Bản án số 215/2020/HS-ST ngày 01/07/2020 của TAND Q. Đống Đa, TP. Hà Nội về tội chiếm giữ trái phép tài sản

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng tội danh
  • Tải về
Mục lục
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 215/2020/HS-ST

Tên Bản án: Bản án số 215/2020/HS-ST ngày 01/07/2020 của TAND Q. Đống Đa, TP. Hà Nội về tội chiếm giữ trái phép tài sản
Tội danh: 141.Tội chiếm giữ trái phép tài sản (Bộ luật hình sự năm 1999)
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND Q. Đống Đa (TAND TP. Hà Nội)
Số hiệu: 215/2020/HS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 01/07/2020
Lĩnh vực: Hình sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ án:
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN ĐỐNG ĐA, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

 BẢN ÁN 215/2020/HS-ST NGÀY 01/07/2020 VỀ TỘI CHIẾM GIỮ TRÁI PHÉP TÀI SẢN

 Ngày 01 tháng 7 năm 20 20 , tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 230/ 2 0 2 0 / HSST ngày 16 tháng 6 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 224/2020/QĐXXST-HS ngày 17/6/2020 đối với bị cáo:

Nguyễn Thị Thu A, sinh năm 1986; HKTT và chỗ ở: Số 18 Châu Long, phường Trúc Bạch, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội; Trình độ văn hoá: 12/12; Con ông: Nguyễn Văn Dũng; Con bà: Trần Thị Huệ; Chồng: Đào C; Có 01 con sinh năm 2014; Tiền án, tiền sự: Không; Danh bản, chỉ bản số 168 lập ngày 27/3/2020 tại Công an quận Đống Đa; Bị cáo tại ngoại (có mặt tại phiên tòa).

* Bị hại: Chị Hán Thị Thanh B, sinh năm 1979; Địa chỉ: Số 55 Ngụy Như Kon Tun, phường Nhân Chính, quận Thanh Xuân, Thành phố Hà Nội (vắng mặt);

NỘI DUNG VỤ ÁN:

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 14h30' ngày 23/01/2020, chị Hán Thị Thanh B đi đến cửa hàng bán quần áo A Anh botique - số 251 Khâm Thiên, Thổ Quan, Đống Đa, Hà Nội do Nguyễn Thị Thu A là chủ cửa hàng để mua quần áo. Khi vào cửa hàng, chị B có mang theo 01 túi balo màu đen bằng da có kích thước khoảng 40x30cm bên trong có 22.500.000 đồng, 01 thẻ ATM, 01 thẻ căn cước công dân, 01 thỏi son môi, 01 hộp kem nền, 01 sợi dây chuyền bạc của trẻ con. Sau khi chọn quần áo, chị B đã mang theo chiếc balo trên để vào trong phòng thử đồ. Tuy nhiên sau khi thử quần áo chị B đã để quên chiếc balo trong phòng thử đồ. Sau khi chị B đi ra khỏi cửa hàng thì anh Đào C đi vào cửa hàng lau kính, dọn dẹp cửa hàng. Khi C đi vào phòng thử đồ thì thấy 01 túi balo màu đen nên lấy ra để lên trên ghế trước mặt A và hỏi "Túi này của ai?" thì A nói "Chắc là của khách". Sau đó, C quay ra dọn dẹp đồ trong cửa hàng còn A dùng tay mở từng ngăn của balo và lấy số tiền 22.500.000 cất vào ngăn kéo bàn thu ngân, cất giấu túi balo vào góc phòng thử đồ. Đến khoảng 18h00' cùng ngày, chị B phát hiện để quên balo nên quay lại cửa hàng để hỏi. Tuy nhiên A nói không biết túi balo, không lấy túi balo và không cho chị B vào kiểm tra nên chị B đã đi đến công an phường Thổ Quan trình báo vào hồi 18h40' cùng ngày. Sau đó, Công an phường Thổ Quan đã yêu cầu A về trụ sở làm việc. Tại đây, A khai không lấy và không biết ai lấy balo của chị B.

Đến ngày 25/2/2020, cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an quận Đống Đa đã triệu tập Nguyễn Thị Thu A, A thừa nhận hành vi chiếm giữ trái phép tài sản của mình và giao nộp số tiền 22.500.000 đồng. A khai nhận: Sau khi làm việc tại Công an phường Thổ Quan trên đường về, A đã mang túi balo vứt vào thùng rác (Hiện cơ quan điều tra không thu hồi được).

Đới với Đào C, C không biết việc A chiếm giữ tài sản của chị B nên cơ quan điều tra không xem xét xử lý.

Tại Kết luận định giá tài sản số 168 ngày 14/4/2020 của Hội đồng định giá tài sản quận Đống Đa kết luận:

- Trị giá 01 chiếc túi balo bằng da màu đen có kích thước khoảng 40x30cm chưa đủ cơ sở để xác định giá trị;

- Trị giá 01 thẻ ATM: xin cấp lại không mất phí;

- Trị giá 01 thẻ căn cước công dân: phí cấp lại là 70.000 đồng;

- Trị giá 01 thỏi son môi chưa đủ cơ sở để xác định giá trị;

- Trị giá 01 thỏi kem nền chưa đủ cơ sở để xác định giá trị;

- Trị giá 01 sợi dây chuyền bạc chưa đủ cơ sở để xác định giá trị.

Quá trình điều tra, cơ quan Cảnh sát điều tra - công an quận Đống Đa đã trích xuất dữ liệu bên trong đầu thu nhãn hiệu Dahua thu giữ của A vào trong 1 USB Kingston màu đỏ. Ngày 17/2/2020, cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an quận Đống Đa đã gửi dữ liệu trích xuất trong đầu thu Ahua thu giữ của A và bản ảnh chân dung của Nguyễn Thị Thu A, Đào C đến Việc khoa học hình sự - Bộ công an để tiến hành giám định.

Tại kết luận giám định số 958/C09-P6 ngày 09/3/2020 của Viện khoa học hình sự kết luận:

1. Không tìm thấy dấu vết cắt ghép, chỉnh sửa hình ảnh trong 03 tệp tin video gửi giám định.

2. Trích xuất 37 hình ảnh từ các tệp tin video gửi giám định.

3. Hình ảnh người phụ nữ mặc áo dài tay màu đen, quần dài màu đen, tóc ngắn (có buộc tóc sau đầu) xuất hiện trong tệp tin video gửi giám định với hình ảnh trong bản ảnh mẫu so sánh chụp Nguyễn Thị Thu A là cùng một người.

4. Hình ảnh người đàn ông mặc áo dài tay màu trắng (trên áo có phối các hình họa tiết tối màu), quần dài màu đen, cắt tóc ngắn xuất hiện trong các tệp tin video gửi giám định với hình ảnh trong bản ảnh mẫu so sánh chụp Đào C là cùng một người.

Ngày 08/5/2020, cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an quận Đống Đa đã trao trả cho chị Hán Thị Thanh B số tiền 22.500.000 đồng, chị B nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì khác.

Tại bản cáo trạng số 226/CT – VKS ngày 10/6/2020 Viện kiểm sát nhân dân quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội truy tố Nguyễn Thị Thu A về tội Chiếm giữ trái phép tài sản theo khoản 1 Điều 176 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà, bị cáo Nguyễn Thị Thu A thành khẩn khai nhận hành vi chiếm giữ tài sản của khách vào cửa hàng mua đồ. Tài sản chiếm giữ trái phép là số tiền 22.500.000 đồng của chị Hán Thị Thanh B. Bị cáo thừa nhận bản cáo trạng truy tố bị cáo về tội danh và điều luật là đúng.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Đống Đa giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Sau khi xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ buộc tội và các tình tiết khác có trong hồ sơ vụ án, lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với nhau, phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác.

Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo.

Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 176; điểm b, n, s khoản 1,2 Điều 51 và Điều 65 của Bộ luật hình sự; Xử phạt: Nguyễn Thị Thu A mức án từ 06 -10 tháng tù nhưng cho hưởng án treo hạn thử thách 12 - 20 tháng; Trả lại cho bị cáo 01 đầu thu camera nhãn hiệu Dahua.

Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

Bị cáo không bổ sung gì và xin được áp dụng mức hình phạt nhẹ nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu đã được tranh tụng tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền về trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Về hành vi của bị cáo: Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra, Kết luận giám định, vật chứng thu được cùng tài liệu có trong hồ sơ đủ cơ sở kết luận:

Khoảng 14h30' ngày 23/01/2020, tại cửa hàng quần áo A Anh Botique - số 251 Khâm Thiên, phường Thổ Quan, quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội Nguyễn Thị Thu A đã có hành vi cố tình chiếm giữ tài sản là túi balo màu đen bằng da có kích thước khoảng 40x30cm bên trong có số tiền 22.500.000 đồng và 01 thẻ ATM, 01 thẻ căn cước công dân, 01 thỏi son môi, 01 hộp kem nền, 01 sợi dây chuyền bạc của chị Hán Thị Thanh B bỏ quên tại cửa hàng mặc dù đã được chị B yêu cầu nhận lại tài sản đó nhưng vẫn cố tình không trả.

Hành vi nêu trên của bị cáo đã phạm vào tội Chiếm giữ trái phép tài sản. Tội phạm và hình phạt được quy định tại Điều 176 Bộ luật hình sự nên Viện kiểm sát nhân dân quận Đống Đa truy tố bị cáo theo khoản 1 Điều 176 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội đã xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, đồng thời gây mất trật tự trị an địa phương.

Khi quyết định hình phạt Hội đồng xét xử xem xét: Nhân thân bị cáo chưa có tiền án, tiền sự; phạm tội lần đầu, thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; bị cáo là phụ nữ đang có thai; bị cáo đã tự nguyện khắc phục hậu quả ( bị cáo đã tự nguyện giao nộp tài sản chiếm giữ được cho cơ quan công an để trả lại cho người bị hại). Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, thái độ ăn năn hối cải; Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo được quy định tại điểm b, i, n, s khoản 1 khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự để xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt. Xét bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ, có nhân thân tốt và có nơi cư trú ổn định nên áp dụng mức hình phạt cải tạo không giam giữ cũng đủ tác dụng giáo dục và răn đe phòng ngừa chung.

Do bị cáo đang mang thai tháng thứ 8 chờ nghỉ sinh không có việc làm, không có thu nhập nên miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo. Bị cáo được miễn việc khấu trừ thu nhập để sung vào quỹ Nhà nước.

Về phần bồi thường dân sự: Chị B đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu bồi thường gì, không có ý kiến thắc mắc gì nên HĐXX không xem xét.

Vật chứng: Trả lại cho bị cáo 01 đầu thu nhãn hiệu Dahua.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH:

* Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Thị Thu A phạm tội "Chiếm giữ trái phép tài sản".

Áp dụng: Khoản 1 Điều 176; điểm b, i, n, s khoản 1 khoản 2 Điều 51; Điều 36 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Nguyễn Thị Thu A 06 (sáu) tháng cải tạo không giam giữ. Thời hạn cải tạo không giam giữ tính từ ngày cơ quan, tổ chức được giao giám sát, giáo dục người bị kết án nhận được Quyết định thi hành án và bản sao bản án.

Giao bị cáo Nguyễn Thị Thu A cho Uỷ ban nhân dân phường Trúc Bạch, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội giám sát, giáo dục trong thời gian cải tạo không giam giữ.

Miễn khoản khấu trừ thu nhập để sung quỹ Nhà nước đối với bị cáo.

Vật chứng: Áp dụng Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự: Trả lại cho bị cáo 01 đầu thu nhãn hiệu Dahua theo biên bản giao nhận vật chứng số 273 ngày 16 tháng 6 năm 2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Đống Đa.

*Áp dụng: Điều 136, 331, 332 của Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Toà án:

Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Bị hại được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt bản án hoặc bản án được niêm yết.

Tải về
Bản án số 215/2020/HS-ST Bản án số 215/2020/HS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất