Bản án số 207/2024/DS-PT ngày 06/09/2024 của TAND tỉnh An Giang về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 207/2024/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 207/2024/DS-PT ngày 06/09/2024 của TAND tỉnh An Giang về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh An Giang
Số hiệu: 207/2024/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 06/09/2024
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Không chấp nhận kháng cáo, sửa bản án sơ thẩm về án phí và cách tuyên án
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH AN GIANG
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Bản án số: 207/2024/DS-PT
Ngày 06-9-2024
V/v tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất, thực hiện nghĩa vụ
tài sản do người chết để lại
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH AN GIANG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Ngô Ngọc Phỉ.
Các Thẩm phán: Ông Lưu Hữu Giàu và ông Nguyễn Hoàng Thám.
- Thư phiên tòa: Bà Nguyễn Bé Thơ Thư Tòa án nhân dân tỉnh An
Giang.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh An Giang tham gia phiên tòa:
Ông Phạm Trường San – Kiểm sát viên.
Từ ngày 04 đến ngày 06 tháng 9 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh
An Giang xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 160/2024/TLPT-DS
ngày 20 tháng 6 năm 2024 về việc tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất, thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại, theo Quyết định đưa vụ
án ra xét xử phúc thẩm số 212/2024/QĐ-PT ngày 22 tháng 7 năm 2024 Quyết
định hoãn phiên tòa phúc thẩm số 240/2024/QĐ-PT ngày 12 tháng 8 năm 2024,
giữa các đương sự:
- Nguyên đơn:
1. Ông Châu Ngọc T, sinh năm 1973 (vắng mặt);
2. Bà Nguyễn Kim C, sinh năm 1978 (vắng mặt);
Cùng nơi cư trú: Số B, khóm T, phường M, thành phố L, tỉnh An Giang.
Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn theo văn bản ủy quyền ngày
18/10/2022: Ông Đặng Văn K, sinh năm 1978; nơi trú: Số B, đường Số A, tổ
F, khóm B, phường B, thành phố L, tỉnh An Giang (có mặt).
- Bị đơn: Ông Minh V, sinh năm 1978; nơi trú: Số B, khóm T,
phường M, thành phố L, tỉnh An Giang (vắng mặt).
Người đại diện hợp pháp của bị đơn theo văn bản ủy quyền ngày
29/8/2024: Ông Trần Tuấn M, sinh năm 1978; nơi trú: Số F, khóm Đ, phường
M, thành phố L, tỉnh An Giang (có mặt).
2
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Bà Võ Thị Phi V1, sinh năm 1960 (vắng mặt);
2. Bà Võ Thị Mỹ T1, sinh năm 1980 (vắng mặt);
3. Ông Võ Minh Huy H, sinh năm 1991 (vắng mặt);
Cùng cư trú: Số B, khóm M, phường M, thành phố L, tỉnh An Giang.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Tại đơn khởi kiện; đơn sửa đổi bổ sung yêu cầu khởi kiện; bản tự khai;
trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn ông Châu Ngọc T, Nguyễn Kim
C (sau đây viết tắt ông T, C) người đại diện theo ủy quyền của nguyên
đơn là ông Đặng Văn K (sau đây viết tắt là ông K) trình bày:
Ngày 01/6/2009, ông Minh V (sau đây gọi tắt ông V) lập hợp đồng
chuyển nhượng cho ông T C quyền s dụng các thửa đất tại khóm T,
phường M, thành phố L, tỉnh An Giang, gồm:
- Diện tích 82,8m
2
đất thuộc thửa số 194, tờ bản đồ số 08 theo Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất (sau đây viết tắt GCN QSD đất) số H.00801hA
do Ủy ban nhân dân (sau đây viết tắt là UBND) thành phố L cấp cho ông V ngày
16/8/2005.
- Diện tích 161m
2
đất ở thuộc thửa số 195, tờ bản đồ số 08 theo GCN QSD
đất số H.00802hA do UBND thành phố L cấp cho ông V ngày 16/8/2005.
- Diện tích 925,2m
2
đất CDG thuộc thửa số 55, tbản đồ số 08 theo GCN
QSD đất số H.00803hA do UBND thành phố L cấp cho ông V ngày 16/8/2005.
Theo hợp đồng thỏa thuận: Giá chuyển nhượng 1.300.000.000đ, có đặt cọc
600.000.000đ, số tiền còn lại sẽ thanh toán khi ông V di dời chướng ngại vật trên
đất, thời hạn giao đất ngày 31/5/2010 (hợp đồng chứng thực tại UBND
phường M).
Số tiền 600.000.000đ do ông Minh K1 (sau đây gọi tắt ông K1,
cha của ông V) nhận giấy nhận tiền. Ngày 23/6/2009, ông T C tiếp
tục trả 300.000.00do ông K1 nhận giấy nhận tiền. Tổng cộng đã thanh
toán tiền chuyển nhượng là 900.000.000đ.
Sau khi hợp đồng, ông T C yêu cầu ông V giao bản chính GCN
QSD đất để chuyển quyền sử dụng đất nhưng ông V không thực hiện.
Ngày 25/8/2010, ông K1 chết.
Ngày 14/7/2011, ông V thế chấp cho Ngân hàng TMCP X (sau đây viết tắt
P) các thửa đất (đã chuyển nhượng) để đảm bảo hợp đồng vay 1.000.000.000đ.
Do người vay không thực hiện nghĩa vụ trả nợ nên P khởi kiện yêu cầu phát
mãi tài sản thế chấp; qtrình giải quyết vụ án, P ông V thỏa thuận với nhau
nên Tòa án ban hành quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự
3
(Quyết định số 52/2013/QĐST-KDTM ngày 24/7/2013). P yêu cầu thi hành án,
quan thi hành án biên tài sản thế chấp. Việc biên tài sản liên quan đến
quyền lợi của ông T C nên ông T và bà C khiếu nại quan thi hành án
được hướng dẫn khởi kiện vụ án.
Năm 2013, ông T C nộp đơn khởi kiện đến Tòa án, yêu cầu ông V
thực hiện chuyển quyền sdụng đất cho ông T C; hoặc yêu cầu ông V
hàng thừa kế của ông K1 nghĩa vụ trả cho ông T C số tiền 900.000.000đ
ông K1 đã nhận. Ngày 25/4/2014, Tòa án thông báo thụ vụ án. Quá trình
giải quyết vụ án, ông T C t đơn khởi kiện, Tòa án ban hành quyết định
đình chỉ giải quyết vụ án (Quyết định số 77/2019/QĐST-DS ngày 19/11/2019).
Ông T C kháng cáo nhưng cấp phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của
ông T và bà C.
Năm 2021, ông T C nộp đơn khởi kiện lại vụ án, yêu cầu ông V phải
tiếp tục thực hiện hợp đồng chuyển nhượng quyền sdụng đất; trường hợp, ông
V không thực hiện hợp đồng, thì yêu cầu hàng thừa kế của ông K1 nghĩa vụ
trả cho ông T và bà C số tiền 900.000.000đ và lãi suất theo quy định pháp luật từ
ngày 23/6/2009 đến ngày xét xử thẩm; yêu cầu Chi cục Thi hành án dân sự
thành phố Long Xuyên giải tỏa quyết định biên tài sản các thửa đất đã
chuyển nhượng cho ông T bà C. Sau đó, ông T C nộp đơn sửa đổi, bổ
sung yêu cầu khởi kiện, yêu cầu ông V phải tiếp tục thực hiện hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất; trường hợp ông V không thực hiện hợp đồng thì yêu
cầu ông V nghĩa vụ trả cho ông T C số tiền 900.000.000đ lãi suất
theo quy định pháp luật t ngày 23/6/2009 đến ngày xét xử thẩm. Ngày
30/6/2021, Tòa án thông báo thụ vụ án. Ngày 18/10/2022, ông T bà C nộp
đơn sửa đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện, yêu cầu ông V hàng thừa kế của ông
K1 nghĩa vụ trả cho ông T C số tiền 900.000.000đ lãi suất theo quy
định pháp luật từ ngày 23/6/2009 đến ngày xét xử sơ thẩm.
Tại phiên tòa sơ thẩm, ông K (là người đại diện của ông T và bà C) yêu cầu
hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất; yêu cầu ông V trả cho ông T
C số tiền 600.000.000đ tiền lãi với mức lãi suất là 15%/năm từ ngày
01/6/2009 đến ngày xét xử sơ thẩm; yêu cầu hàng thừa kế của ông K1 trả cho ông
T C số tiền 300.000.000đ tiền lãi với mức lãi suất 15%/năm từ ngày
23/6/2009 đến ngày xét xử sơ thẩm.
Theo bản tự khai trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn ông V trình
bày:
Ông V thừa nhận xác lập hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
như ông T C trình bày nhưng không thừa nhận việc giao nhận số tiền
900.000.000đ. Sau khi hợp đồng, kéo dài hơn 02 năm, ông T C không
trả tiền chuyển nhượng; ngày 14/7/2011 ông V thế chấp đất cho P để bảo đảm
hợp đồng tín dụng vay số tiền 1.000.000.000đ. P khởi kiện đến Tòa án; P và ông
V thỏa thuận về việc giải quyết vụ án, Tòa án ban hành quyết định công nhận sự
4
thỏa thuận của các đương sự; quan thi hành án đã phát mãi tài sản thi hành
án xong.
Năm 2014, ông V nhận được thông báo thụ vụ án theo đơn khởi kiện
của ông T C. Quá trình giải quyết vụ án, ông T C cung cấp 02 biên
nhận 900.000.000đ mà ông T và C nói ông K1 nhận tiền chuyển nhượng
đất, trong khi ông K1 đã chết ngày 25/11/2010. Do không có chứng cứ nên ông T
C rút đơn khởi kiện, Tòa án đình chỉ giải quyết vụ án theo Quyết định số
77/2019/QĐST-DS ngày 19/11/2019.
Năm 2021, ông T C khởi kiện lại; nay ông V không thừa nhận việc
ông T và Chi trả tiền chuyển nhượng đất 900.000.000đ; không thừa nhận 02
biên nhận 900.000.000đ, vì ông V không ủy quyền cho ông K1 nhận tiền; khi ông
K1 còn sống, ông V không nghe, không biết về 02 biên nhận 900.000.000đ.
Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất không thực hiện được do
ông T và C không trả tiền cho ông V nên ông V không giao đất không
chuyển quyền sử dụng đất cho ông T và bà C.
Việc chuyển nhượng từ năm 2009, đến khi ông K1 chết ngày 25/8/2010
nhưng đến năm 2014 ông T C khởi kiện quá 03 năm nên hết thời hiệu
khởi kiện theo pháp luật quy định. Ông V không đồng ý yêu cầu khởi kiện của
ông T C. Ông V yêu cầu áp dụng thời hiệu, đình chỉ giải quyết toàn bộ yêu
cầu khởi kiện của ông T và bà C.
Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, Thị Phi V1, Thị Mỹ
T1, ông Võ Minh Huy H (sau đây gọi tắt là bà V1, bà T1, ông H) trình bày: Hàng
thừa kế của ông K1, gồm có: Vợ V1; con ông V, bà T1, ông H. Các ông,
bà thống nhất với ý kiến và yêu cầu của ông V.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 152/2024/DS-ST ngày 26/4/2024 của Tòa án
nhân dân thành phố Long Xuyên quyết định:
- Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
- Hủy bỏ hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 01/6/2009.
- Buộc bị đơn có nghĩa vụ trả cho nguyên đơn số tiền 600.000.000đ.
- Không chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về yêu cầu
bị đơn trả tiền lãi 15%/năm từ ngày 23/6/2009 đến 26/4/2024 là 1.355.500.000đ.
- Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về yêu cầu những
người thuộc hàng thừa kế thứ nhất của ông K1 (gồm: V, V1, T1, H) trả
300.000.000đ và tiền lãi 15%/năm từ ngày 23/6/2009 đến 26/4/2024.
Ngoài ra, bản án còn tuyên về nghĩa vụ chậm thi hành án, án phí quyền
kháng cáo của đương sự.
Ngày 09/5/2024, ông T kháng cáo, không đồng ý bản án sơ thẩm.
Ngày 14/5/2024, ông V kháng cáo, không đồng ý bản án sơ thẩm.
5
Tại phiên tòa:
- Ông K đại diện nguyên đơn trình bày: Nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu
khởi kiện; ông T giữ nguyên yêu cầu kháng cáo: Yêu cầu cấp phúc thẩm sửa bản
án thẩm: Buộc bị đơn trả cho nguyên đơn số tiền 600.000.000đ (không yêu
cầu trả lãi); buộc hàng thừa kế của ông K1 gồm: V1, ông V, T1 ông H
trả cho nguyên đơn số tiền 300.000.000đ trong phạm vi di sản của ông K1 chết để
lại (không yêu cầu trả lãi); không đồng ý bản án thẩm buộc nguyên đơn phải
chịu án phí đối với yêu cầu trả tiền lãi không được chấp nhận. Nguyên đơn không
đồng ý yêu cầu kháng cáo của bị đơn.
- Ông Trần Tuấn M (sau đây gọi tắt là ông M) đại diện bị đơn trình bày: Bị
đơn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo đối với số tiền 600.000.000đ: Yêu cầu cấp
phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm: Áp dụng thời hiệu để đình chỉ giải quyết yêu cầu
khởi kiện của nguyên đơn đối với số tiền 600.000.000đ. Bị đơn không đồng ý yêu
cầu kháng cáo của ông T, bị đơn đồng ý bản án sơ thẩm về đình chỉ giải quyết đối
với số tiền 300.000.000đ.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh An Giang phát biểu ý kiến:
- Về tuân theo pháp luật tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử Thư
phiên tòa thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng
dân sự. Những người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng, đầy đủ quyền nghĩa
vụ tố tụng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
- Về giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 2 Điều 308,
Điều 309 của Bộ luật Tố tụng n sự: Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn;
chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn ông T, sửa một phần Bản án dân sự
thẩm số: 152/2024/DS-ST ngày 26/4/2024 của Tòa án nhân dân thành phố Long
Xuyên: Buộc ông V nghĩa vụ trả lại cho ông T, C số tiền 600.000.000đ.
Buộc ông V, V1, bà T1, ông H nghĩa vụ trả lại cho ông T, C số tiền
300.000.000đ trong phạm vi di sản thừa kế của ông K1 để lại. Đình chỉ yêu cầu
tính lãi suất của nguyên đơn đối với bị đơn. Các đương sự phải chịu án phí theo
quy định.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Về nh thức đơn kháng cáo: Ông T, ông V kháng cáo trong thời hạn
pháp luật quy định nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm. Do đó, cấp phúc
thẩm giải quyết vụ án theo quy định tại Điều 293 Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2] Về nội dung kháng cáo:
[2.1] Về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn:
Ngày 25/11/2013, nguyên đơn nộp đơn khởi kiện bị đơn ông V về “yêu
cầu ông V phải tiếp tục thực hiện chuyển quyền sử dụng đất cho nguyên đơn”.
Ngày 10/4/2014, nguyên đơn nộp đơn khởi kiện bổ sung đối với người
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan hàng thừa kế của ông K1, về “yêu cầu ông V
6
phải tiếp tục thực hiện chuyển quyền sử dụng đất cho nguyên đơn; hoặc yêu cầu
các đồng thừa kế của ông K1 phải trả cho nguyên đơn stiền 900.000.000đ
tiền lãi theo quy định pháp luật”.
Ngày 25/4/2014, Tòa án thông báo thu vụ án về “tranh chấp hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất; yêu cầu trả tiền”.
Sau đó, nguyên đơn rút đơn khởi kiện Tòa án đình chỉ giải quyết vụ án
theo Quyết định số 77/2019/QĐST-DS ngày 19/11/2019.
Ngày 22/01/2021, nguyên đơn nộp đơn khởi kiện lại vụ án, về “yêu cầu
ông V phải tiếp tục thực hiện hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất;
trường hợp, ông V không thực hiện hợp đồng, tyêu cầu hàng thừa kế của ông
K1 nghĩa vụ trả cho T C số tiền 900.000.000đ lãi suất theo quy định
pháp luật từ ngày 23/6/2009 đến ngày xét xử sơ thẩm”.
Ngày 19/3/2021, nguyên đơn nộp đơn sửa đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện,
về“yêu cầu ông V phải tiếp tục thực hiện hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất; trường hợp ông V không thực hiện hợp đồng thì yêu cầu ông V
nghĩa vụ trả cho ông T C số tiền 900.000.000đ lãi suất theo quy định
pháp luật từ ngày 23/6/2009 đến ngày xét xử sơ thẩm”.
Ngày 30/6/2021, Tòa án thông báo thụ vụ án về “tranh chấp hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất và yêu cầu thực hiện nghĩa vụ trả tiền”.
Ngày 18/10/2022, nguyên đơn nộp đơn sửa đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện,
về “yêu cầu ông V hàng thừa kế của ông K1 nghĩa vụ trả cho ông T
C số tiền 900.000.000đ và lãi suất theo quy định pháp luật từ ngày 23/6/2009 đến
ngày xét xử sơ thẩm”.
Như vậy, nguyên đơn thay đổi yêu cầu khởi kiện về “tranh chấp đòi tài
sản”, là yêu cầu ông V và hàng thừa kế thứ nhất của ông K1 cùng có nghĩa vụ trả
cho nguyên đơn 900.000.000đ tiền lãi; xem như nguyên đơn đã rút phần yêu
cầu thực hiện hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Xét thấy, việc nguyên
đơn thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện trong quá trình giải quyết vụ án nhưng
vẫn trong phạm vi stiền 900.000.000đ như đơn khởi kiện ban đầu đúng theo
quy định tại khoản 4 Điều 70, khoản 1 khoản 2 Điều 71 của Bộ luật Tố tụng
dân sự.
Cấp thẩm thông báo về việc nguyên đơn thay đổi yêu cầu khởi kiện
nhưng cấp thẩm không thông báo xác định lại quan hệ pháp luật tranh chấp
đòi tài sản; đây là lỗi của cấp sơ thẩm, không phải lỗi của nguyên đơn; tuy nhiên,
quá trình giải quyết ván, cấp thẩm xem xét giải quyết về tranh chấp đòi
tài sản số tiền 900.000.000đ; do vậy, không ảnh hưởng quyền lợi ích hợp
pháp của đương sự.
Tại phiên tòa thẩm, ông K (đại diện nguyên đơn) yêu cầu hủy hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất; yêu cầu ông V trả cho nguyên đơn số tiền
600.000.000đ và tiền lãi; yêu cầu hàng thừa kế của ông K1 (gồm: V1, ông V,
7
T1 ông H) trả cho nguyên đơn số tiền 300.000.000đ tiền lãi. Xét thấy,
người đại diện của nguyên đơn sửa đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện của nguyên
đơn nhưng vẫn trong phạm vi khởi kiện ban đầu của nguyên đơn là đòi stiền
900.000.000đ và tiền lãi. Do đó, việc thay đổi yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn
về số tiền 900.000.000đ phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 244 của Bộ
luật Tố tụng dân sự. Đối với yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất yêu cầu bổ sung vượt quá yêu cầu khởi kiện ban đầu của nguyên
đơn. Căn cứ khoản 1 Điều 244 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử
không xem xét yêu cầu bổ sung về yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền
sử dụng đất.
[2.2] Về thời hiệu khởi kiện:
Tại khoản 1 Điều 3 của hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất,
nguyên đơn ông V thỏa thuận: “Bên A nghĩa vụ giao thửa đất nêu trên
tại Điều 1 của hợp đồng này cùng giấy tờ về quyền sử dụng đất cho bên B vào
thời điểm ngày 31/5/2010 giao mặt bằng cho bên mua”. Tại Tờ tường trình ngày
20/5/2016, nguyên đơn trình bày: “Ông K1, V1 ông V hứa hẹn di dời
chướng ngại vật giao đất cho chúng tôi nhưng không thực hiện. Đến khi ông K1
chết, khoảng 03 tháng sau (khoảng tháng 12/2010), chúng i đến nhà gặp trực
tiếp V1 và ông V nhưng cứ hứa hẹn…”. Như vậy, nguyên đơn đã biết quyền
lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm từ ngày 01/6/2010 (do ông V không
giao giấy tvề quyền sử dụng đất không giao đất theo hợp đồng thỏa thuận);
nguyên đơn biết ông K1 chết là tháng 8/2010.
Tại Điều 429 của Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “Thời hiệu khởi kiện
để yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp hợp đồng là 03 năm kể từ ngày người có
quyền yêu cầu biết hoặc phải biết quyền lợi ích hợp pháp của mình bị xâm
phạm”.
Tại khoản 3 Điều 623 của Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “Thời hiệu
khởi kiện yêu cầu thực hiện nghĩa vụ tài sản của người chết để lại 03 năm kể
từ thời điểm mở thừa kế”.
Tại khoản 1 Điều 611 của Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “Thời điểm
mở thừa kế là thời điểm người có tài sản chết….”
Trong trường hợp này, thời hạn để nguyên đơn thực hiện quyền khởi kiện
là: Về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng đất trong thời hạn 03 năm tính từ
ngày 01/6/2010 (biết ông V không giao giấy tờ đất không giao đất) đến hết
ngày 01/6/2013; về yêu cầu hàng thừa kế của ông K1 thực hiện nghĩa vụ theo
Điều 614 của Bộ luật Dân sự năm 2015 trong thời hạn 03 năm tính từ ngày
25/11/2010 (ông K1 chết) đến ngày 25/11/2013.
Tuy nhiên, đến ngày 25/11/2013 nguyên đơn nộp đơn khởi kiện về tranh
chấp hợp đồng hết thời hiệu khởi kiện; đến ngày 10/4/2014 nguyên đơn nộp
đơn yêu cầu hàng thừa kế của ông K1 thực hiện nghĩa vụ hết thời hiệu khởi
kiện. Do đó, không xem xét tiền lãi đối với số tiền gốc 900.000.000đ.
8
Căn cứ vào điểm e khoản 1 Điều 217 của Bộ luật Tố tụng dân sự, đình chỉ
giải quyết yêu cầu của nguyên đơn về yêu cầu trả tiền lãi.
Đối với yêu cầu trả tiền gốc 900.000.000đ yêu cầu bảo vệ quyền sở hữu
theo quy định tại khoản 1 Điều 105, Điều 158 của Bộ luật Dân sự năm 2015 nên
không áp dụng thời hiệu theo quy định tại khoản 2 Điều 155 của Bộ luật Dân sự
năm 2015. Do đó, cấp sơ thẩm xem xét giải quyết tiền gốc 600.000.000đ là
đúng, nhưng cấp thẩm đình chỉ giải quyết tiền gốc 300.000.000đ do hết thời
hiệu khởi kiện là không đúng.
[2.3] Về trách nhiệm hoàn trả tiền gốc:
Đối với số tiền gốc 600.000.000đ: Tuy ông V không thừa nhận nhận
của nguyên đơn 600.000.000đ nhưng căn cứ vào bảng hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất ghi tại khoản 2 Điều 2: “Phương thức thanh toán: Bên B
đặt cọc số tiền 600.000.000đ; số tiền còn lại bên B thanh toán cho bên A khi bên
A di dời xong chướng ngại vật”. Ông V thừa nhận xác lập tên tại
bảng hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất (hợp đồng chứng thực tại
Ủy ban nhân dân phường M); tức ông V nhận 600.000.000đ của nguyên
đơn. Giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa nguyên đơn ông V
không thực hiện được; hơn nữa, đối tượng trong hợp đồng không còn (do ông V
đã thế chấp đất cho ngân hàng đã phát mãi thi hành án xong cho ngân hàng);
đồng thời, cũng hết thời hiệu về yêu cầu xem xét hợp đồng. Do đó, cấp sơ thẩm
buộc ông V hoàn trả cho nguyên đơn số tiền gốc 600.000.000đ sở, phù
hợp với quy định tại khoản 1 khoản 4 Điều 91, điểm a điểm c khoản 1,
khoản 2 Điều 92 và Điều 93 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Đối với số tiền gốc 300.000.000đ: Theo tài liệu, chứng cứ do nguyên đơn
giao nộp là tờ Biên nhận nhận 300.000.000đ lập ngày 23/6/2009, có ghi nội dung:
“Tôi Minh K1 nhận đợt II 300.000.000đ (Ba trăm triệu đồng chẵn)”. Xét
thấy, tuy biên nhận ghi Minh K1 nhận 300.000.000đ nhưng biên nhận
không ghi do nhận 300.000.000đ, không ghi chủ thể giao 300.000.000đ cho
ông K1; biên nhận không ghi htên ông T C, không ghi chủ sở hữu ông T
C giao 300.000.000đ. Hơn nữa, hàng thừa kế của ông K1 không thừa nhận
việc ông K1 nhận 300.000.000đ của nguyên đơn, đồng thời, những người làm
chứng do nguyên đơn cung cấp là ông Trần Tiến V2 lời khai (tại Bản tkhai
ngày 02/12/2023) xác nhận không biết và không chứng kiến việc nguyên đơn
giao 300.000.000đ cho ông K1; ông Nguyễn Thanh D Trương Thị Thanh L
lời khai (tại Biên bản đối chất ngày 28/11/2017) xác nhận không biết
không chứng kiến việc nguyên đơn giao 300.000.000đ cho ông K1.
Tại cấp phúc thẩm, nguyên đơn không cung cấp tài liệu, chứng cứ mới.
Như vậy, Biên nhận lập ngày 23/6/2009 không phải chứng cứ chứng minh về
việc ông K1 nhận stiền 300.000.000đ của nguyên đơn. Do đó, nguyên đơn yêu
cầu hàng thừa kế của ông K1 trả cho nguyên đơn số tiền 300.000.000đ không
có cơ sở.
9
[2.4] Từ những nhận định trên, cấp phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo
của ông T; không chấp nhận kháng cáo của ông V. Tuy nhiên, đối với phần đình
chỉ giải quyết yêu cầu của nguyên đơn về tiền lãi thì nguyên đơn không phải chịu
án ptheo quy định tại khoản 3 Điều 218 của Bluật Tố tụng dân sự; nguyên
đơn phải chịu án phí dân sự thẩm đối với yêu cầu số tiền 300.000.000đ không
được chấp nhận. Do đó, cấp phúc thẩm sửa một phần bản án thẩm về cách
tuyên án và về án phí dân sự sơ thẩm.
[3] Về án phí dân sự phúc thẩm: Căn cứ vào khoản 2 Điều 148 Bộ luật Tố
tụng dân sự khoản 2 Điều 29 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí lệ phí Tòa
án, ông T và ông V không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào khoản 2 Điều 148, điểm e khoản 1 Điều 217, khoản 3 Điều
218, khoản 2 Điều 308, khoản 1 Điều 309 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 105,
khoản 2 Điều 155, Điều 158, Điều 429, khoản 3 Điều 623 của Bộ luật Dân sự
năm 2015; khoản 2 Điều 29 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm,
thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông Châu Ngọc T.
2. Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông Võ Minh V.
3. Sửa một phần Bản án dân sự thẩm số: 152/2024/DS-ST ngày
26/4/2024 của Tòa án nhân dân thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang về ch
tuyên án và về án phí:
- Đình chỉ giải quyết yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Châu Ngọc T
và bà Nguyễn Kim C về yêu cầu trả tiền lãi.
- Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Châu Ngọc T và bà Nguyễn
Kim C về yêu cầu hàng thừa kế của ông Minh K1, gồm: Thị Phi V1,
ông Võ Minh V, bà Võ Thị Mỹ T1, ông Võ Minh Huy H trả số tiền 300.000.000đ
(ba trăm triệu đồng).
- Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Châu Ngọc T và bà Nguyễn Kim C
về yêu cầu ông Võ Minh V trả số tiền 600.000.000đ (sáu trăm triệu đồng).
- Buộc ông Minh V nghĩa vụ trả cho ông Châu Ngọc T
Nguyễn Kim C số tiền 600.000.000đ (sáu trăm triệu đồng).
Kể từ ngày quyết định hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp
quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày
đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải
10
trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản
tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn
phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự
năm 2015.
- Về án phí dân sự sơ thẩm:
+ Ông Minh V phải chịu án phí dân sự thẩm 28.000.000đ (hai
mươi tám triệu đồng).
+ Ông Châu Ngọc T Nguyễn Kim C phải chịu án phí dân sự thẩm
là 15.000.000đ (mười lăm triệu đồng), được trừ vào tiền tạm ứng án phí dân sự sơ
thẩm 19.800.000đ (mười chín triệu tám trăm nghìn đồng) đã nộp theo Biên lai thu
số 0000541 ngày 30 tháng 6 năm 2021 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố
Long Xuyên, tỉnh An Giang. Ông Châu Ngọc T Nguyễn Kim C được nhận
lại tiền tạm ứng án phí dân sự thẩm 4.800.000đ (bốn triệu tám trăm nghìn
đồng) đã nộp theo Biên lai thu số 0000541 ngày 30 tháng 6 năm 2021 của Chi cục
Thi hành án dân sự thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang.
3. Về án phí dân sự phúc thẩm:
- Ông Châu Ngọc T không phải chịu án phí phúc thẩm, được nhận lại tiền
tạm ứng án phí dân sự thẩm 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) đã nộp theo Biên
lai thu số 0002055 ngày 15 tháng 5 năm 2024 của Chi cục Thi hành án dân sự
thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang.
- Ông Minh V không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm, được nhận lại
tiền tạm ứng án phí dân sthẩm 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) đã nộp theo
Biên lai thu số 0002083 ngày 20 tháng 5 năm 2024 của Chi cục Thi hành án dân
sự thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành
án dân sự thì người được thi hành án n sự, người phải thi hành án dân sự
quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án
hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b 9 Luật
Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều
30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- TAND cấp cao tại TP HCM;
- VKSND tỉnh An Giang;
- Phòng KTNV&THA tỉnh;
- TAND TP Long Xuyên;
- Chi cục THADS TP Long Xuyên;
- Tòa Dân sự;
- Đương sự (để thi hành);
- Lưu: VT, hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(Đã ký)
Ngô Ngọc Phỉ
11
Tải về
Bản án số 207/2024/DS-PT Bản án số 207/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 207/2024/DS-PT Bản án số 207/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất