Bản án số 210/2025/HC-PT ngày 04/03/2025 của TAND cấp cao tại TP.HCM

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 210/2025/HC-PT

Tên Bản án: Bản án số 210/2025/HC-PT ngày 04/03/2025 của TAND cấp cao tại TP.HCM
Quan hệ pháp luật:
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND cấp cao tại TP.HCM
Số hiệu: 210/2025/HC-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 04/03/2025
Lĩnh vực: Hành chính
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ án: Căn cứ vào khoản 1 Điều 241 Luật Tố tụng hành chính năm 2015; Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của người khởi kiện bà Huỳnh Đặng Duyên N. Giữ nguyên Bản án hành chính sơ thẩm số 47/2024/HC-ST ngày 24/9/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre. Căn cứ khoản 1 Điều 158, điểm a Khoản 2 Điều 193; Khoản 1 Điều 348 Luật Tố tụng hành chính; Căn cứ Luật Đất đai năm 2013; Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai năm 2013; Nghị định số 148/2020/NĐ-CP ngày 18/12/2020 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số Nghị định quy định chi tiết một số điều của Luật Đất đai năm 2013; Nghị định số 47/2014/NĐ-CP ngày 15 tháng 5 năm 2014 của Chính phủ về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất; Quyết định số 29/2019/QĐ-UBND ngày 14/8/2019 của Ủy ban nhân dân tỉnh B ban hành quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Bến Tre; Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; Tuyên xử
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Bản án số: 210/2025/HC-PT
Ngày 04 tháng 3 năm 2025
V/v “Khiếu kiện quyết định hành chính
trong lĩnh vực quản lý đất đai”.
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa: bà Huỳnh Thanh Duyên
Các Thẩm phán: ông Lê Thành Long
bà Lê Thị Tuyết Trinh
- Thư ký phiên tòa: ông Nguyễn Trọng Tâm - Thư ký Tòa án nhân dân cấp
cao tại Thành phố Hồ Chí Minh.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh tham
gia phiên tòa: ông Đặng Quốc Hoàng - Kiểm sát viên.
Ngày 04 tháng 3 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành
phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hành chính thụ số:
1309/2024/TLPT-HC ngày 24 tháng 12 năm 2024 về việc “Khiếu kiện quyết định
hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai”.
Do Bản án hành chính thẩm số 47/2024/HC-ST ngày 24 tháng 9 năm
2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 43/2025/QĐPT ngày
10 tháng 02 năm 2025, giữa các đương sự:
1. Người khởi kiện: Bà Huỳnh Đặng Duyên N, sinh năm 1995 (vắng mặt);
Địa chỉ: Số D, khu phố F, phường P, thành phố B, tỉnh Bến Tre.
Người đại diện theo ủy quyền của người khởi kiện:
Đặng Thị M, sinh năm 1962 (có mặt);
Địa chỉ: Số D, khu phố F, phường P, thành phố B, tỉnh Bến Tre.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khởi kiện: Ông Võ Tấn
T Luật sư Văn phòng L thuộc Đoàn luật sư tỉnh B (có mặt).
Địa chỉ: Số A, N, khu phố A, phường H, thành phố B, tỉnh Bến Tre.
2. Người bị kiện:
2
- Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố B, tỉnh Bến Tre.
- Ủy ban nhân dân thành phố B, tỉnh Bến Tre.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Huỳnh Vĩnh K Chủ tịch (có mặt).
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị kiện:
+ Ông Nguyễn Văn C - Phó Trưởng phòng Tài nguyên Môi trường
thành phố B (có mặt).
+ Bà Nguyễn Thị Trúc M1 Giám đốc Trung tâm phát triển quỹ đất thành
phố B (vắng mặt).
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
Ông Dương Trần Thanh B, sinh năm 1994 (vắng mặt);
Địa chỉ: Số B, ấp P, xã P, huyện C, tỉnh Bến Tre.
Người đại diện theo ủy quyền của anh B:
Đặng Thị M, sinh năm 1962 (có mặt);
Địa chỉ: Số D, khu phố F, phường P, thành phố B, tỉnh Bến Tre.
- Người kháng cáo:
Người khởi kiện là bà Huỳnh Đặng Duyên N.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện ngày 04/4/2024, đơn khởi kiện sửa đổi, bổ sung ngày
11/6/2024, bản tự khai, biên bản phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công
khai chứng cứ tại phiên tòa, người đại diện theo ủy quyền của người khởi kiện
Huỳnh Đặng Duyên N là bà Đặng Thị M trình bày:
Vào ngày 06/9/2019, Ủy ban nhân dân thành phố B, tỉnh Bến Tre ban hành
Quyết định số 4266/QĐ-UBND về việc thu hồi diện tích đất 2.457m
2
, của hộ
Đặng Thị M (mẹ ruột bà Duyên N) để thực hiện Dự án Chỉnh trang khu dân
đô thị P”. Sau khi thu hồi, Ủy ban nhân dân thành phố B xét giao 03 nền tái định
đất thu tiền sử dụng đất gồm: hộ Đặng Thị M 01 nền; hộ ông Huỳnh
Đặng D (anh ruột Duyên N) 01 nền Duyên N 01 nền. Duyên N đã
làm đầy đủ các thủ tục xin giao đất ở theo hướng dẫn của các ngành chuyên môn
thuộc Ủy ban nhân dân thành phố B. Sau đó, Ủy ban nhân dân thành phố B ban
hành Quyết định số 598/QĐ-UBND ngày 17/02/2021 về việc giao đất có thu tiền
sử dụng đất cho bà Duyên N tại thửa đất số 238, tờ bản đồ số 46, diện tích 81m
2
,
đất ở tại đô thị, tọa lạc phường P, thành phố B, tỉnh Bến Tre. Ngày 13/4/2021, bà
Duyên N được Ủy ban nhân dân thành phố B cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất.
Đến ngày 07/12/2023, Ủy ban nhân dân thành phố B ban hành Quyết định
số 3655/QĐ-UBND về việc hủy Quyết định số 598/QĐ-UBND ngày 17/02/2021
về việc giao đất thu tiền sử dụng đất cho Duyên N, với do: hộ bà Huỳnh
Đặng Duyên N không đủ điều kiện giao đất có thu tiền sử dụng đất”, quyết định
không nêu căn cứ quy định pháp luật nào để chứng minh bà Duyên N không đủ
điều kiện giao đất.
3
Không đồng ý với Quyết định số 3655/QĐ-UBND ngày 07/12/2023 của
Ủy ban nhân dân thành phố B, Duyên N khiếu nại đến Chủ tịch Ủy ban nhân
dân thành phố B.
Ngày 18/3/2024, Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố B ban hành quyết
định số 973/QĐ-UBND không chấp nhận đơn khiếu nại của Duyên N, giữ y
nội dung Quyết định số 3655/QĐ-UBND ngày 07/12/2023 của Ủy ban nhân dân
thành phố B.
Ủy ban nhân dân thành phố B cho rằng, Duyên N không đủ điều kiện để
được giao nền tái định cư, do tại thời điểm cấp đất Duyên N chưa kết hôn theo
quy định tại Quyết định số 37/2017/QĐ-UBND ngày 18/7/2017 của Ủy ban nhân
dân tỉnh B, kể cả Quyết định số 29/2019/QĐ-UBND ngày 14/8/2019 của Ủy ban
nhân dân tỉnh B về việc ban hành Quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi
Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Bến Tre.
Bà Duyên N nhận thấy những lý do nêu trong Quyết định giải quyết khiếu
nại số 973/QĐ-UBND của Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố B là không đúng
quy định của pháp luật, bởi lý do:
Quyết định số 37/2017/QĐ-UBND ngày 18/7/2017 của Ủy ban nhân dân
tỉnh B không còn hiệu lực pháp luật kể từ ngày 26/8/2019 và được thay thế bằng
Quyết định số 29/2019/-UBND ngày 14/8/2019 của Ủy ban nhân dân tỉnh B
về ban hành Quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định trên địa bàn tỉnh Bến Tre.
Trong khi đó, Quyết định số 598/QĐ-UBND của Ủy ban nhân dân thành phố B
ban hành ngày 17/02/2021 thì không thể áp dụng Quyết định số 37/2017/QĐ-
UBND (đã hết hiệu lực pháp luật) để giải quyết khiếu nại.
Mặt khác, Quyết định số 29/2019/QĐ-UBND ngày 14/8/2019 của Ủy ban
nhân dân tỉnh B mà Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố B đề cập cũng không có
quy định người được bố trí nền tái định cư phải có giấy đăng ký kết hôn.
Tại điểm d khoản 1 Điều 26 của Quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định
cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Bến Tre (Ban hành kèm theo Quyết
định số 29/2019/QĐ-UBND ngày 14/8/2019 của Ủy ban nhân dân tỉnh B) về đối
tượng, điều kiện được bố trí nền tái định cư quy định:
“d/ Trường hợp trong hộ gia đình mà trong hộ nhiều thế hệ, nhiều cặp
vợ chồng cùng chung sống trên một thửa đất thu hồi nếu đủ điều kiện để tách
thành từng hộ gia đình riêng theo quy định của pháp luật về cư trú hoặc có nhiều
hộ gia đình chung quyền sử dụng một thửa đất thu hồi mà không chỗ
(nhà ở và đất ở) nào khác trên địa bàn xã, phường, thị trấn nơi có đất thu hồi”.
Bà Duyên N thuộc thế hệ thứ hai trong hộ gia đình của hộ bà Đặng Thị M,
cùng chung sống trên một thửa đất thu hồi (đã thu hồi 300m
2
đất tại đô thị),
đủ điều kiện tách hộ gia đình riêng, không chỗ nào khác trên địa bàn
phường P nơi có đất bị thu hồi. Như vậy, Duyên N có đủ điều kiện được bố trí
tái định cư.
4
Việc Ủy ban nhân dân thành phố B ban hành Quyết định số 3655/QĐ-
UBND ngày 07/12/2023 về việc hủy Quyết định số 598/QĐ-UBND ngày
17/02/2021 của Ủy ban nhân dân thành phố B Quyết định số 973/QĐ-UBND
ngày 18/3/2024 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố B về việc không công
nhận đơn khiếu nại của bà Duyên N là không đúng pháp luật.
Vì vậy, bà Duyên N yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre giải quyết: Hủy
Quyết định số 3655/QĐ-UBND ngày 07/12/2023 của Ủy ban nhân dân thành phố
B, tỉnh Bến Tre và hủy Quyết định số 973/QĐ-UBND ngày 18/3/2024 của Chủ
tịch Ủy ban nhân dân thành phố B, tỉnh Bến Tre.
Theo Văn bản s2786/UBND-NC ngày 02/8/2024 của Ủy ban nhân dân
thành phố B trình bày:
Ngày 06/9/2019, Ủy ban nhân dân thành phố B ban hành Quyết định số
4226/QĐ-UBND vviệc thu hồi đất do hộ Đặng Thị M (mẹ Duyên N) để
thực hiện dự án Chỉnh trang khu dân đô thị P. Hộ Đặng Thị M bị thu hồi
diện tích 2.455m
2
trong đó 100m
2
đất nông thôn 2.355m
2
đất cây lâu năm,
thuộc thửa đất số 125, tờ bản đồ số 33, phường P, thành phố B, tỉnh Bến Tre. Tổng
số tiền được bồi thường là 9.581.212.000 đồng.
Theo phương án bồi thường do Trung tâm Phát triển quỹ đất thành phố B
lập ngày 31/7/2019 thì hộ bà Đặng Thị M thuộc diện giải tỏa trắng nhà, đất ở, Ủy
ban nhân dân phường P xác nhận bà Đặng Thị M không còn nhà, đất ở nào khác
trên địa bàn phường P. Theo hộ khẩu số C9003957 tại thời điểm thu hồi đất thì hộ
M 07 nhân khẩu gồm: M, chồng bà M, hai con ruột, một con dâu, hai
cháu nội. Đồng thời, M đơn xin xác nhận đủ điều kiện tách hộ với nội dung
trình bày: hai người con đã có gia đình cùng ở chung với bà, đủ điều kiện tách hộ
Công an phường P, thành phố B đã có xác nhận đủ điều kiện tách hộ.
Căn cứ điểm a, khoản 1 khoản 2 Điều 20 Quyết định số 37/2017/QĐ-
UBND ngày 18 tháng 7 năm 2017 của Ủy ban nhân dân tỉnh B về việc ban hành
Quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn
tỉnh Bến Tre hồ sơ do bà Đặng Thị M cung cấp thì hộ bà M đủ điều kiện bố trí
tái định theo quy định là 03 nền, trong đó: 01 nền cho hộ Đặng Thị M, 01
nền cho con trai hộ ông Huỳnh Đặng D một nền cho con gái hộ Huỳnh
Đặng Duyên N.
Ngày 10 tháng 12 năm 2019, Ủy ban nhân dân thành phố ban hành n bản
số 5208/UBND-PTQĐ về việc phê duyệt bố trí nền tái định cho các h thuộc
dự án Chỉnh trang khu dân cư đô thị P, trong đó có hộ bà Huỳnh Đặng Duyên N.
Ngày 17/02/2021, Ủy ban nhân dân thành phố ban hành Quyết định số
598/QĐ-UBND về việc giao đất thu tiền sử dụng đất cho bà Duyên N diện
tích 81m
2
, loại đất tại đô thị, thửa 238, tờ bản đồ 46, tọa lạc tại phường P, thành
phố B. Duyên N đã nộp tiền sdụng đất với số tiền 340.200.000 đồng. Đến
ngày 13/4/2021, bà N được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Tuy nhiên, qua phản ảnh của một số hộ dân đối chiếu với quy định về
điều kiện htrợ tái định tại Quyết định s37/2017/QĐ-UBND ngày 18/7/2017
5
của Ủy ban nhân dân tỉnh B thì trường hợp của hộ Duyên N không đủ điều
kiện được bố trí tái định cư theo quy định, do tại thời điểm thu hồi đất bà Duyên
N chưa đăng ký kết hôn. Từ đó, Trung tâm Phát triển quỹ đất thành phố B đề xuất
thu hồi việc bố trí tái định của hộ Duyên N Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất đã cấp cho bà Duyên N.
Ngày 22/12/2022, Ủy ban nhân dân thành phố B ban hành Công văn số
7363/UBND-TNMT về việc điều chỉnh Công văn số 5208/UBND-PTQĐ ngày
10/12/2019 của Ủy ban nhân dân thành phố B với nội dung: hủy bỏ tên “Huỳnh
Đặng Duyên N” trong danh sách các hộ được bố trí tái định cư dự án Chỉnh trang
khu dân cư đô thị P.
Ngày 07/12/2023, Ủy ban nhân dân thành phố B ban hành Quyết định số
3655/QĐ-UBND ngày 07/12/2023 về việc huỷ Quyết định số 598/QĐ-UBND
ngày 17/02/2021 về việc giao đất ở có thu tiền sử dụng đất cho hộ bà Duyên N.
Như vậy, căn cứ các quy định trên thì bà Huỳnh Đặng Duyên N không đủ
diều kiện được btrí tái định cư, nên việc Ủy ban nhân dân thành phố B ban hành
Quyết định số 3655/QĐ-UBND ngày 07/12/2023 về việc huỷ Quyết định số
598/QĐ- UBND ngày 17 tháng 02 năm 2021 về việc giao đất thu tiền sử
dụng đất cho hDuyên N tại thửa đất số 238, tbản đồ số 46, phường P, thành
phố B, tỉnh Bến Tre là đúng theo quy định pháp luật.
Theo bản tự khai, biên bản phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công
khai chứng cứ tại phiên tòa, Đặng Thị M đồng thời người đại diện theo
ủy quyền của người khởi kiện Huỳnh Đặng Duyên N người quyền lợi
nghĩa vụ liên quan ông Dương Trần Thanh B trình bày:
Dự án Chỉnh trang khu dân cư đô thị P đã thu hồi toàn bộ diện tích 2457m
2
đất (trong đó có 300m
2
đất đô thị) của hộ Đặng Thị M. Sau khi thu hồi hết
đất, hộ M được Ủy ban nhân dân thành phố B xét giao lại 03 nền tái định
thu tiền sdụng đất gồm: hộ Đặng Thị M 01 nền, hộ ông Huỳnh Đặng D
01 nền và hộ bà Huỳnh Đặng Duyên N 01 nền.
Sau khi làm đầy đủ các thủ tục giao nhận đất, Ủy ban nhân dân thành phố
B ban hành Quyết định số 598/QĐ-UBND ngày 17/02/2021 về việc giao đất
thu tiền sử dụng đất cho hộ Huỳnh Đặng Duyên N tại thửa đất số 238, tờ bản
đồ số 46, diện tích 81m
2
, đất đô thị, tọa lạc phường P, thành phố B, tỉnh Bến
Tre. y ban nhân dân thành phố B cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền
shữu nhà tài sản gắn liền với đất cho hộ Huỳnh Đặng Duyên N ngày
13/4/2021.
Việc Ủy ban nhân dân thành phố B ban hành Quyết định số 3655/QĐ-
UBND ngày 07/12/2023 về việc hủy Quyết định số 598/QĐ-UBND ngày
17/02/2021 của Ủy ban nhân dân thành phố B với do “Hộ Huỳnh Đặng
Duyên N không đủ điều kiện giao đất thu tiền sử dụng đất” việc Chủ tịch
Ủy ban nhân dân thành phố B ban hành Quyết định số 973/QĐ-UBND ngày
18/4/2024 về việc không chấp nhận khiếu nại của Huỳnh Đặng Duyên N đối
với Quyết định số 3655/QĐ-UBND ngày 07/12/2023 không căn cứ pháp
6
luật.
Do đó, đề nghị Tòa án hủy Quyết định số 3655/QĐ-UBND ngày
07/12/2023 của Ủy ban nhân dân thành phố B hủy Quyết định số 973/QĐ-
UBND ngày 18/4/2024 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố B.
Tại Bản án hành chính thẩm 47/2024/HC-ST ngày 24 tháng 9 năm 2024
của Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre đã quyết định:
Căn cứ khoản 1 Điều 158, điểm a Khoản 2 Điều 193; Khoản 1 Điều 348
Luật Tố tụng hành chính;
Căn cứ Luật Đất đai năm 2013; Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày
15/5/2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai
năm 2013; Nghị định s148/2020/NĐ-CP ngày 18/12/2020 của Chính phủ sửa
đổi, bổ sung một số Nghị định quy định chi tiết một số điều của Luật Đất đai năm
2013; Nghị định số 47/2014/NĐ-CP ngày 15 tháng 5 năm 2014 của Chính phủ v
bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất; Quyết định số
29/2019/QĐ-UBND ngày 14/8/2019 của Ủy ban nhân dân tỉnh B ban hành quy
định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh
Bến Tre;
Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016
của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản
lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Tuyên xử:
1. Bác yêu cầu khởi kiện của Huỳnh Đặng Duyên N về việc yêu cầu hủy
các quyết định hành chính:
Quyết định số 3655/QĐ-UBND ngày 07 tháng 12 năm 2023 của Ủy ban
nhân dân thành phố B về việc hủy Quyết định số 598/QĐ- UBND ngày 17 tháng
02 năm 2021 của Ủy ban nhân dân thành phố B về việc giao đất ở có thu tiền s
dụng đất cho hộ Huỳnh Đặng Duyên N tại thửa đất số 238, tờ bản đồ số 46,
phường P, thành phố B, tỉnh Bến Tre.
Quyết định số 973/QĐ-UBND ngày 18 tháng 3 năm 2024 của Chủ tịch Ủy
ban nhân dân thành phố B về việc giải quyết khiếu nại của Huỳnh Đặng Duyên
N.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về án phí và quyền kháng cáo theo quy
định của pháp luật.
Ngày 08/10/2024, người khởi kiện là bà Huỳnh Đặng Duyên N kháng cáo
bản án thẩm đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án thẩm theo hướng
chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của người khởi kiện.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Đặng Thị M trình bày: M đề nghị Hội đồng xét xxem xét hoàn
cảnh khó khăn của gia đình hiện nay. Một người con làm ở công an, một người
làm bên quân đội. Hoàn cảnh gia đình bên chồng của N ng rất khó khăn, hiện
7
nay N có 01 đứa con. Đất của M đường dẫn vào dự án. Thời điểm đó nếu
M không chấp hành thì dự án cũng không làm được. Giá đền không bằng
đất nông nghiệp, trong khi đó hoàn cảnh gia đình khó khăn, trong diện tích 300m
2
thổ cư của chỉ giải quyết 243m
2
, đất bán giá đất thương mại
trong khi đền bù giá
thấp. Bà M cho rằng khi bà làm đơn lên công an phường P xác nhận đủ điều kiện
tách hộ thì công an phường không đề cập Giấy chứng nhận đăng kết hôn.
M thừa nhận thời điểm đó N chưa đăng kết n với chồng N do chồng
N làm công an nên phải xác minh. M đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận
kháng cáo của N, sửa bản án thẩm theo hướng chấp nhận toàn bộ yêu cầu
khởi kiện của N.
Ông Võ Tấn T trình bày: Vào ngày 06/9/2019, Ủy ban nhân dân thành phố
B, tỉnh Bến Tre ban hành Quyết định s4266/QĐ-UBND về việc thu hồi diện tích
đất 2.457m
2
thuộc thửa đất số 125, tờ bản đồ số 33, phường P, thành phố B, tỉnh
Bến Tre của hộ Đặng Thị M để thực hiện “Dự án Chỉnh trang khu dân đô
thị P”. Huỳnh Đặng Duyên N con ruột của Đặng Thị M lúc này đang
sống chung hộ gia đình với bà M thuộc thế hệ thứ hai cùng sống trên một thửa đất
ở đã bị thu hồi có đủ điều kiện để tách thành hộ gia đình riêng theo xác nhận của
Trưởng Công an phường P ngày 17/01/2019. N không có nhà ở, đất ở, đất bị
thu hồi vậy bà N được Ủy ban nhân dân thành phố B bố trí tái định theo
Quyết định số 598/QĐ-UBND ngày 17/02/2021 về việc giao đất thu tiền sử
dụng 81m
2
đất ở tại đô thị, tọa lạc phường P, thành phố B, tỉnh Bến Tre. Sau khi
nhận được Quyết định số 598/QĐ-UBND ngày 17/02/2021 thì N thực hiện đầy
đủ các thủ tục xin cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và được Ủy ban nhân
dân thành phố B cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 13/4/2021 đối với
thửa đất nêu trên. Như vậy, N người sử dụng hợp pháp đối với thửa đất số
238, tờ bản đồ số 46, diện tích 81m
2
, đất ở tại đô thị, tọa lạc phường P, thành phố
B, tỉnh Bến Tre. Tuy nhiên đến ngày 07/12/2023, Ủy ban nhân dân thành phố B
ban hành Quyết định số 3655/QĐ-UBND về việc hủy Quyết định số 598/QĐ-
UBND ngày 17/02/2021 về việc giao đất có thu tiền sử dụng đất cho bà N, với lý
do: hộ Huỳnh Đặng Duyên N không đđiều kiện giao đất thu tiền sử
dụng đất”, ngoài ra không có căn cứ pháp o khác. Do không đồng ý với Quyết
định nêu trên nên N khiếu nại đến Ủy ban nhân n thành phố B để yêu cầu
xem xét lại Quyết định s3655. Sau khi xem xét thì ngày 18/3/2024, Chủ tịch Ủy
ban nhân dân thành phố B ban hành quyết định số 973/QĐ-UBND không chấp
nhận đơn khiếu nại của N, giữ y nội dung Quyết định số 3655/QĐ-UBND ngày
07/12/2023 của Ủy ban nhân dân thành phố B do đó N khiếu kiện ra Tòa án để
yêu cầu hủy 02 quyết định nêu trên. Tại bản án sơ thẩm đã có nhận định là điều
kiện để được bố trí nền tái định nhiều cặp vợ chồng cùng chung sống trên
một thửa đất. Do thời điểm ban hành Quyết định số 598 thì N chưa đăng
kết hôn theo quy định của pháp luật nên chưa đáp ứng đđiều kiện để cấp nềni
định cư. Nhận định của Tòa án cấp thẩm không đúng quy định tại khoản 1
Điều 26 quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên
địa bàn tỉnh Bến Tre. Theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều 26 quy định tại
khoản 1 Điều 26 quy định về bồi thường, htrợ, tái định khi Nhà nước thu hồi
8
đất trên địa bàn tỉnh Bến Tre ban hành m theo Quyết định số 29/2019/QĐ-
UBND ngày 14/8/2019 của Ủy ban nhân dân tỉnh B quy định “d/ Trường hợp
trong hộ gia đình trong hộ nhiều thế hệ, nhiều cặp vợ chồng cùng chung
sống trên một thửa đất ở thu hồi nếu đủ điều kiện để tách thành từng hộ gia đình
riêng theo quy định của pháp luật về trú hoặc nhiều hộ gia đình chung
quyền sử dụng một thửa đất thu hồi mà không chỗ (nđất ở) nào
khác trong địa bàn xã, phường, thị trấn nơi đất thu hồi;”. Trường hợp của bà N
thuộc trường hợp nhiều thế hệ chứ không phải nhiều cặp vchồng. Còn trường
hợp được tách thành hộ riêng là công an phường P nói rất rõ chứ không phải căn
cứ theo đơn của M thì xác nhận của công an phường P căn cứ quy định về
Luật Cư trú thì 02 nhân khẩu Huỳnh Đặng D Huỳnh Đặng Duyên N hiện đăng
thường trú tại khu phố F, phường P đủ điều kiện về độ tuổi để tách hộ. Như
vậy điều kiện để Huỳnh Đặng Duyên N tách hộ không phải căn cứ vào Giấy
đăng ký kết hôn mà phải đủ tuổi thì công an phường P xác nhận rất rõ chứ không
phải căn cứ theo đơn của bà M 02 con gia đình. Trong bản án sơ thẩm đã áp
dụng không đúng quy định khoản 2 Điều 6 Nghị định số 47/2014/NĐ-CP ngày 15
tháng 5 năm 2014 của Chính phủ về bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi Nhà nước
thu hồi đất nên bản án thẩm đã nhận định khi Nhà nước thu hồi đất thì hộ gia
đình phải hội đủ 05 điều kiện là có nhiều thế hệ, nhiều cặp vợ chồng cùng chung
sống trên cùng thửa đất…. Theo quy định của Nghị định số 47 là không phải hội
đủ điều kiện. Đây vấn đề bản án thẩm áp dụng không đúng. Căn cứ quy định
tại điểm d khoản 1 Điều 26 theo phía Ủy ban áp dụng Quyết định số 37 không
đúng thời điểm Ủy ban ban hành quyết định này thì Quyết định số 37 đã hết
hiệu lực rồi mà án thẩm cho rằng mặc không đúng nhưng đã quyết
định thay thế rồi là không hợp lý.
Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của bà Huỳnh Đặng Duyên
N, sửa bản án thẩm theo hướng chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của người
khởi kiện.
Ông Huỳnh Vĩnh K trình bày: Điều kiện bố trí tái định thì Ủy ban căn
cứ theo Quyết định số 37/2017/QĐ-UBND ngày 18/7/2017 của Ủy ban nhân dân
tỉnh B Quyết định s29/2019/QĐ-UBND ngày 14/8/2019 của Ủy ban nhân
dân tỉnh B thay thế Quyết định số 37, Quyết định số 29/2019/QĐ-UBND ngày
14/8/2019 của Ủy ban nhân dân tỉnh B, Công văn số 4266/STNMT-QLĐĐ ngày
21/10/2022 của Sở Tài nguyên Môi trường tỉnh B thì nội dung tương tự như
nhau cụ thể hội đủ 05 điều kiện như sau: Nhiều thế hệ, nhiều cặp vợ chồng,
cùng chung sống trên một thửa đất, đủ điều kiện tách hộ theo Luật Cư trú, không
còn nhà ở, đất trên địa bàn nơi có đất thu hồi. Phải hội đủ 05 điều kiện này thì
mới được xem xét bố trí tái định cư. Trường hợp bà N chưa phải cặp vợ chồng,
đủ điều kiện tách hộ theo Luật trú nhưng chưa đủ điều kiện cặp vchồng.
Cặp vợ chồng phải có Giấy đăng ký kết hôn là cơ sở để bố trí tái định cư.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh tham
gia phiên tòa phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án:
9
Về tố tụng: Hội đồng xét xử các đương sự đã tuân thủ đúng quy định
của Luật Tố tụng hành chính.
Về nội dung: Ngày 06/9/2019, Ủy ban nhân dân thành phố B ban hành
Quyết định số 4226/QĐ-UBND về việc thu hồi đất do hộ bà Đặng Thị M (mẹ bà
Duyên N) để thực hiện dự án Chỉnh trang khu dân đô thị P. HĐặng Thị M
bị thu hồi diện tích 2.455m
2
trong đó 100m
2
đất nông thôn 2.355m
2
đất cây
lâu năm, thuộc thửa đất số 125, tờ bản đồ số 33, phường P, thành phố B, tỉnh Bến
Tre. Sau khi bị thu hồi đất M đã được bồi thường hỗ trợ bố trí tái định
theo quy định của pháp luật. Riêng đối với trường hợp của bà Huỳnh Đặng Duyên
N, Ủy ban nhân dân thành phố B ban hành Quyết định số 598/QĐ-UBND ngày
17/02/2021 về việc giao đất thu tiền sử dụng đất cho N. Tuy nhiên theo
quy định của Luật Đất đai quy định về các khoản hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất
bao gồm hỗ trợ tái định cư đối với thu hồi đất của hộ gia đình, nhân, người
Việt Nam định cư ở nước ngoài phải di chuyển chỗ ở và tại điểm d khoản 1 Điều
26 của Quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên
địa bàn tỉnh Bến Tre (Ban hành kèm theo Quyết định số 29/2019/QĐ-UBND ngày
14/8/2019 của Ủy ban nhân dân tỉnh B) về đối tượng, điều kiện được bố trí nền
tái định nhận thấy N chung sống cùng hộ với hộ M tại thời điểm ban
hành Quyết định số 598, bà N chưa đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật
nên chưa đáp ứng đủ điều kiện được cấp nền tái định cư. N ông Dương Trần
Thanh B đăng ký kết hôn vào ngày 08/9/2022 do đó việc Ủy ban nhân dân thành
phố B ban hành Quyết định số 3655/QĐ-UBND ngày 07 tháng 12 năm 2023 hủy
Quyết định số 598/QĐ- UBND ngày 17 tháng 02 năm 2021 của Ủy ban nhân dân
thành phố B đúng quy định của pháp luật. Do Quyết định số 3655 được ban
hành đúng quy định do đó Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố B ban hành Quyết
định số 973/QĐ-UBND ngày 18 tháng 3 năm 2024 về việc giải quyết khiếu nại
với nội dung không chấp nhận yêu cầu khiếu nại của N đúng quy định của
pháp luật. Từ những phân tích nêu trên, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1
Điều 241 Luật Tố tụng hành chính năm 2015, không chấp nhận kháng o của
người khởi kiện là bà Huỳnh Đặng Duyên N, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu trong hồ vụ án được thẩm tra tại phiên
tòa căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, sau khi nghe Đại diện Viện
kiểm sát phát biểu ý kiến, sau khi thảo luận và nghị án, Hội đồng xét xử xét thấy:
[1] Về tố tụng:
Ngày 04/4/2024, Huỳnh Đặng Duyên N nộp đơn khởi kiện tại Tòa án
nhân dân tỉnh Bến Tre yêu cầu hủy Quyết định số 3655/QĐ-UBND ngày
07/12/2023 của Ủy ban nhân dân thành phố B Quyết định số 973/QĐ-UBND
ngày 18/3/2024 của Chủ tịch Ủy ban nhân n thành phố B. Đây khiếu kiện
quyết định hành chính trong lĩnh vực quản đất đai. Tòa án nhân dân tỉnh Bến
Tre thụ lý giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền theo quy định tại Điều 30, khoản
4 Điều 32 Luật Tố tụng hành chính năm 2015 n thời hiệu khởi kiện theo quy
định tại điểm a khoản 2 Điều 116 Luật Tố tụng hành chính năm 2015.
10
[2] Về nội dung khởi kiện:
[2.1] Ngày 06/9/2019, Ủy ban nhân dân thành phố B ban hành Quyết định
số 4226/QĐ-UBND về việc thu hồi đất của hộ Đặng Thị M (mẹ bà Duyên N)
để thực hiện dự án Chỉnh trang khu dân cư đô thị P. Theo đó hộ Đặng Thị M
bị thu hồi diện tích 2.455m
2
trong đó 100m
2
đất nông thôn 2.355m
2
đất cây
lâu năm, thuộc thửa đất số 125, tờ bản đồ số 33, phường P, thành phố B, tỉnh Bến
Tre. Tổng số tiền được bồi thường là 9.581.212.000 đồng.
Theo phương án bồi thường do Trung tâm Phát triển quỹ đất thành phố B
lập ngày 31/7/2019 thì hộ bà Đặng Thị M thuộc diện giải tỏa trắng nhà, đất ở, Ủy
ban nhân dân phường P xác nhận bà Đặng Thị M không còn nhà, đất ở nào khác
trên địa bàn phường P. Theo hộ khẩu số C9003957 tại thời điểm thu hồi đất thì hộ
M 07 nhân khẩu gồm: M, chồng bà M, hai con ruột, một con dâu, hai
cháu nội. Bà M có đơn xin xác nhận đủ điều kiện tách hộ với nội dung trình bày:
hai người con đã có gia đình cùng ở chung với bà, đủ điều kiện tách hộ Công
an phường P, thành phố B đã có xác nhận đủ điều kiện tách hộ.
Ngày 17/02/2021, Ủy ban nhân dân thành phố B ban hành Quyết định số
598/QĐ-UBND về việc giao đất thu tiền sử dụng đất cho bà Duyên N diện
tích 81m
2
, loại đất tại đô thị, thửa 238, tờ bản đồ 46, tọa lạc tại phường P, thành
phố B. N đã nộp tiền sử dụng đất với số tiền 340.200.000 đồng. Đến ngày
13/4/2021, bà N được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Ngày 22/12/2022, Ủy ban nhân dân thành phố B ban hành Công văn số
7363/UBND-TNMT về việc điều chỉnh Công văn số 5208/UBND-PTQĐ ngày
10/12/2019 của Ủy ban nhân dân thành phố B với nội dung: hủy bỏ tên “Huỳnh
Đặng Duyên N” trong danh sách các hộ được bố trí tái định cư dự án Chỉnh trang
khu dân cư đô thị P.
Ngày 07/12/2023, Ủy ban nhân dân thành phố B ban hành Quyết định số
3655/QĐ-UBND ngày 07/12/2023 về việc huỷ Quyết định số 598/QĐ-UBND
ngày 17/02/2021 về việc giao đất ở có thu tiền sử dụng đất cho hộ bà Duyên N.
[2.2] Xét thấy, theo quy định tại khoản 1 Điều 26 Quy định về bồi thường,
hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Bến Tre (Ban hành
kèm theo Quyết định số 29/2019/QĐ-UBND ngày 14 tháng 8 năm 2019 của Ủy
ban nhân dân tỉnh B) quy định: “Đối tượng, điều kiện được bố trí tái định cư:
a) Hộ gia đình, nhân đang sử dụng đất ở, người Việt Nam định nước
ngoài đang sở hữu nhà gắn liền với quyền sử dụng đất tại Việt Nam khi Nhà
nước thu hồi đất phải di chuyển chỗ do thu hồi hết diện tích đất ở mà không
chỗ (nhà đất ở) nào khác trong địa bàn xã, phường, thị trấn nơi đất
thu hồi (trừ trường hợp hộ gia đình, cá nhân không có nhu cầu tái định cư);”.
...
d/ Trường hợp trong hộ gia đình trong hộ có nhiều thế hệ, nhiều cặp vợ
chồng cùng chung sống trên một thửa đất thu hồi nếu đủ điều kiện để tách thành
từng hộ gia đình riêng theo quy định của pháp luật về cư trú hoặc có nhiều hộ gia
11
đình chung quyền sử dụng một thửa đất ở thu hồi mà không có chỗ ở (nhà
đất ở) nào khác trong địa bàn xã, phường, thị trấn nơi có đất thu hồi;”.
Theo quy định trên thì trường hợp được bố trí tái định cư khi trong hộ gia
đình có nhiều thế hệ, nhiều cặp vợ chồng cùng chung sống trên một thửa đất thu
hồi nếu đủ điều kiện để tách thành từng hộ gia đình riêng theo quy định của
pháp luật về trú. Tuy nhiên, tại thời điểm thu hồi đất năm 2019 N chưa
đăng kết hôn, theo giấy chứng nhận kết hôn của Duyên N ông Dương
Trần Thanh B thể hiện thời gian đăng kết hôn ngày 08/9/2022 như vậy tại
thời điểm thu hồi đất nhân N chưa đủ điều kiện để tách thành một hộ gia
đình riêng theo quy định tại Luật cư trú.
Ngày 17/02/2021, Ủy ban nhân dân thành phố B ban hành Quyết định số
598/QĐ-UBND về việc giao đất cho hộ N do M đơn xin xác nhận
N đủ điều kiện tách hộ. Tuy nhiên, tại Đơn xin xác nhận đủ điều kiện tách hộ khẩu
để bổ túc hồ ngày 17/01/2019 M khai nhận bà N đã có gia đình là không
đúng sự thật. N cho rằng vào năm 2018, ông Dương Trần Thanh B quen
biết, tìm hiểu để tiến tới hôn nhân, nhưng do ông B chiến an ninh trong lực
lượng Công an nhân dân nên phải chờ ông B xin ý kiến của tổ chức đồng ý mới
được đăng kết hôn. Sau đó, do ảnh hưởng tình hình dịch bệnh nhiều do
khách quan khác nên việc kết hôn kéo dài. Đây không được xem những lý do
khách quan khiến N không đáp ứng đủ điều kiện để cấp nền tái định cư. Do đó,
trường hợp này nhân N không được coi một hộ gia đình nên không đủ
điều kiện tách thành từng hộ riêng phải di chuyển chỗ để được hỗ trợ tái định
cư như quy định.
Như vậy, Ủy ban nhân dân thành phố B ban hành Quyết định số 3655/QĐ-
UBND ngày 07/12/2023 về việc hủy Quyết định số 598/QĐ-UBND ngày
17/02/2021 Ủy ban nhân dân thành phố B là có căn cứ, đúng pháp luật.
[2.3] Đối với Quyết định số 973/QĐ-UBND ngày 18/3/2024 của Chủ tịch
Ủy ban nhân dân thành phố B về việc giải quyết khiếu nại của N:
Nhận thấy, tại thời điểm giải quyết khiếu nại (ngày 18/3/2024) cũng như
tại thời điểm giao đất cho Duyên N (ngày 17/02/2021) thì Quyết định số
37/2017/QĐ-UBND của Ủy ban nhân dân tỉnh B đã hết hiệu lực từ ngày
26/8/2019. vậy, việc Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố B nhận định, đối
chiếu theo quy định tại Quyết định số 37/2017/QĐ-UBND để giải quyết khiếu nại
của bà Duyên N là không phù hợp.
Tuy nhiên, Quyết định số 37/2017/QĐ-UBND được thay thế bởi Quyết
định số 29/2019/QĐ-UBND ngày 14/8/2019 của Ủy ban nhân dân tỉnh B. Tại
khoản 1 Điều 26 Quyết định số 29/2019/QĐ-UBND ngày 14/8/2019 của Ủy ban
nhân dân tỉnh B ban hành quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định khi Nhà
nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Bến Tre có nội dung quy định như quy định tại
khoản 2 Điều 20 Quyết định số 37/2017/QĐ-UBND ngày 18/7/2017 ban hành
quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn
tỉnh Bến Tre. vậy, mặc dù Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố B nhận định,
12
đối chiếu theo quy định tại Quyết định số 37/2017/QĐ-UBND đgiải quyết khiếu
nại của Duyên N không phù hợp nhưng không ảnh hưởng đến nội dung
Quyết định giải quyết khiếu nại số 973/-UBND ngày 18/3/2024 Chủ tịch Ủy
ban nhân dân thành phố B. Do đó, Quyết định giải quyết khiếu nại số 973/QĐ-
UBND ngày 18/3/2024 Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố B vẫn đảm bảo đúng
quy định pháp luật.
Việc Duyên N yêu cầu hủy Quyết định số 3655/QĐ-UBND ngày
07/12/2023 của Ủy ban nhân dân thành phố B Quyết định số 973/QĐ-UBND
ngày 18/3/2024 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố B là không có cơ sở để
chấp nhận.
[2.4] Về số tiền bà Duyên N đã nộp vào ngân sách Nhà nước, Ủy ban nhân
dân thành phố B cho rằng sẽ văn bản thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất của bà Duyên N, đồng thời sẽ có văn bản đề nghị Chi cục thuế khu vực thành
phố B hoàn trả tiền lại cho N theo quy định. Về vấn đề này, nếu sau này các
đương sự có tranh chấp thì có quyền khởi kiện vụ kiện khác.
[2.5] Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử phúc thẩm thống nhất quan
điểm đại diện Viện kiểm sát cấp cao, bác toàn bộ yêu cầu kháng cáo của người
khởi kiện bà Huỳnh Đặng Duyên N, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
[3] Về án phí hành chính phúc thẩm: Do kháng cáo không được chấp nhận
nên bà Huỳnh Đặng Duyên N phải chịu án phí hành chính phúc thẩm.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào khoản 1 Điều 241 Luật Tố tụng hành chính năm 2015;
Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của người khởi kiện Huỳnh Đặng
Duyên N.
Giữ nguyên Bản án hành chính thẩm s47/2024/HC-ST ngày 24/9/2024
của Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre.
Căn cứ khoản 1 Điều 158, điểm a Khoản 2 Điều 193; Khoản 1 Điều 348
Luật Tố tụng hành chính;
Căn cứ Luật Đất đai năm 2013; Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày
15/5/2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai
năm 2013; Nghị định s148/2020/NĐ-CP ngày 18/12/2020 của Chính phủ sửa
đổi, bổ sung một số Nghị định quy định chi tiết một số điều của Luật Đất đai năm
2013; Nghị định số 47/2014/NĐ-CP ngày 15 tháng 5 năm 2014 của Chính phủ v
bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất; Quyết định số
29/2019/QĐ-UBND ngày 14/8/2019 của Ủy ban nhân dân tỉnh B ban hành quy
định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh
Bến Tre;
13
Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016
của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản
lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Tuyên xử:
1. Bác yêu cầu khởi kiện của Huỳnh Đặng Duyên N về việc yêu cầu hủy
các quyết định hành chính:
Quyết định số 3655/QĐ-UBND ngày 07 tháng 12 năm 2023 của Ủy ban
nhân dân thành phố B về việc hủy Quyết định số 598/QĐ- UBND ngày 17 tháng
02 năm 2021 của Ủy ban nhân dân thành phố B về việc giao đất ở có thu tiền s
dụng đất cho hộ Huỳnh Đặng Duyên N tại thửa đất số 238, tờ bản đồ số 46,
phường P, thành phố B, tỉnh Bến Tre.
Quyết định số 973/QĐ-UBND ngày 18 tháng 3 năm 2024 của Chủ tịch Ủy
ban nhân dân thành phố B về việc giải quyết khiếu nại của Huỳnh Đặng Duyên
N.
2. Về án phí:
2.1. Án phí hành chính thẩm: Huỳnh Đặng Duyên N phải chịu
300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng), nhưng được khấu trừ vào số tiền án phí đã
nộp theo biên lai thu số 0005548 ngày 19 tháng 6 năm 2024 của Cục Thi hành án
dân sự tỉnh Bến Tre.
2.2. Án phí hành chính phúc thẩm: Huỳnh Đặng Duyên N phải chịu
300.000 đồng; được khấu trừ vào 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo
Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0005064 ngày 09 tháng 10 năm 2024
của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Bến Tre.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- Tòa án nhân dân tối cao;
- VKSNDCC tại TP.Hồ Chí Minh;
- TAND tỉnh Bến Tre;
- VKSND tỉnh Bến Tre;
- Cục THADS tỉnh Bến Tre;
- Người khởi kiện;
- Người bị kiện;
- NCQLNVLQ;
- Lưu VT (5), HS (2) (BA- Tâm).
(1)
(1)
(1)
(1)
(1)
(1)
(2)
(1)
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Huỳnh Thanh Duyên
Tải về
Bản án số 210/2025/HC-PT Bản án số 210/2025/HC-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 210/2025/HC-PT Bản án số 210/2025/HC-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất