Bản án số 264/2025/HC-PT ngày 17/03/2025 của TAND cấp cao tại TP.HCM
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 264/2025/HC-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 264/2025/HC-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 264/2025/HC-PT
Tên Bản án: | Bản án số 264/2025/HC-PT ngày 17/03/2025 của TAND cấp cao tại TP.HCM |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND cấp cao tại TP.HCM |
Số hiệu: | 264/2025/HC-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 17/03/2025 |
Lĩnh vực: | Hành chính |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ án: | Bà Trần Thị M kiện Ủy ban nhân dân Quận Bình Th về Khiếu kiện quyết định hành chính và hành vi hành chính |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Bản án số: 264/2025/HC-PT
Ngày 17/3/2025
V/v: “Khiếu kiện Quyết định hành chính
Và hành vi hành chính”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Đặng Văn Ý
Các thẩm phán: Ông Phạm Văn Công
Ông Ngô Mạnh Cường
- Thư ký phiên toà: Bà Nguyễn Thị Thu Phương - Thư ký Tòa án nhân
dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh
tham gia phiên toà: Ông Phạm Công Minh - Kiểm sát viên.
Trong ngày 17 tháng 3 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại
Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hành chính thụ lý số
15/2025/TLPT-HC ngày 06 tháng 01 năm 2025, về việc: “Khiếu kiện quyết định
hành chính và hành vi hành chính”.
Do Bản án hành chính sơ thẩm số: 465/2024/HC-ST ngày 23 tháng 9 năm
2024 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 461/2025/QĐ-PT
ngày 24 tháng 02 năm 2025, giữa các đương sự:
- Người khởi kiện: Bà Trần Thị M, sinh năm 1948; cư trú tại: Số nhà 378
Bình Q, Phường 28, quận Bình Th, Thành phố Hồ Chí Minh; vắng mặt.
Người đại diện hợp pháp của bà M: Bà Nguyễn Thị Kim Ch, sinh năm
1970; cư trú tại: Số 104/60 đường Thành Th, phường 12, Quận 10, Thành phố Hồ
Chí Minh là người đại diện theo ủy quyền, theo Hợp đồng ủy quyền ngày
19/12/2023; có mặt.
- Người bị kiện: Ủy ban nhân dân Quận Bình Th.
Người đại hợp pháp của UBND quận Bình Th: Ông Đặng Minh Ng - Phó
chủ tịch, theo Giấy ủy quyền ngày 10/01/2025; có đơn xét xử vắng mặt.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị kiện:
Bà Ngô Thị H - Chuyên viên Phòng Tài nguyên và Môi trường quận Bình
Th; có mặt
2
Địa chỉ: Số 6 Phan Đăng L, p 14, quận Bình Th, Thành phố Hồ Chí Minh.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Ông Võ Duy H, sinh năm 1973; cư trú tại: 378/2 Bình Q, Phường 28,
quận Bình Th, Thành phố Hồ Chí Minh.
2. Bà Võ Thị Minh H, sinh năm 1976; cư trú tại: 378 Bình Quới, phường
28, quận Bình Th, Thành phố Hồ Chí Minh.
- Người kháng cáo: UBND quận Bình Th là người bị kiện trong vụ án.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
* Người khởi kiện trình bày:
Toàn bộ thửa đất số 25, tờ bản đồ số 10 tại 378 Bình Q, p 28, quận Bình Th
thuộc khuôn viên nhà do ông Trần Văn B và bà Mai Thị T nhận chuyển nhượng
của ông Nguyễn Văn T vào ngày 01/9/1972, với diện tích 724m
2
theo Chứng thư
đoạn mãi bất động sản được Ủy ban hành chính xã Thạnh Mỹ T vi chứng. Ngày
28/12/1977, bà Mai Thị T (mẹ ruột của bà M) có đăng ký kê khai nhà cửa đối với
phần đất nêu trên và được Ủy ban nhân dân phường 28 xác nhận, với diện tích đất
tư 720m
2
, diện tích xây cất 52m
2
, số hộ: 02 hộ, số người ở: 13 người. Ngày
02/03/1978, Ủy ban nhân dân phường 28 – Trưởng ban chỉ đạo kê khai đăng ký
nhà - ông Nguyễn Văn Ng đã cấp Giấy chứng nhận đã kê khai đăng ký nhà số 26
cho bà Mai Thị T. Ngày 09/01/2004 Trung tâm thông tin và đăng ký nhà đất
thành phố Hồ Chí Minh cũng đã xác nhận việc này.
Năm 1973, cha mẹ tặng cho bà M cùng chồng là ông Võ Thế H (việc tặng
cho không lập thành văn bản) một phần đất trong khuôn viên đất nêu trên, với
diện tích 185,1m
2
, vợ chồng bà M sinh sống tại nhà đất này từ đó đến nay. Ngày
30/01/2004, các anh chị em ruột của bà M ký tờ thỏa thuận, đồng ưng thuận cho
vợ chồng bà M nhà, đất theo lời nói miệng của cha mẹ bà M năm 1973 đối với
thửa đất số 25, tờ bản đồ số 10, diện tích 185,1m
2
theo bản vẽ sơ đồ nhà đất ngày
10/12/2003 và cam kết không tranh chấp với vợ chồng bà M.
Chồng bà M ông Võ Thế H đã nộp hồ sơ xin cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất nêu trên. Ngày 17/3/2017, Ủy ban nhân dân quận Bình Th cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với
đất cho vợ chồng bà M, giấy chứng nhận có số CH419267, số vào sổ cấp GCN:
CH01464, thông tin thửa đất được cấp Giấy chứng nhận: thửa đất số 25, tờ bản đồ
số 10, địa chỉ: 378 Bình Q, phường 28, quận Bình Th, thành phố Hồ Chí Minh,
diện tích: 100,6m
2
.
Sau khi nhận được Giấy chứng nhận này, nhận thấy diện tích được cấp ghi
trong giấy chứng nhận không đúng thực tế diện tích đất mà gia đình bà Mất đang
thực tế quản lý, sử dụng từ năm 1973 đến nay. Do đó, vợ chồng bà Mất đã gửi hồ
sơ đến Ủy ban nhân dân quận Bình Thạnh đề nghị công nhận thêm phần diện tích
nhà, đất chưa được công nhận tại Giấy chứng nhận quyền sử dụng số CH419267
là 84,4m
2
. Tuy nhiên, tại Văn bản 3346/UBND-TNMT ngày 03/10/2017, Ủy ban
nhân dân quận Bình Thạnh trả lời không đồng ý cấp bổ sung diện tích đất còn
3
thiếu. Từ năm 2017 đến nay, gia đình bà M cố gắng thu thập các tài liệu sử dụng
đất để hoàn thiện hồ sơ xin cấp giấy chứng nhận đối với phần 84,4m
2
. Năm 2023,
gia đình bà M tiếp tục nộp hồ sơ xin cấp giấy chứng nhận đối với phần đất còn
thiếu.
Ngày 13/11/2023, Ủy ban nhân dân quận Bình T có văn bản trả lời số
4518/UBND-TNMT về việc cấp giấy chứng nhận BN số: 1170/P.28/2023 có nội
dung từ chối cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài
sản khác gắn liền với đất cho bà M. Gia đình bà Trần Thị M đã sử dụng phần đất
84,4m
2
từ năm 1973, có xác nhận của Ủy ban nhân dân phường 28, việc sử dụng
đất ổn định, không có tranh chấp, đủ điều kiện cấp giấy chứng nhận theo quy định
tại Điều 20 Nghị định 43/2014/NĐ-CP. Bà Trần Thị M yêu cầu:
- Hủy Văn bản số 4518/UBND-TNMT ngày 13/11/2023 của Ủy ban nhân
dân quận Bình Th.
- Tuyên hành vi hành chính không cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
có diện tích 84,4m
2
thuộc thửa đất số 25, tờ bản đồ số 10 tại địa chỉ 378 Bình Q,
phường 28, quận Bình Th cho bà Trần Thị M là trái pháp luật.
- Buộc Ủy ban nhân dân quận Bình Thạnh xem xét cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất, đối với
phần đất có diện tích 84,4m
2
thuộc thửa đất số 25, tờ bản đồ số 10 tại địa chỉ 378
Bình Q, phường 28, quận Bình Th cho bà Trần Thị M.
* Người bị kiện trình bày:
Nhà đất tại số 378 Bình Q, P 28, quận Bình Th đã được Ủy ban nhân dân
quận Bình Th cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài
sản khác gắn liền với đất số CH419267 (số vào sổ CH01464) ngày 17/3/2017 cho
ông Võ Thế H và bà Trần Thị M, diện tích đất được công nhận: 100,6m
2
.
Năm 2023, bà Trần Thị M nộp hồ sơ đề nghị cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất đối với nhà đất
nêu trên. Hiện trạng thể hiện tại Bản vẽ sơ đồ nhà đất do Công ty TNHH Đo đạc
Thiết kế Xây dựng Liên Th lập ngày 19/3/2016 (được Chi nhánh Văn phòng đăng
ký đất đai quận Bình Th kiểm tra nội nghiệp ngày 05/9/2016, diện tích khuôn
viên đất: 185m
2
).
Theo xác nhận ngày 17/10/2023 của Ủy ban nhân dân P 28 tại đơn đề nghị
cấp giấy chứng nhận:
- Hiện trạng nhà đất đề nghị cấp giấy chứng nhận không phù hợp Bản vẽ sơ
đồ nhà đất do Công ty TNHH Đo đạc Thiết kế Xây dựng Liên Th lập ngày
19/3/2016: nới rộng tầng 2.
- Thời điểm tạo lập tài sản gắn liền với đất: từ sau ngày 01/7/2006.
Ngày 13/11/2023, Ủy ban nhân dân quận Bình Th có Văn bản số
4518/UBND-TNMT trả lời bà Trần Thị M với nội dung:
“Qua kiểm tra đối chiếu Bản đồ hiện trạng vị trí số 115376/ĐĐBĐ-VPTT
do Trung tâm đo đạc bản đồ lập ngày 18/3/2013, có đối chiếu ranh đất theo tài
4
liệu cũ: nhà đất tại số 378 đường Bình Q, p 28, quận Bình Th (diện tích: 185m
2
)
bao gồm phần diện tích: 100,6m
2
/185m
2
thuộc thửa phân chiết A/B-33 nêu trên;
phần diện tích còn lại: (185m
2
– 100,6m
2
) = 84,4m
2
nằm ngoài thừa phân chiết
A/B-33 (thuộc thửa số 33 và đường, tờ bản đồ thứ 12 – tài liệu cũ).
Theo Tài liệu 299/TTg của Thủ tướng Chính phủ: nhà đất đề nghị cấp giấy
chứng nhận thuộc thửa 205, tờ bản đồ số 2 do Trường Bình Q (nay là Trường
Trung học cơ sở Bình Quới T) đăng ký sử dụng.
Vị trí nhà đất thuộc một phần thuộc quy hoạch đất giáo dục, một phần
thuộc đường giao thông theo quy hoạch phân khu tỷ lệ 1/2000 Khu đô thị mới
Bình Q – Thanh Đ P 28, quận Bình Th được Ủy ban nhân dân Thành phố duyệt
theo Quyết định số 3408/QĐ-UB ngày 13/7/2015 (không phù hợp quy hoạch).
Một phần nhà đất nằm trong lộ giới đường Bình Quới (30m) được duyệt theo
Quyết định số 4963/QĐ-UB-QLĐT ngày 30/8/1999 của Ủy ban nhân dân Thành
phố.
Căn cứ Khoản 1 Điều 20 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014
của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật đất đai, Ủy ban
nhân dân quận Bình Th đã cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở
hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CH01464 ngày 17/3/2017 cho ông
Võ Thế H và bà Trần Thị M đối với nhà, đất tại số 378 Bình Q, P 28, quận Bình
Th, trong đó: công nhận diện tích đất 100,6m
2
nằm trong thửa A/B-33, chiết trên
lô B.33 thuộc sở đất số II đại bộ cũ, họa đồ số 33, tờ thứ 12 (tài liệu cũ) do bà
Mai Thị T và ông Trần Văn B (là cha, mẹ vợ của ông Võ Thế H) nhận chuyển
nhượng của ông Nguyễn Văn T theo Chúng thư đoạn mãi bất động sản được Ủy
ban hành chính xã Thạnh Mỹ T vi chứng ngày 01/9/1972; phần diện tích còn lại
(185m
2
– 100,6m
2
) = 84,4m
2
không đủ điều kiện công nhận do nằm ngoài thửa
phân chiết A/B-33 nêu trên (thuộc thửa số 33 và đường, tờ bản đồ thứ 12 – tài
liệu cũ) theo quy định tại Điều 22 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014
của Chính phủ.
Việc ông Võ Thế H đề nghị công nhận thêm phần diện tích nhà, đất chưa
được công nhận tại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và
tài sản khác gắn liền với đất số CH01464 ngày 17/3/2017 của Ủy ban nhân dân
quận Bình Th là không có cơ sở xem xét, giải quyết”.
Do đó, Ủy ban nhân dân quận Bình Th chưa có cơ sở giải quyết hồ sơ cấp
Giấy chứng nhận đối với nhà đất số 378 Bình Q, P28, quận Bình Th theo đề nghị
của bà Trần Thị M.
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Võ Duy H và bà Võ Thị Minh
H trình bày: Thống nhất với yêu cầu khởi kiện của bà Trần Thị M.
Tại Bản án hành chính sơ thẩm số: 465/2024/HC-ST ngày 23 tháng 9 năm
2024 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:
Căn cứ khoản 1 Điều 30, Khoản 4 Điều 32, Điều 115, Điều 116, Điều 158,
Điều 193 của Luật Tố tụng hành chính; Căn cứ Luật Đất đai năm 2013; Căn cứ
Nghị định số 43/2014/NĐ-CP; Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày
5
30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm,
thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Trần Thị M về:
- Tuyên hành vi hành chính của Ủy ban nhân dân quận Bình Th không cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có diện tích 84,4m
2
thuộc một phần thửa đất
số 25, tờ bản đồ số 10, tại địa chỉ: 378 Bình Q, p 28, quận Bình Th cho bà Trần
Thị M là trái pháp luật;
- Hủy Văn bản số 4518/UBND-TNMT ngày 13/11/2023 của Ủy ban nhân
dân quận Bình Th;
- Buộc Ủy ban nhân dân quận Bình Th thực hiện nhiệm vụ công vụ theo
quy định của pháp luật;
Hủy Văn bản 3346/UBND-TNMT ngày 03/10/2017 của Ủy ban nhân dân
quận Bình Th.
Ngoài ra bản án còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo theo luật định.
Ngày 29/10/2024 UBND quận Bình Th kháng cáo bản án sơ thẩm, yêu cầu
sửa bản án sơ thẩm; bác đơn khởi kiện của bà Trần Thị M.
Tại phiên tòa người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị kiện
trình bày: Diện tích 84,4m
2
thuộc một phần thửa 25, tờ bản đồ số 10, tại 378 Bình
Q, p 28, quận Bình Th là đất của Nhà nước quản lý giao cho Trường Bình Q Tây;
đến năm 2015 có quyết định của UBND Thành phố Hồ Chí Minh quy hoạch là
đất giao thông nên đất này không đủ điều kiện để cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất cho bà Mất. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận đơn kháng cáo của
UBND quận Bình Th, sửa bản án sơ thẩm theo hướng bác đơn khởi kiện của bà
Mất.
Người đại diện theo ủy quyền của bà M trình bày: Diện tích đất trên của
cha mẹ bà M tặng cho; bà Mất đã quản lý sử dụng và có nhà trên đất từ năm
1973 đến nay; đến năm 2015 mới có quy hoạch nhưng đến nay vẫn chưa thực
hiện; diện tích đất này thuộc khuôn viên nhà đất của bà Mất vào năm 2017 Nhà
nước đã cấp giấy một phần nhà đất diện tích 100,6m
2
, thửa đất số 25, tờ bản đồ
số 10, tại số 378 Bình Q, p28, quận Bình Th, thành phố Hồ Chí Minh. Diện tích
84,4m
2
của bà Mất sử dụng ổn định trước ngày 15/10/1993, tức là sử dụng đất
trước khi có quy hoạch nên đủ điều kiện cấp giấy theo quy định tại khoản 1 Điều
20 Nghị định số 43/2014. Đề nghị bác đơn kháng cáo của UBND quận Bình Th,
giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh trình
bày: Về thủ tục tố tụng, những người tiến hành tố tụng, các bên đương sự đã chấp
hành đúng quy định của Luật tố tụng hành chính. Về nội dung kháng cáo của
UBND quận Bình Th thì thấy: Diện tích 84,4m
2
bà M yêu cầu cấp giấy, do bà M
sử dụng trước năm 1975, đất nằm trong khuôn viên nhà đất của bà Mất, không
thuộc quyền sở hữu của Nhà nước, phù hợp với Biên bản thẩm định tại chỗ của
6
Tòa án cấp sơ thẩm. UBND quận Bình Th kháng cáo cho rằng đất không nằm
trong chứng thư đoạn mãi cha mẹ bà M mua, không nằm trong khuôn viên nhà
của bà M, thuộc đất thông hành địa dịch là chưa có cơ sở. Người bảo vệ quyền lợi
cho người kháng cáo cũng thừa nhận khi thu hồi đất Nhà nước sẽ xem xét bồi
thường nhưng cho rằng đất giao thông nên không cấp giấy cho bà M là không phù
hợp. Tòa án cấp sơ thẩm xét xử là có căn cứ nên đề nghị bác đơn kháng cáo của
UBND quận Bình Th, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
- Căn cứ các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn
cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa; Hội đồng xét xử nhận định:
[1]. Đơn kháng cáo của UBND quận Bình Th đúng quy định của pháp luật,
hợp lệ nên được xem xét theo trình tự phúc thẩm.
[2]. Ủy ban nhân dân quận Bình Th có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Căn cứ
vào quy định tại khoản 4 Điều 225 Luật Tố tụng hành chính, Tòa án cấp phúc
thẩm tiến hành xét xử vụ án.
[3]. Theo đơn khởi kiện và yêu cầu của bà Trần Thị M, Tòa án cấp sơ thẩm
xác định đây là quan hệ hành chính, về việc “Khiếu kiện quyết định hành chính
và hành vi hành chính”; đối tượng bị khiếu kiện là Văn bản số 3346/UBND-
TNMT ngày 03/10/2017 của UBND quận Bình Th và hành vi hành chính của
UBND quận Bình Th nên thời hiệu khởi kiện vẫn còn và thuộc thẩm quyền giải
quyết của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh theo quy định tại khoản 4
Điều 32, điểm a khoản 2 Điều 116 Luật Tố tụng hành chính năm 2015.
[4]. Xét kháng cáo của UBND quận Bình Th:
[4.1]. Theo tài liệu Chứng thư đoạn mãi bất động sản được Ủy ban hành
chính xã Thạnh Mỹ T vi chứng ngày 01/9/1972 thì cụ Nguyễn Văn Tân đã
chuyển nhượng cho cụ Trần Văn B và cụ Mai Thị T diện tích 724m
2
, thửa đất số
25, tờ bản đồ số 10, tại Bình Q, P 28, quận Bình Th.
[4.2]. Năm 1973, cụ Trần Văn B và cụ Mai Thị T tặng cho vợ chồng bà M,
ông H diện tích 185m
2
, một phần thửa đất số 25, tờ bản đồ số 10, tại Bình Quới, P
28, quận Bình Th; vợ chồng bà M, ông H đã quản lý, sử dụng và xây dựng nhà ở
trên đất; đến ngày 17/3/2017, UBND quận Bình Th cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cho vợ chồng bà
M, giấy chứng nhận có số CH419267, số vào sổ cấp GCN: CH01464, diện tích
100,6m
2
, một phần thửa đất số 25, tờ bản đồ số 10, tại số 378 Bình Q, P 28, quận
Bình Th, thành phố Hồ Chí Minh;
[4.3]. Theo tài liệu xác nhận của UBND Phường 28 (BN số 1170/2023) ghi
nhận: “Phần đất chưa được cấp giấy chứng nhận còn lại 84,4m
2
thuộc khuôn viên
nhà đất số 378 (số cũ 972A) đường Bình Q do bà Mai Thị T và ông Trần Văn B
(ba mẹ của bà M) nhận chuyển nhượng từ ông Nguyễn Văn Tân theo Chứng thư
đoạn mãi bất động sản ngày 01/9/1972. Năm 1977, bà T có đăng ký kê khai nhà
cửa. Ngày 08/7/2013, Công ty TNHH MTV Quản lý Kinh doanh nhà Thành phố
7
có Công văn số 1989/QLKDN-QLNO và Công văn số 528XM-DVCI ngày
13/7/2013 của Công ty TNHH Một thành viên Dịch vụ Công ích quận Bình Th với
nội dung nhà đất tại số 378 (số cũ: 972A) đường Bình Q, P 28 quận Bình Th
không thuộc danh sách nhà thuộc sở hữu Nhà nước do Công ty đang quản lý.
Đồng thời, theo Công văn số 391/TCKH ngày 06/6/2013 của phòng Tài chính Kế
hoạch và Công văn số 118/GDĐT ngày 26/4/2014 của phòng Giáo dục và Đào
tạo quận Bình Th: nhà đất tại số 378 (số cũ 972A) đường Bình Q, P 28 không có
trong danh sách nhà, đất thuộc Phương án xử lý, sắp xếp nhà đất của UBND
quận Bình Th theo Quyết định số 09/2007/QĐ-TTg ngày 19/01/2007 của Thủ
tướng Chính phủ; vị trí nhà đất nêu trên không nằm trong ranh đất và không
tranh chấp với trường Trung học Bình Quới T. Thời điểm sử dụng đất: Trước
15/10/1993”. Theo Biên bản hiện trạng vị trí nhà đất ngày 26/7/2024 của Tòa án
nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã xác định: phần đất 84,4m
2
, thuộc khuôn
viên nhà của bà M, trên phần đất này có một phần căn nhà của bà M, phần đất
này giáp ranh với Trường Bình Quới T, ranh đất cố định ngăn cách bởi tường
rào của Trường Bình Quới T.
[4.4]. Từ những tài liệu trên có đủ cơ sở để xác định diện tích đất còn lại
84,4m
2
, một phần thửa 25, tờ bản đồ số 10, tại 378 Bình Q, P 28, quận Bình Th
có nguồn gốc do cụ Nguyễn Văn T chuyển nhượng cho cụ Trần Văn Bảo và cụ
Mai Thị T theo Chứng thư đoạn mãi bất động sản ngày 01/9/1972, không phải là
đất thông hành địa dịch; vị trí đất thuộc khuôn viên nhà đất của bà M đã quản lý,
sử dụng ổn định từ năm 1973 (trước 15/10/1993) đến nay, trước khi có quy hoạch
là đất giáo dục và đất giao thông; theo Tài liệu 299/TTg phần đất này do Trường
Bình Quới T đăng ký nhưng không trực tiếp sử dụng, không thuộc ranh đất của
Trường Bình Quới T, không thuộc danh mục đất công do Nhà nước quản lý và
không có tranh chấp (kể cả Trường Bình Quới T). Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm căn
cứ khoản 1 Điều 20 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP quy định “1. Hộ gia đình, cá
nhân sử dụng đất có nhà ở, công trình xây dựng khác từ trước ngày 15 tháng 10
năm 1993; nay được Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất xác nhận không có tranh
chấp sử dụng đất; việc sử dụng đất tại thời điểm nộp hồ sơ đề nghị cấp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với
đất là phù hợp với quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch chi tiết xây dựng đô thị
hoặc quy hoạch xây dựng điểm dân cư nông thôn hoặc quy hoạch xây dựng nông
thôn mới đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt (sau đây gọi chung
là quy hoạch) hoặc không phù hợp với quy hoạch nhưng đã sử dụng đất từ trước
thời điểm phê duyệt quy hoạch hoặc sử dụng đất tại nơi chưa có quy hoạch thì
được công nhận quyền sử dụng đất”. Từ đó, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà
Trần Thị M về: Tuyên hành vi hành chính của UBND quận Bình Th không cấp
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có diện tích 84,4m
2
thuộc thửa đất số 25,
tờ bản đồ số 10 tại địa chỉ 378 Bình Q, Phường 28, quận Bình Th cho bà Trần Thị
M là trái pháp luật; hủy Văn bản số 4518/UBND-TNMT ngày 13/11/2023 của
UBND quận Bình Th; buộc UBND quận Bình Th thực hiện nhiệm vụ công vụ
theo quy định của pháp luật và hủy quyết định hành chính có liên quan là Văn
bản 3346/UBND-TNMT ngày 03/10/2017 của UBND quận Bình Th là có cơ sở.
8
[5]. Lời trình bày của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho UBND
quận Bình Th là không phù hợp. Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân
cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử
nên được chấp nhận. Không chấp nhận đơn kháng cáo của UBND quận Bình Th,
giữ nguyên bản án sơ thẩm và UBND quận Bình Th phải chịu án phí hành chính
phúc thẩm theo quy định tại khoản 1 Điều 34 Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức
thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
- Căn cứ khoản 1 Điều 241 Luật Tố tụng hành chính năm 2015.
I. Không chấp nhận đơn kháng cáo của Ủy ban nhân dân quận Bình Th; giữ
nguyên Bản án hành chính sơ thẩm số: 465/2024/HC-ST ngày 23 tháng 9 năm
2024 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh như sau:
Căn cứ khoản 1 Điều 30, khoản 4 Điều 32, điểm a khoản 2 Điều 116, Điều
158, điểm b khoản 2 Điều 193 Luật Tố tụng hành chính năm 2015; Căn cứ Điều
100 Luật Đất đai năm 2013; Căn cứ khoản 1 Điều 20 Nghị định số 43/2014/NĐ-
CP ngày 15/5/2014 của Chính Phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật
đất đai; Căn cứ khoản 2 Điều 32, khoản 1 Điều 34 Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy
định về mức thu, miễn giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Trần Thị M về:
- Tuyên hành vi hành chính của Ủy ban nhân dân quận Bình Th không cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có diện tích 84,4m
2
thuộc một phần thửa đất
số 25, tờ bản đồ số 10, tại địa chỉ: 378 Bình Q, P 28, quận Bình Th cho bà Trần
Thị M là trái pháp luật;
- Hủy Văn bản số 4518/UBND-TNMT ngày 13/11/2023 của Ủy ban nhân
dân quận Bình Th;
- Buộc Ủy ban nhân dân quận Bình Th thực hiện nhiệm vụ công vụ theo
quy định của pháp luật;
Hủy Văn bản 3346/UBND-TNMT ngày 03/10/2017 của Ủy ban nhân dân
quận Bình Th.
2. Về án phí hành chính sơ thẩm: Ủy ban nhân dân quận Bình Th phải chịu
án phí hành chính sơ thẩm là 300.000 đồng.
Hoàn lại cho bà Trần Thị M số tiền tạm ứng án phí hành chính sơ thẩm đã
nộp là 300.000 đồng theo Biên lai tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0031920 ngày
16/02/2024 của Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh.
9
II. Án phí hành chính phúc thẩm: Ủy ban nhân dân quận Bình Th phải chịu
300.000 (ba trăm nghìn) đồng và khấu trừ 300.000 đồng theo Biên lai thu số
0069336 ngày 25/11/2024 của Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh.
III. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
THÀNH VIÊN HỘI ĐỒNG XÉT XỬ THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Phạm Văn Công - Ngô Mạnh Cường Đặng Văn Ý
Nơi nhận:
- Tòa án nhân dân tối cao;
- VKSND cấp cao tại TP. Hồ Chí Minh;
- TAND TP. Hồ Chí Minh;
- VKSND TP. Hồ Chí Minh;
- Cục THADS TP. Hồ Chí Minh;
- Các đương sự;
- Lưu VP, HS, NTTP.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Đặng Văn Ý
10
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 28/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 28/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 28/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 28/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 27/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 27/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 27/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 26/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 26/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 26/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 26/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 26/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Bản án số 103/2025/DS-PT ngày 25/03/2025 của TAND cấp cao tại Đà Nẵng về tranh chấp hợp đồng hợp tác
Ban hành: 25/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 25/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 25/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 25/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 24/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 21/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 21/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
20
Ban hành: 21/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm