: Ông Lù
A X
2
Địa chỉ: Thôn H, xã M, thị xã S, tỉnh Lào Cai. Có mặt.
Người đại diện theo ủy quyền: Anh Phạm Võ Văn P
Địa chỉ: Thôn K, xã Â, huyện H, tỉnh Bình Định. Có mặt
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan với bên bị đơn: Bà Tẩn Thị C
Địa chỉ: Thôn H, xã M, thị xã S, tỉnh Lào Cai. Có mặt.
Người kháng cáo: Anh Lù A G
Địa chỉ: Thôn H, xã M, thị xã S, tỉnh Lào Cai
NỘI DUNG VỤ ÁN
Nguyên đơn anh Lù A G và Người đại diện theo ủy quyền của nguyên
đơn trình bày:
Về nguồn gốc đất đang tranh chấp: Ông nội anh Lù A G là Lù A P khai phá
từ năm 1950 (anh G nghe bố anh kể lại), đến năm 1980 thì ông P cho bố đẻ anh
G là ông Lù A C toàn bộ diện tích đất trên để canh tác, ông Lù A C canh tác
thường xuyên đến năm 1995 thì ông T lên khu vực H làm rể do không có đất canh
tác nên ông T xin ông C 01 mảnh đất để làm nương (ông T là con chú, ông C là
con bác). Ông C nhất trí cho ông T mượn mảnh đất hiện nay đang tranh chấp có
vị trí giáp ranh giữa thôn Sả Xéng và phường S, có diện tích khoảng 700m². Ông
C cho ông T mượn đất hai bên không viết giấy tờ gì. Ông T canh tác, sử dụng đất
từ thời điểm năm 1995, sau đó ông C đã nhiều lần đòi lại đất nhưng ông T không
trả, vợ chồng ông C cao tuổi nên cho hai con trai Lù A G, Lù A X toàn bộ diện
tích đất đã cho ông T mượn trước đây, anh G, anh X đi gặp ông T để đòi đất nhiều
lần nhưng ông T không trả. Đến năm 2017, anh G và em trai Lù A X đến nhà ông
T để nói ông T trả lại hai anh diện tích đất trên nhưng ông T bảo anh G và anh X
cho ông mượn thêm để canh tác nên anh G và anh X đồng ý cho mượn thêm, tất
cả những lần đòi đất giữa anh G, anh X với ông T thì đều nói bằng miệng, không
viết giấy tờ gì, cũng không có người làm chứng đi cùng. Đến năm 2019 ông C
chết, ông T lại lấn sang đất của gia đình anh G. Đến năm 2021, ông T tranh chấp
thêm phần đất bên ngoài phía đường đi ở vách đá của nguyên đơn. Toàn bộ diện
tích đất tranh chấp ông T đang quản lý sử dụng thửa đất nương phía bên trong,
thửa đất đá giáp đường bên ngoài ông T sử dụng để đi, anh G trồng bí và khoai ở
thửa bên ngoài, từ ngày xảy ra tranh chấp thì không ai canh tác sử dụng toàn bộ
khu đất trên. Nguyên đơn không nhớ thời gian cũng như không nhớ cụ thể nội
dung nhưng nguyên đơn nhớ trước đây Ban Chỉ huy quân sự thị xã S có quy hoạch
đất để làm đất quốc phòng, bố nguyên đơn ông C bảo ông T không được ký mà
ông C mới được ký, nguyên đơn không biết nội dung cụ thể. Đất tranh chấp có 02
thửa:
Thửa đất nương phía bên trong có các mặt tiếp giáp như sau: Một mặt giáp
đất của ông Tẩn A P; Một mặt giáp đất phía bên trên của nguyên đơn; Một mặt
giáp với đường đi vào nương.
Thửa đất, đá bên ngoài có diện tích khoảng hơn 100m², có chiều rộng 9,1m,

3
chiều dài 15m, có các mặt tiếp giáp 1 mặt giáp đường bê tông đi phường S, một
mặt giáp đất ông Tẩn A P; Một mặt giáp với thửa đất số 1; Một mặt giáp đất của
nguyên đơn.
Nguyên đơn đề nghị Toà án nhân dân thị xã S xem xét giải quyết: Buộc ông
Lồ A T, bà Tẩn Thị C trả lại cho nguyên đơn toàn bộ diện tích đất đang tranh chấp
theo kết quả xem xét thẩm định đo đạc tại chỗ của Tòa án nhân dân thị xã S.
Bị đơn ông Lồ A T trình bày:
Về nguồn gốc đất: Năm 1979 Trung Quốc tàu họa (Chiến tranh biên giới
Việt – Trung năm 1979), hai vợ chồng ông chuyển khẩu từ L lên thôn H, xã H,
huyện S, tỉnh Lào Cai (nay là thôn H, xã M, thị xã S, tỉnh Lào Cai) để sinh sống.
Quá trình lên thôn H để sinh sống vợ chồng ông có khai phá và rào được 01 khu
đất để làm vườn canh tác trồng cây thuốc phiện, khi Nhà nước cấm trồng cây
thuốc phiện thì gia đình ông trồng rau su hào giống, trồng ngô, khoai, đậu đỗ…...
Đất có các mặt tiếp giáp như sau: 1 mặt giáp đất của ông Tẩn A P, 1 mặt giáp đất
của ông Lù A C (là bố đẻ của anh Lù A G và anh X); 1 mặt giáp với đường đi vào
nương. Khu đất vườn của gia đình bị đơn không đo đạc bao giờ nhưng ước tính
có tổng diện tích khoảng 650m².
Ngoài khu vườn trên thì vợ chồng ông còn khai phá thêm được một mảnh
đất, đá để làm đường đi vào khu vườn nêu trên có diện tích khoảng hơn 100m²,
có chiều rộng 9,1m, chiều dài 15 m, đường có các mặt tiếp giáp 1 mặt giáp đường
bê tông đi phường S, một mặt giáp đất ông Tẩn A P; một mặt giáp vườn của anh
Lù A G, 1 mặt giáp với thửa đất nương phía trong vợ chồng ông. Hàng năm vợ
chồng ông vẫn canh tác trồng ngô trên diện tích đất nương ngô bên trong, vợ
chồng ông sử dụng thường xuyên liên tục không bỏ năm nào. Phần diện tích đất
bên ngoài toàn bộ là đá, chỉ có một số hốc đất nên ông không canh tác mà sử dụng
để làm đường đi vào phần đất nương bên trong. Quá trình canh tác do nhận thức
pháp luật hạn chế, hơn nữa theo phong tục của người Mông thì ai làm ở đâu thì
cứ làm ở đó, không ai đến tranh chấp, cũng không đi tranh chấp với ai nên ông bà
không đi kê khai đo đạc địa chính, đăng ký quyền sử dụng đối với toàn bộ diện
tích đất trên.
Ngày 09/3/2022 anh Lù A G, Lù A X có hành vi cản trở không cho vợ
chồng ông sử dụng phần diện tích đường đi. Anh X đã mang lưới thép gai đi rào
phần đất đá làm đường đi của vợ chồng ông, vợ chồng ông không có đường đi
làm nương, anh G, anh X tự ý trồng cỏ voi vào diện tích đất nêu trên nhưng ông
không đồng ý nên đã nhổ bỏ cây cỏ voi, dỡ rào thép gai, vợ chồng ông vẫn sử
dụng diện tích đất trên để đi vào diện tích nương bên trong, ông T khẳng định vợ
chồng ông là người quản lý sử dụng toàn bộ diện tích đất tranh chấp, tuy nhiên từ
thời điểm tranh chấp do yêu cầu của các cơ quan có thẩm quyền nên cả hai bên
không ai được phép canh tác tại khu đất tranh chấp. Vụ việc đã được nhiều cấp
giải quyết nhưng hai bên không đạt được kết quả, đến nay anh G lại tiếp tục khởi
kiện vợ chồng ông đến Tòa án nhân dân thị xã S yêu cầu vợ chồng ông trả lại cho
4
anh Lù A G, Lù A X toàn bộ diện tích đất tranh chấp. Ông không đồng ý vì đó là
đất của vợ chồng ông
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan với bên nguyên đơn anh Lù A
Xúa trình bày:
Nhất trí với toàn bộ ý kiến của anh Lù A G, đề nghị Tòa án nhân dân thị xã S
giải quyết buộc ông Lồ A T, bà Tẩn Thị C trả lại cho anh G và anh X toàn bộ diện
tích đất tranh chấp theo kết quả xem xét, thẩm định đo đạc tại chỗ của Tòa án
nhân dân thị xã S.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vơi bên bị đơn bà Tẩn Thị C trình
bày:
Bà Tẩn Thị C nhất trí với lời trình bày của ông Lồ A T. Đề nghị Tòa án giải
quyết theo yêu cầu của ông Lồ A T.
Bản án dân sự sơ thẩm số 15/2024/DS-ST ngày 01/7/2024 của Tòa án nhân
dân thị xã S, tỉnh Lào Cai đã quyết định:
Căn cứ khoản 9 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm c khoản 1 Điều 39;
Khoản 1 Điều 147, khoản 1 Điều 157, 169, Điều 217, Điều 228 của Bộ luật tố
tụng dân sự; Điều 203 của Luật đất đai 2013; Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc
hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí
Tòa án. Tuyên xử:
1. Bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn anh Lù A G về việc yêu
cầu Tòa án giải quyết buộc ông Lồ A T và bà Tẩn Thị C trả lại cho anh Lù A G
và anh Lù A X toàn bộ diện tích 767m² đất (đã trừ 27,3m² đất hành lang giao
thông), đất thuộc tổ 01 phường Sa Pả, thị xã S, tỉnh Lào Cai. (Sơ đồ trích đo là
phần không thể tách rời bản án).
2. Về chi phí xem xét thẩm định tại chỗ: Nguyên đơn anh Lù A G phải chịu
1.500.000đồng tiền chi phí xem xét thẩm định đo đạc tại chỗ, người có quyền lợi và
nghĩa vụ liên quan anh Lù A X phải chịu 3.000.000đồng phải chịu 1.500.000đồng tiền
chi phí xem xét thẩm định đo đạc tại chỗ, nguyên đơn đã nộp 3.000.000đồng tiền tạm
ứng chi phí xem xét, thẩm định đo đạc tại chỗ, anh X phải trả cho anh G 1.500.000đồng
tiền chi phí xem xét thẩm định đo đạc tại chỗ.
Ngoài ra bản án còn tuyên về án phí, nghĩa vụ thi hành án và quyền kháng
cáo cho các đương sự.
Ngày 22/7/2024, nguyên đơn anh Lù A G kháng cáo toàn bộ bản án sơ
thẩm, đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm theo hướng chấp nhận
toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Tại phiên tòa phúc thẩm, ngưởi đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn và
nguyên đơn giữ nguyên nội dung kháng cáo; Bị đơn đề nghị Tòa án bác yêu cầu
khởi kiện của nguyên đơn. Người đại diện theo ủy quyền của người có quyền lợi
nghĩa vụ liên quan giữ nguyên quan điểm trong quá trình giải quyết.
5
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lào Cai phát biểu ý kiến:
Về việc chấp hành pháp luật tố tụng: Kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước
thời điểm Hội đồng xét xử nghị án thì Hội đồng xét xử, thư ký tòa án đã thực hiện
đúng theo trình tự, thủ tục tố tụng dân sự, những người tham gia tố tụng đều chấp
hành đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Về quan điểm giải quyết vụ án: Căn cứ khoản 2 Điều 308, Điều 309, Điều
148 Bộ luật Tố tụng dân sự, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng
12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Đề nghị Hội đồng xét xử phúc
thẩm Tòa án nhân dân tỉnh Lào Cai: Sửa bản án dân sự sơ thẩm số 15/2024/DS-
ST ngày 01 tháng 7 năm 2024 của Tòa án nhân dân thị xã S, tỉnh Lào Cai về án
phí dân sự sơ thẩm và nghĩa vụ chịu chi phí xem xét thẩm định tại chỗ. Tuyên án
phí, nghĩa vụ thi hành án theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Về hình thức đơn kháng cáo: Đơn kháng cáo của nguyên đơn anh Lù A
G có đầy đủ nội dung, đảm bảo thời hạn theo quy định tại Điều 272, 273 Bộ luật
Tố tụng dân sự.
[2] Xét kháng cáo của nguyên đơn
[2.1] Về thủ tục tố tụng của Tòa án cấp sơ thẩm:
Tại đơn kháng cáo đề ngày 22/7/2024, nguyên đơn Lù A G kháng cáo với
lý do Tòa án cấp sơ thẩm đã vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, gồm: Tự ý
thông báo hoãn phiên tòa (khi đương sự không được thông báo và không biết
ngày xét xử, sửa chữa thông báo hoãn phiên tòa không đúng theo Điều 268);
Tự giả mạo lời khai của nhân chứng (tại phiên tòa nhân chứng công khai cho
biết đó không phải là lời khai của nhân chứng); Sửa bản án không đúng quy
định; Trước khi xét xử không tổ chức phiên họp công khai chứng cứ và hòa
giải; Từ chối các nhân chứng do nguyên đơn cung cấp.
Hội đồng xét xử xét thấy, Tòa án cấp sơ thẩm đã ban hành thông báo về
phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải số
30/TB-TA ngày 16/4/2024 và tống đạt hợp lệ cho các đương sự. Ngày
23/4/2024, bị đơn ông Lồ A T có đơn đề nghị vắng mặt tại phiên họp kiểm tra
việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và đề nghị Tòa án không tiến hành
hòa giải. Tại phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ
ngày 25/4/2024, cả nguyên đơn và bị đơn vắng mặt, vì vậy Tòa án đã thông
báo kết quả phiên họp cho các đương sự là đúng theo quy định tại khoản 3 Điều
210 Bộ luật Tố tụng dân sự. Về trình tự, thủ tục hoãn phiên tòa có đầy đủ Biên
bản thảo luận, Biên bản phiên tòa sơ thẩm, Quyết định hoãn phiên tòa được
tống đạt hợp lệ, đầy đủ cho các đương sự theo quy định tại Điều 233 Bộ luật
Tố tụng dân sự. Về việc lấy lời khai của những người làm chứng được thực
hiện tại trụ sở Tòa án, có Thẩm phán, Thư ký Tòa án lấy lời khai, có người
phiên dịch đối với trường hợp người không nghe, viết, nói được tiếng Việt.
Biên bản lấy lấy lời có chữ ký, điểm chỉ xác nhận của các thành phần, đảm bảo
6
theo quy định tại Điều 99 Bộ luật Tố tụng dân sự. Hình thức Thông báo sửa
chữa, bổ sung bản án thực hiện chưa đúng quy định tại Mẫu số 53-DS (Ban hành
kèm theo Nghị quyết số 01/2017/NQ-HĐTP ngày 13 tháng 01 năm 2017 của Hội
đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao), tuy nhiên đã đảm bảo về nội dung theo
quy định tại Điều 268 Bộ luật Tố tụng dân sự. Từ những phân tích trên xét thấy
Tòa án cấp sơ thẩm đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự, đảm
bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự. Vì vậy kháng cáo của anh Lù A
G đề nghị tòa án cấp phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm là không có căn cứ nên không
được chấp nhận.
[2.2] Về nội dung vụ án:
- Về xác định diện tích đất tranh chấp: Theo Biên bản xem xét, thẩm định tại
chỗ ngày 03/4/2024 của Tòa án nhân dân thị xã S, tỉnh Lào Cai, các đương sự xác
định diện tích đất tranh chấp là 794,3m
2
, cụ thể: Hướng Đông giáp ranh đất ông
Lù A G, hướng Tây giáp ranh đất ông Lù A G, hướng Nam giáp ranhvới đường
liên thôn H đi xã M, hướng Bắc giáp ranh với ông Tẩn A M. Trong đó diện tích
đất tranh chấp gồm 02 thửa, thửa thứ nhất có diện tích 618,6m
2
, thửa thứ hai có
diện tích 175,7m
2
. Sau khi lồng ghép, kiểm tra trên hệ thống toàn bộ diện tích đất
tranh chấp theo sơ đồ đo đạc nằm ở khoảnh 2 lô 4 và khoảnh 2 lô 13 bản đồ diễn
biến rừng. Do đó, Tòa án xác định đất tranh chấp giữa anh Lù A G và ông Lồ A
T là 794,3m
2
gồm 02 thửa, thửa thứ nhất có diện 618,6m
2
, thửa thứ hai có diện
tích 175,7m
2
.
- Về nguồn gốc đất: Nguyên đơn xác định diện tích đất đang tranh chấp là
do ông Lù A C, bà Giàng Thị M cho các con Lù A G và Lù A X, việc tặng cho
không có giấy tờ và chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, chưa kê
khai đất đăng ký quyền sử dụng với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Nguyên
đơn cũng xác định trước đây ông C có nói lại với anh G và anh X về việc cho ông
T mượn đất để làm nương, sau này anh G và anh X nhiều lần đến đòi nhưng ông
T không trả đất. Việc đòi lại đất không có ai xác nhận hay được cơ quan có thẩm
quyền giải quyết. Nguyên đơn không cung cấp được tài liệu chứng cứ để chứng
minh nguồn gốc đất, người làm chứng đều là anh em, họ hàng với nguyên đơn
nên việc làm chứng không khách quan. Bị đơn, người có quyền lợi và nghĩa vụ
liên quan bà Tẩn Thị C xác định nguồn gốc đất tranh chấp do vợ chồng bị đơn
khai phá, kè rào đá để bảo vệ, làm ranh giới với các hộ xung quanh, bị đơn canh
tác sử dụng đất liên tục từ năm 197 đến nay không tranh chấp, sử dụng thửa đất
nương (thửa 01) để trồng cây ngắn ngày và sử dụng thửa đất bên ngoài (thửa 02
là tảng đá) để làm đường đi vào thửa đất nương. Người làm chứng ông Giàng A
T xác định nguồn gốc đất tranh chấp là do ông Lồ A T khai phá để canh tác,
khoảng trước năm 1979, ông C và ông T đều là người từ L lên khai đất để canh
tác, đất của ông C và ông T được ngăn cách với nhau bằng hàng rào đá (BL 38A
– 38B). Như vậy, Tòa án cấp sơ thẩm xác định nguồn gốc đất do ông T, bà Chư
khai phá là có căn cứ.
- Về quá trình sử dụng đất: Nguyên đơn xác định do ông Lù A C đã cho vợ
chồng ông T mượn thửa đất nương bên trong để trồng ngô (không rõ thời gian
7
nào) nên từ đó tới khi tranh chấp nguyên đơn không canh tác sử dụng đối với thửa
đất nương. Đối với thửa đất, đá bên ngoài nguyên đơn là người quản lý sử dụng
để trồng khoai, trồng bí và cây cỏ voi, khi cơ quan có thẩm quyền dựng cột điện
qua khu đất trên thì nguyên đơn được bồi thường tiền hoa màu trên đất. Vợ chồng
bị đơn thường đi qua đất nương của các hộ giáp ranh để vào thửa đất nương bên
trong canh tác, đến khi các hộ xung quanh cho thuê đất, bị đơn không có đường
đi nên đã sử dụng thửa đất, đá này để đi vào thửa đất nương ở bên trong và cho
người nhổ cây cỏ voi phá hàng rào dây thép gai đi để sử dụng đất. Bị đơn khẳng
định sau khi khai phá đất nương đã thực hiện kè rào đá cao để bảo vệ nương và
làm ranh giới với các hộ xung quanh, canh tác sử dụng liên tục không tranh chấp
từ năm 1979. Ngoài lối đi từ đường vào thửa đất, đá bên ngoài đi xuống thửa đất
nương thì bị đơn không còn lối đi nào khác.
Người làm chứng ông Giàng A T xác định toàn bộ diện tích đất trên là của
bị đơn khai phá và sử dụng, không tranh chấp với ai, anh em nguyên đơn không
canh tác sử dụng diện tích đất tranh chấp bao giờ. Đến thời điểm năm 2022 anh Lù
A X mới rào dây thép gai tại thửa đấp giáp đường đi và trồng bí vào các hốc đá tại
thửa đất đó. Người làm chứng cho nguyên đơn ông Lù A M, ông Má A D, ông Lồ
A C, ông Giàng A L, ông Lồ A N, bà Lù Thị S, ông Tẩn A M, ông Lồ A C đều khai
từ trước đến nay đều thấy ông Lồ A T và bà Tẩn Thị C là người canh tác sử dụng
thửa đất nương bên dưới, đối với thửa đất đá bên trên anh G canh tác, bị đơn có sử
dụng phần đất, đá giáp đường bên ngoài để đi và ngoài ra bị đơn trước đây còn đi
qua nương của các hộ giáp ranh để vào mảnh nương bên trong để canh tác. Người
làm chứng Lù A T là em trai của anh Lù A G, anh trai của Lù A X khai diện tích
đất tranh chấp là của ông C cho các con trai Lù A G và Lù A X. Trước đây anh
nghe ông C nói lại là ông cho vợ chồng ông T mượn để canh tác nên ông C và các
con không canh tác trên diện tích đất trên, mà vợ chồng ông T là người canh tác,
sử dụng đất, anh G trồng hoa màu ở diện tích đất giáp đường tại thửa đất tranh chấp
số 02, canh tác ở phần đất không có đá. Người làm chứng Giàng Thị M là mẹ đẻ
của anh Lù A G, Lù A X khai diện tích đất tranh chấp là do ông Lù A P bố chồng
bà khai phá rồi cho vợ chồng bà, sau này vợ chồng bà cho các con trai Lù A G và
Lù A X. Trước đây ông C cho vợ chồng ông T mượn để canh tác nên vợ chồng bà
và các con không canh tác trên diện tích đất trên, mà vợ chồng ông T là người canh
tác, sử dụng đất, tại phiên tòa bà M khẳng định không có việc quy hoạch đất tranh
chấp để làm đất quốc phòng mà trước đây đất đó là đất chỗ khác.
Tại văn bản số 06/DDSP – KHKT ngày 09 tháng 5 năm 2024 của Điện lực
thị xã S trả lời Tòa án nhân dân thị xã S vị trí cột điện số 07 thuộc đường dây
35kV mạch vòng S – H thuộc lộ 372 E20.54 được xây dựng tháng 12/2020 nằm
tại hành lang đường, không nằm trong diện tích đất tranh chấp, thời điểm thực
hiện dựng cột điện cơ quan điện lực có hỗ trợ tiền hoa màu cho anh Lù A G trồng
trên đất hành lang số tiền là 624.000đồng.
Như vậy có đủ căn cứ để xác định toàn bộ diện tích đất tranh chấp do bị
đơn khai thác sử dụng để canh tác trồng ngô, khoai và sử dụng làm đường đi là
có căn cứ. Cả nguyên đơn và bị đơn đều khẳng định từ khi khai phá đất để canh

8
tác đối với diện tích đất nương tại thửa đất tranh chấp số 1 đã được rào xung quanh
bằng hàng rào đá cao từ 50cm đến 1m, nếu bị đơn không đi qua thửa đất tranh
chấp số 2 xuống thửa đất số 1 để canh tác mà đi qua nương của các hộ giáp ranh
thì mỗi lần đi làm bị đơn phải trèo qua bờ rào đá là không hợp lý. Ngoài ra việc
nguyên đơn được hỗ trợ tiền hoa màu khi thực hiện dựng cột điện nhưng hoa màu
do nguyên đơn trồng là trồng trên phần đất hành lang giao thông của Nhà nước
chứ không phải trên diện tích đất tranh chấp hiện nay, tại thửa đất tranh chấp số
2, hiện trạng là tảng đá to, chỉ có một vài hốc đá nhỏ, không có đất nên việc nguyên
đơn khai từ trước đến thời điểm tranh chấp nguyên đơn canh tác sử dụng để trồng
hoa màu là không phù hợp.
Tại văn bản số 1414/UBND – TNMT ngày 08/5/2024 của Ủy ban nhân dân
thị xã S và văn bản số 151/UBND - ĐC của Ủy ban nhân dân phường S xác định
diện tích đất tranh chấp 794,3m2 chưa được đo đạc địa chính, chưa quy chủ sử
dụng cho ai, không nằm trong dự án quy hoạch chi tiết công trình, dự án nào trên
địa bàn phường S. Tại văn bản số 195/QLĐT - TH ngày 26/6/2024 của phòng
quản lý đô thị thị xã S xác định cạnh thửa số 14 và 15 của thửa đất số 2 của diện
tích đất tranh chấp giáp tuyến đường kết nối từ quốc lộ 4D qua bản Sả Séng đến
đường S - H (vị trí nằm ngoài ranh giới quy hoạch). Như vậy xác định thửa đất
tranh chấp giáp với đường ngoài đô thị, cấp đường có cấp thấp hơn cấp V, phạm
vi hành lang giao thông của đường là 4m, lồng ghép với sơ đồ xem xét thẩm định
xác định được diện tích hành lang giao thông đường chồng lên thửa đất tranh chấp
số 2 có diện tích là 27,3m². Tại thời điểm xem xét thẩm định của Tòa án thì trên
thửa đất trên không có tài sản, hoa màu.
- Việc kê khai, đăng ký quyền sử dụng đất: Nguyên đơn và bị đơn đều khai
nhận chưa thực hiện kê khai, đăng ký quyền sử dụng đối với toàn bộ diện tích đất
đang tranh chấp.
Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử xét thấy Tòa án cấp sơ thẩm xác
định về nguồn gốc đất, việc quản lý sử dụng, kê khai đăng ký quyền sử dụng đất
thì toàn bộ diện tích đất đang tranh chấp thuộc quyền sử dụng của vợ chồng bị
đơn ông Lồ A T là phù hợp. Trong thời gian chuẩn bị xét xử phúc thẩm và tại
phiên tòa, người kháng cáo không cung cấp được chứng cứ nào khác chứng minh
nội dung kháng cáo của mình là có căn cứ. Do đó kháng cáo của anh Lù A G
không được chấp nhận.
[5] Về án phí và chi phí tố tụng:
Về án phí sơ thẩm và chi phí xem xét thẩm định tại chỗ: Do yêu cầu khởi
kiện không được chấp nhận nên nguyên đơn anh Lù A G phải chịu án phí và chi
phí xem xét, thẩm định tại chỗ theo quy định. Bản án sơ thẩm buộc nguyên đơn
anh Lù A G và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan anh Lù A X (không có yêu
cầu độc lập) phải chịu 3.000.000 đồng tiền chi phí xem xét thẩm định đo đạc tại
chỗ, anh G đã nộp đủ số tiền trên đã nộp đủ số tiền trên, anh Lù A X phải trả cho
anh G 1.500.000 đồng tiền chi phí xem xét, thẩm định đo đạc tại chỗ, buộc anh
Lù A G và anh Lù A X mỗi người phải chịu 300.000đồng án phí dân sự sơ thẩm là
9
không đúng quy định tại khoản 1 Điều 147, khoản 1 Điều 157 của Bộ luật Tố tụng dân
sự; Khoản 3 Điều 26 Nghị Quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ
Quốc hội. Do đó cần sửa bản án dân sự sơ thẩm số 15/2024/DS-ST ngày 01/7/2024
của Tòa án nhân dân thị xã S, tỉnh Lào Cai về phần án phí và nghĩa vụ chịu chi
phí xem xét, thẩm định tại chỗ.
Về án phí phúc thẩm: Do bản án bị sửa về phần án phí và chi phí tố tụng
nên người kháng cáo không phải chịu án phí.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 2 Điều 308, Điều 309, Điều 148 Bộ luật Tố tụng dân sự.
1. Sửa một phần Bản án dân sự sơ thẩm số 15/2024/DS-ST ngày 01/7/2024
của Tòa án nhân dân thị xã S, tỉnh Lào Cai như sau:
Căn cứ khoản 9 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm c khoản 1 Điều 39;
Khoản 1 Điều 147, khoản 1 Điều 157, Điều 169, Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân
sự; Điều 203 của Luật đất đai 2013; Khoản 3 Điều 26 Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc
hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí
Tòa án.
- Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn anh Lù A G
về việc yêu cầu Tòa án giải quyết buộc ông Lồ A T và bà Tẩn Thị C trả lại cho
anh Lù A G và anh Lù A X toàn bộ diện tích 767m² đất (đã trừ 27,3m² đất hành
lang giao thông), đất thuộc tổ 01 phường S, thị xã S, tỉnh Lào Cai. (Sơ đồ trích đo
là phần không thể tách rời bản án).
- Về chi phí tố tụng: Nguyên đơn anh Lù A G phải chịu 3.000.000 đồng
(Ba triệu đồng) chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ. Xác nhận nguyên đơn đã nộp
đủ.
- Về án phí dân sự sơ thẩm: Anh Lù A G phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm
nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự
sơ thẩm đã nộp là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo giấy thu tiền tạm ứng án
phí, lệ phí Tòa án ngày 26/12/2023 ký bởi Công ty cổ phần thanh toán quốc gia
Việt Nam và biên lai số 0001541 ngày 01/02/2024 của Chi cục Thi hành án dân
sự thị xã S, tỉnh Lào Cai. Xác nhận anh Lù A G đã nộp đủ án phí.
2. Về án phí dân sự phúc thẩm: Nguyên đơn anh Lù A G không phải chịu
án phí phúc thẩm. Hoàn trả cho anh Lù A G số tiền tạm ứng án phí dân sự phúc
thẩm đã nộp là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo Biên lai thu tạm ứng án
phí, lệ phí Tòa án số 0001627 ngày 31/7/2024 của Chi cục Thi hành án dân sự thị
xã S, tỉnh Lào Cai.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật
Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án
10
dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi
hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7, 7a, và 9
Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại
Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Lào Cai (2);
- TAND TX. S;
- Chi cục THADS TX. S;
- Các đương sự;
- Lưu VT, HSVA.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Phùng Lâm Hồng
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 28/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 28/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 26/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 25/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 20/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 19/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 12/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 11/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 11/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 11/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 10/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 10/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Bản án số 152/2025/DS-PT ngày 10/03/2025 của TAND cấp cao tại TP.HCM về tranh chấp quyền sử dụng đất
Ban hành: 10/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 09/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 07/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 06/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 06/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 06/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Bản án số 144/2025/DS-PT ngày 06/03/2025 của TAND cấp cao tại TP.HCM về tranh chấp quyền sử dụng đất
Ban hành: 06/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
20
Ban hành: 06/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm