Bản án số 20/2022/HS-ST ngày 24/06/2022 của TAND huyện Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên về tội vô ý làm chết người

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng tội danh
  • Tải về
Mục lục
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 20/2022/HS-ST

Tên Bản án: Bản án số 20/2022/HS-ST ngày 24/06/2022 của TAND huyện Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên về tội vô ý làm chết người
Tội danh: 128.Tội vô ý làm chết người (Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015)
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND huyện Võ Nhai (TAND tỉnh Thái Nguyên)
Số hiệu: 20/2022/HS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 24/06/2022
Lĩnh vực: Hình sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ án:
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VÕ NHAI, TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 20/2022/HS-ST NGÀY 24/06/2022 VỀ TỘI VÔ Ý LÀM CHẾT NGƯỜI

Ngày 24 tháng 6 năm 2022, tại Hội trường xét xử Toà án nhân dân huyện Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 19/2022/TLST-HS ngày 11 tháng 5 năm 2022; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 22/2022/QĐXXST-HS ngày 09 tháng 6 năm 2022 đối với bị cáo:

- Họ và tên: Hoàng Văn C; Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam; Sinh ngày: 08 tháng 12 năm 2000; Nơi sinh: tại tỉnh CB; Nơi đăng ký HKTT và nơi cư trú: xóm LG, xã LH, huyện VN, tỉnh TN; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Mông; Tôn giáo: Tin lành; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa:

10/12; Con ông Hoàng Văn S, sinh năm 1983 và bà Ngô Thị T1, sinh năm 1982; Anh chị em ruột: Gia đình có 02 anh em, bị cáo là con thứ nhất; Vợ: Dương Thị S, sinh năm 2003; Con: Có 02 con, lớn nhất sinh năm 2019, nhỏ nhất sinh năm 2021; Tiền án; Tiền sự: Không.

- Bị cáo không bị tạm giữ, tạm giam, hiện đang bị áp dụng lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú, có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo Hoàng Văn C: Ông Vũ Văn C1 - Trợ giúp viên pháp lý, Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Thái Nguyên, có mặt.

- Bị hại: Cháu La Ngọc Nh, sinh ngày 12/11/2018 (đã chết).

Địa chỉ: Xóm LG, xã LH, huyện VN, tỉnh TN.

- Người đại diện hợp pháp cho bị hại cháu La Ngọc Nh:

+ Anh La Văn T, sinh năm 1996 (bố đẻ), có mặt.

+ Chị Ngô Thị V, sinh năm 2000 (mẹ đẻ), có mặt.

Cùng địa chỉ: Xóm LG, xã LH, huyện VN, tỉnh TN.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

+ Anh La Văn Đ, sinh năm 1999, có mặt.

Địa chỉ: Xóm LG, xã LH, huyện VN, tỉnh TN.

+ Ông Bùi Văn D, sinh năm 1958, có mặt.

Địa chỉ: Xóm Ph, xã LH, huyện VN, tỉnh TN.

- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh La Văn Đ: Ông Phạm Ngọc Kh - Luật sư, cộng tác viên Trung tâm trợ giúp viên pháp lý Nhà nước tỉnh Thái Nguyên, có mặt.

- Người làm chứng:

+ Anh Dương Văn S, sinh năm 1989, vắng mặt.

Địa chỉ: Xóm CH, xã TX, huyện VN, tỉnh TN.

+ Bà Hoàng Thị X, sinh năm 1979, có mặt.

+ Chị Ngô Thị V, sinh năm 2000, có mặt.

Cùng địa chỉ: Xóm LG, xã LH, huyện VN, tỉnh TN.

NỘI DUNG VỤ ÁN:

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng tháng 5 năm 2021 ông Bùi Văn D, trú tại xóm Ph, xã LH, huyện VN, tỉnh TN có thuê một mảnh đất của bà Vũ Thị Ch tại xóm LG, xã LH, huyện VN, tỉnh TN để làm sân phơi các sản phẩm gỗ bóc. Trong quá trình hoạt động kinh doanh ông D có thuê chị Ngô Thị V và anh La Văn Đ đều trú tại xóm LG, xã LH làm công nhân cho xưởng gỗ bóc của ông D theo mức lương thỏa thuận với nhiệm vụ phơi gỗ bóc tại mảnh đất thuê cũng như bốc gỗ bóc về xưởng sản xuất. Đến tháng 4 năm 2021 ông D có mua một chiếc xe ô tô BKS 12A-3784 của một người không quen biết (theo dạng hoán cải), mục đích để phục vụ cho việc chở sản phẩm gỗ bóc từ sân phơi về xưởng để chế biến. Nhưng sau khi sử dụng thấy xe không đảm bảo an toàn, nên ông D không sử dụng mà để tại bãi đất trống. Chiều ngày 13/11/2021 chị V đến bãi phơi gỗ của ông D để làm việc, khi đi chị có dắt theo cháu La Ngọc Nh, sinh ngày 12/11/2018 đi cùng đến bãi phơi gỗ bóc. Sau đó chị V để cháu Nh chơi một mình tại sân phơi gỗ bóc, còn chị V đi vào làm việc bình thường.

Đến khoảng 17 giờ cùng ngày La Văn Đ cùng làm việc tại đây thấy chiếc xe ô tô BKS 12A-3784 của ông D để tại bãi đất trống trước cửa nhà ông Lý Văn T (sát với bãi phơi gỗ) lên xe ô tô nổ máy và điều khiển lên bãi phơi gỗ, mục đích là để thu gom các miếng ván bóc lên xe để chở về xưởng. Khi Đ điều khiển xe đến hàng giá phơi có gỗ bóc đã phơi thì Đ lùi xe vào lối mòn giữa hai hàng giá phơi gỗ, khi lùi đến cuối hàng giá phơi thì lúc này có Hoàng Văn C, trú tại xóm LG, xã LH, huyện VN là người quen của Đ đi làm thuê về qua rẽ vào chơi. Thấy Đ lái xe, do tò mò nên C đến xem và lên ghế phụ của cabin xe ngồi. Đ tiếp tục lùi xe vào phía trong hàng giá phơi gỗ để chị V ra phía sau thu các miếng gỗ bóc lên xe, lúc này cháu Nh chơi ở phía trước đầu xe, nơi các giá đang phơi gỗ bóc còn ướt. Khi chị V đã thu các miếng gỗ bóc lên xe ô tô thì bảo Đ tiến lên phía trước, nghe thấy vậy C xin Đ cho thử điều khiển xe ô tô. Đ đồng ý, lúc này Đ chuyển sang ghế phụ còn C sang ngồi ghế lái. Đ hướng dẫn C cách vào số, đạp côn, tiếp ga để xe chạy. Sau khi hướng dẫn xong C trực tiếp nổ máy, vào số và tiếp ga thì xe di chuyển lao nhanh về phía trước, khi di chuyển được khoảng 14,5m C điều khiển tay lái xe di chuyển lệch sang phải và đâm va làm gẫy đổ hàng giá phơi các tấm gỗ bóc và đâm vào người cháu Nh đang chơi ở phía bên phải của giá phơi gỗ (theo chiều đi của xe) làm cháu Nh bị thương nặng và tử vong trên đường đi cấp cứu.

Ngay sau khi sự việc xảy ra Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Võ Nhai đã phối hợp với Viện kiểm sát nhân dân huyện Võ Nhai tổ chức khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi cháu La Ngọc Nh.

Kết quả khám nghiệm hiện trường: Hiện trường là khu vực bãi đất của bà Vũ Thị Ch, sinh 1951 thuộc xóm LG, xã LH, huyện VN, tỉnh TN có nền đất tương đối bằng phẳng, dốc cao dần từ hướng Bắc đến hướng Nam.

Phía Bắc giáp đường tỉnh lộ ĐT271 đoạn đi qua xóm LG, phía Đông giáp đất nhà ông Lý Văn M, phía Tây giáp đường đất đi vào bãi đất nhà ông Lý Văn T2, phía Nam giáp đất vườn và nhà ở của bà Vũ Thị Ch.

Trên bãi đất có nhiều hàng giá gỗ dùng để phơi các tấm gỗ bóc được sếp song song trải dài theo hướng từ Đông sang Tây. Xung quanh hiện trường không có bảng hướng dẫn, biển báo hiệu.

Hiện trường cụ thể: Là tại hàng giá phơi tấm gỗ bóc thứ 7 (hàng phơi gỗ thứ 7) theo thứ tự đếm lần lượt từ Bắc đến Nam trên bãi đất.

Tại hàng phơi gỗ bóc thứ 7 có phơi nhiều tấm gỗ bóc kích thước 33 x 1,3m, cách mép đường phía Nam ĐT 271 là 33,6m; đầu phía Tây của hàng phơi gỗ thứ 7 tiếp giáp đường đất đi vào bãi đất; Tâm hàng phơi gỗ thứ 7 cách tâm hàng phơi gỗ thứ 6 là 3,1m, cách tâm hàng phơi gỗ thứ 8 là 4m, hàng phơi gỗ thứ 7 và hàng phơi gỗ thứ 8 xếp song song nhau tạo thành khoảng đất trống giữa hai hàng là 2,3m.

Tại hàng phơi gỗ thứ 7 phát hiện một vùng đổ gẫy giá phơi và các tấm gỗ bóc, có kích thước 10,3 x 4,7m, có tâm cách mép đường phía Nam đường ĐT 271 là 33,6m, cách đầu phía tây của hàng phơi gỗ thứ 7 là 13,25m. Trong vùng này có nhiều thanh gỗ hình trụ tròn làm giá phơi gỗ có đường kính là 2,3cm bị gẫy độ dài khác nhau, thanh dài nhất 1,27m và nhiều mảnh gỗ có hình thù, kích thước khác nhau, tấm ván gỗ nguyên vẹ có kích thước 127 x 64cm, dày 2mm.

Tại tâm vùng đổ gẫy giá phơi các tấm gỗ bóc phát hiện 1 vùng dung dịch màu nâu đỏ nghi là máu người được ký hiêu (1), vùng (1) kích thước 30x25cm, cách tâm hàng phơi gỗ thứ 6 là 3,6m.

Tại vùng đổ gẫy giá phơi và các tấm gỗ bóc phát hiện 01 vết trượt hằn đất nghi là vết bánh xe ô tô được ký hiệu (2), vết (2) có chiều hướng từ Đông sang Tây, hơi chếch chéo về hướng Tây Bắc, vết (2) có chiều dài 3,4m, rồng trung bình 15cm, điểm cuối vết (2) cách tâm vùng (1) là 20cm, điểm đầu vết (2) cách tâm hàng phơi gỗ thứ 7 là 64cm.

Kết quả khám nghiệm tử thi La Ngọc Nh xác định các dấu vết tổn thương trên cơ thể: Vùng trán bên trái ngang sát cung lông mày trái có hai vết xây sát da kích thước (1,5x1,0)cm và (2,5x1,0)cm; mũi và ống tai bên phải có máu chảy ra; vùng thái dương trái cách trên gốc tai trái 5,0cm có vết xây sát da kích thước (3,5x2,5)cm; sát sau gốc tai trái có vết xây sát da kích thước (4,0x1,0)cm; rách vành tai bên phải; vùng thái dương phải ngày sát gốc tai phải có vết xây sát da kích thước (4,5x2,5)cm; vùng thái dương phải cách trên gốc tai phải 5,5cm có vết xây sát da kích thước (3,0x2,0)cm; vùng vai bên trái có vết xây sát da kích thước (1,2x1,0)cm; mặt trước cánh tay bên trái có vết xây sát da rải rác trong diện kích thước (8,0x4,5)cm; mặt ngoài cẳng tay phải xây sát da rải rác; vùng bẹn bên trái có vết xây sát da kích thước (6,0x1,5)cm; vùng mông bên trái có vết xây sát da kích thước (5,0x2,5)cm; vùng gáy có vết xây sát da kích thước (6,0x3,5)cm; mặt sau cẳng chân trái có vết xây sát da kích thước (4,5x1,0)cm. Mổ tử thi: Vỡ xương thái dương đỉnh bên phải, chảy máu ngoài màng cứng thùy thái dương bên phải, trật đốt sống cổ số 3,4, gãy cung trước xương sườn 2,3,4 bên phải; khoang ngực phải có máu không đông; phổi bên phải bị dập rách.

Kết quả khám nghiệm phương tiện xe ô tô BKS 12A-3784 đã được hoán cải:

+ Thanh kim loại phía trước đầu xe có vết mài tì ấn kim loại kính thước (20x10)cm, tâm cách mép thành cabin bên trái người điều khiển 42cm, cao cách mặt đất 62cm.

+ Còi lắp thêm phía trước đầu xe phía dưới thanh kim loại tại mặt bên trái người điều khiển có vết mài kích thước (5x4)cm, cao cách mặt đất 45cm.

+ Thanh kim loại phía dưới gầm đầu xe có vết mài tì ấn rải rác kích thước (32x0,5)cm, cao cách mặt đất 43cm.

+ Đầu bát lái phía trước gầm xe có vết mài kim loại kích thước (8x0,5)cm, cao cách mặt đất 45cm.

+ Giàn sắt xi bên trái người điều khiển có vết mài kim loại và tì ấn kim loại kích thước (12x0,5)cm, cao cách mặt đất 30cm.

+ Sàn phía sau cabin được hành khung kim loại mặt sàn có nhiều mảnh gỗ vụn.

- Kỹ thuật an toàn phương tiện: Xe đã được hoán cải, tem kiểm định có giá trị đến hết ngày 11/7/2017.

Tại Bản kết luận số: 1632/KL-KTHS ngày 10/12/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên kết luận: La Ngọc Nh bị tổn thương đa chấn thương: Chấn thương sọ não, vỡ xương thái dương đỉnh phải, chảy máu ngoài màng cứng thuỳ thái dương phải; trật đốt sống cổ số 3,4; chấn thương ngực kín, gãy xương sườn số 2,3,4 bên phải, dập rách phổi phải, chảy tụ máu trong khoang ngực phải dẫn đến chết.

Tại Cơ quan điều tra bị cáo Hoàng Văn C đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai của bị cáo phù hợp với biên bản khám nghiệm hiện trường, sơ đồ hiện trường, biên bản khám nghiệm phương tiện, kết quả thực nghiệm điều tra, lời khai của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, lời khai của người làm chứng, biên bản khám nghiệm tử thi, kết luận giám định và các tài liệu khác thu thập được có trong hồ sơ vụ án.

Tại Bản cáo trạng số 19/CT-VKSVN ngày 11/5/2022 Viện kiểm sát nhân dân huyện Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên đã truy tố đối với bị cáo Hoàng Văn C về tội “Vô ý làm chết người” quy định tại khoản 1 Điều 128 Bộ luật hình sự.

Kết thúc phần xét hỏi, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện Võ Nhai luận tội giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Hoàng Văn C về tội “Vô ý làm chết người” theo khoản 1 Điều 128 Bộ luật hình sự. Sau khi đánh giá chứng cứ đã đề nghị xử phạt đối với bị cáo như sau: Áp dụng khoản 1 Điều 128; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 65 Bộ luật hình sự; Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 hướng dẫn áp dụng Điều 65 của Bộ luật hình sự về án treo xử phạt: Hoàng Văn C từ 18 đến 24 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 36 tháng đến 48 tháng.

Về vật chứng tịch thu tiêu hủy: 01 vỏ phong bì ký hiệu A1 bên trong chứa 01 mẫu dung dịch màu đỏ thu tại hiện trường; 01 xe ô tô gắn biển kiểm soát 12A-3784 đã được hoán cải, số khung SRYOE2MH 000259, SV 08259 ROG xe cũ nát (xe hết hạn kiểm định đã bị thu hồi không được phép lưu hành).

Về trách nhiệm dân sự: Đề nghị Hội đồng xét xử ghi nhận sự thỏa thuận tự nguyện bồi thường, hỗ trợ của bị cáo C, anh Đ, ông D với gia đình cháu Nh. Cụ thể: Bị cáo Hoàng Văn C 10.000.000 đồng và 01 con lợn 80 kg; Anh La Văn Đ 01 con lợn 70kg; Ông Bùi Văn D15.000.000 đồng.

Về án phí: Miễn án phí cho bị cáo theo quy định.

Ý kiến phát biểu của ông Vũ Văn C1 bào chữa cho bị cáo C: Nhất trí với bản Cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố bị cáo C về tội danh như đã nêu và nhất trí với các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như Viện kiểm sát đề nghị. Sau khi phân tích đánh giá chứng cứ và những hành vi phạm tội của bị cáo thấy bị cáo phạm tội với lỗi vô ý. Trước khi phạm tội bị cáo có nhân thân tốt chưa có tiền án tiền sự, có địa chỉ rõ ràng, bị cáo là người dân tộc thiểu số, quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đã bồi thường thiệt hại khắc phục hậu quả, đại diện bị hại chị V mẹ đẻ cháu Nh có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, đồng thời bị cáo có đơn xin cải tạo tại địa phương được UBND xã LH xác nhận nội dung nêu trong đơn là đúng. Tại phiên tòa bị hại chị V và anh T xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Từ những viện dẫn nêu trên người bào chữa đề nghị HĐXX áp dụng khoản 1 Điều 128; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 65 Bộ luật hình sự; Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 hướng dẫn áp dụng Điều 65 của Bộ luật hình sự về án treo cho bị cáo được hưởng mức án 18 tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Phần bồi thường thiệt hại đại diện gia đình bị hại không yêu cầu gì thêm không yêu cầu giải quyết. Về án phí bị cáo thuộc hộ nghèo nên đề nghị Hội đồng xét xử miễn án phí cho bị cáo theo quy định của pháp luật.

Bị cáo C không có ý kiến bổ sung thêm và không tranh luận với Viện kiểm sát.

Đại diện của đại diện bị hại anh La Văn T và chị Ngô Thị V, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Bùi Văn D không tranh luận gì với Viện kiểm sát.

Ý kiến phát biểu của ông Phạm Ngọc Kh bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho anh La Văn Đ: Đối với anh La Văn Đ tham gia tố tụng là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trong vụ án là người chưa có giấy phép lái xe nhưng đã hướng dẫn và giao xe ô tô cho bị cáo C lái thử dẫn đến xảy ra tai nạn. Tuy nhiên nơi xảy ra tai nạn không phải đường giao thông, chiếc xe ô tô đã bị thu hồi không được phép lưu hành, bị cáo C thực hiện tội phạm với lỗi vô ý, nên Cơ quan cảnh sát điều tra và Viện kiểm sát nhân dân huyện Võ Nhai không khởi tố và truy tố là có căn cứ. Tuy không phải là người gây ra cái chết cho cháu Nh nhưng anh Đ cũng đã tự nguyện hỗ trợ cho gia đình cháu Nh 01 con lợn 70 kg, đề nghị Hội đồng xét xử ghi nhận các bên đã tự nguyện bồi thường theo quy định của pháp luật.

Anh La Văn Đ không có ý kiến bổ sung thêm và không tranh luận với Viện kiểm sát.

Bị cáo nói lời sau cùng xin Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất cải tạo tại địa phương.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ:

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Võ Nhai, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Võ Nhai, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã mô tả, bị cáo xác định cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Võ Nhai truy tố là đúng người, đúng tội.

Xét thấy lời nhận tội của bị cáo tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa là tự nguyện, khách quan, phù hợp với các chứng cứ, tài liệu khác đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án như: Biên bản sự việc, kết luận giám định về thương tích, lời khai của bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan và lời khai của những người làm chứng. Như vậy, có đủ cơ sở để xác định: Khoảng 17 giờ ngày 13/11/2021 tại khuôn viên khu vực bãi phơi gỗ bóc của ông Bùi Văn D, sinh năm 1958 thuê đất của bà Vũ Thị Ch, sinh năm 1951 thuộc Xóm LG, xã LH, huyện VN, tỉnh TN. Hoàng Văn C không có giấy phép lái xe ô tô theo quy định đã điều khiển xe ô tô BKS 12A-3784 đã được hoán cải hết hạn kiểm định đâm va làm đổ hàng giá phơi gỗ bóc trước đầu xe và đâm vào cháu La Ngọc Nh, sinh năm 2018 đang ngồi chơi trong hàng giá phơi, C không biết cháu Nh đang chơi ở trong khu vực bãi phơi gỗ bóc. Hậu quả cháu La Ngọc Nh bị thương nặng chết trên đường đi cấp cứu.

Hành vi của bị cáo Hoàng Văn C đã đủ yếu tố cấu thành tội “Vô ý làm chết người” được quy định tại khoản 1 Điều 128 Bộ luật hình sự.

Khoản 1 Điều 128 Bộ luật hình sự quy định:

“1. Người nào vô ý làm chết người, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm”.

Viện kiểm sát nhân dân huyện Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên truy tố bị cáo về tội danh và điều luật nêu trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Do đó bị cáo phải chịu hình phạt mà điều luật quy định.

[3]. Xét tính chất hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, hành vi đó đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sống của con người được pháp luật bảo vệ, gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội. Bị cáo thực hiện hành vi phạm tội với lỗi vô ý do cẩu thả, bị cáo không thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội, mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước hậu quả đó, nên bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự đối với hành vi mình đã gây ra.

[4]. Xét về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân bị cáo thấy:

- Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.

- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa xác định bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo đã tự nguyện bồi thường thiệt hại cho gia đình bị hại, được UBND xã LH xác nhận nội dung nêu trong đơn xin cải tạo tại địa phương là đúng, đại diện bị hại chị V mẹ đẻ cháu Nh có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Tại phiên tòa đại diện bị hại chị V và anh T (bố mẹ đẻ cháu Nh) xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo nên bị cáo được áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS.

Về nhân thân: Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự.

[6]. Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, Hội đồng xét xử Hội đồng xét xử thấy bị cáo có nhân thân tốt chưa có tiền án tiền sự, thành khẩn khai báo ăn năn hối cải, có nơi cư trú rõ ràng, đại diện bị hại có đơn và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Tại phiên tòa đại diện bị hại chị V và anh T (bố mẹ đẻ cháu Nh) xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Ngoài ra bị cáo có đơn xin cải tạo tại địa phương và được UBND xã LH xác nhận nội dung nêu trong đơn xin cải tạo tại địa phương là đúng. Xét bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ và có nơi cư trú rõ ràng nên không cần cách ly xã hội mà giao bị cáo cho chính quyền địa phương nơi cư trú cải tạo, giáo dục cũng đủ điều kiện giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt và đấu tranh phòng ngừa tội phạm nói chung.

[7]. Về xử lý vật chứng: 01 vỏ phong bì ký hiệu A1 bên trong chứa 01 mẫu dung dịch màu đỏ thu tại hiện trường; 01 xe ô tô gắn biển kiểm soát 12A-3784 đã được hoán cải, số khung SRYOE2MH 000259, SV 08259 ROG xe cũ nát (xe của ông Bùi Văn D hết hạn kiểm định đã bị thu hồi không được phép lưu hành. Tại phiên tòa ông D không yêu cầu trả lại và đề nghị tịch thu tiêu hủy Hội đồng xét xử xác định đây là vật chứng vụ án và là công cụ phạm tội, tài sản trên không còn giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.

[8]. Về trách nhiệm dân sự: Sau khi xảy ra tai nạn ngày 13/11/2021 bị cáo Hoàng Văn C thoả thuận tự nguyện bồi thường thiệt hại tính mạng cho gia đình cháu La Ngọc Nh tổng số tiền là 10.000.000 đồng và 01 con lợn 80kg; Anh La Văn Đ tự nguyện hỗ trợ bồi thường cho gia đình cháu Nh 01 con lợn 70kg; Ông Bùi Văn D tự nguyện hỗ trợ bồi thường cho gia đình cháu Nh số tiền 15.000.000 đồng. Đại diện hợp pháp của cháu La Ngọc Nh không có yêu cầu gì thêm, xét cần ghi nhận sự tự nguyện bồi thường, hỗ trợ giữa bị cáo C, anh Đ và ông D với đại diện bị hại anh T và chị V.

[9]. Về án phí: Bị cáo lẽ ra phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự trong vụ án hình sự, tuy nhiên do bị cáo thuộc hộ nghèo, tại phiên tòa bị cáo có đơn xin miễm án phí. Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễm, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án, Hội đồng xét xử miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

[10]. Trong vụ án này anh La Văn Đ người là người chưa có giấy phép lái xe nhưng đã hướng dẫn và giao xe ô tô để cho bị cáo C lái thử dẫn đến xảy ra tai nạn. Tuy nhiên nơi xảy ra tai nạn không phải đường giao thông, chiếc xe ô tô đã bị thu hồi không được phép lưu hành, bị cáo C thực hiện tội phạm với lỗi vô ý. Nên anh Đ không phải chịu trách nhiệm hình sự với vai trò đồng phạm.

[11]. Đối với ông Bùi Văn D là chủ xe ô tô Biển kiểm soát: 12A-3784 xe đã hoán cải, đã thu hồi, thanh lý từ năm 2018 để ở vị trí bãi phơi gỗ bóc không sử dụng để tham gia giao thông, ông D không giao cho ai quản lý. Ngày 13/11/2021 bản thân anh Đ là người làm thuê tự ý lấy đi sau đó điều khiển xe đi bốc gỗ, bản thân ông D không biết nên không xem xét xử lý.

[12]. Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Võ Nhai tại phiên toà về hình phạt và các vấn đề có liên quan đối với bị cáo là phù hợp.

[13]. Xét ý kiến của người bào chữa cho bị cáo tại phiên toà về hình phạt và các vấn đề có liên quan đối với bị cáo là phù hợp, Hội đồng xét xử thấy cần được chấp nhận.

[14]. Xét ý kiến của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho anh La Văn Đ tại phiên toà là phù hợp, Hội đồng xét xử thấy cần được chấp nhận.

Bởi các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH:

Tuyên bố: Bị cáo Hoàng Văn C phạm tội “Vô ý làm chết người”.

1. Về hình phạt:

Áp dụng: Khoản 1 Điều 128; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 65 Bộ luật hình sự; Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15 tháng 5 năm 2018 hướng dẫn áp dụng Điều 65 của Bộ luật hình sự về án treo;  Nghị quyết số 01/2022/NQ-HĐTP ngày 15 tháng 4 năm 2022 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15 tháng 5 năm 2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng Điều 65 của Bộ luật Hình sự về án treo xử phạt: Hoàng Văn C 18 (mười tám) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 36 (ba mươi sáu) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo Hoàng Văn C cho UBND xã LH, huyện VN, tỉnh TN giám sát và giáo dục trong thời gian thử thách. Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì được thực hiện theo quy định tại Điều 92 Luật thi hành án hình sự năm 2019.

Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

2. Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy: 01 vỏ phong bì ký hiệu A1 bên trong chứa 01 mẫu dung dịch màu đỏ thu tại hiện trường; 01 xe ô tô gắn biển kiểm soát 12A-3784 đã được hoán cải, số khung SRYOE2MH 000259, SV 08259 ROG xe cũ nát (xe của ông Bùi Văn D hết hạn kiểm định đã bị thu hồi không được phép lưu hành).

(Vật chứng đã được chuyển đến Chi cục THADS huyện Võ Nhai theo biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an huyện Võ Nhai với Chi cục THA dân sự huyện Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên ngày 16/5/2022).

3. Về trách nhiện dân sự: Áp dụng Điều 48 Bộ luật hình sự; Điều 591 Bộ luật dân sự.

- Ghi nhận bị cáo và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đã tự nguyện khắc phục hậu quả bồi thường tính mạng cho đại diện bị hại anh La Văn T và chị Ngô Thị V (bố mẹ đẻ cháu Nh). Cụ thể:

+ Bị cáo Hoàng Văn C bồi thường 10.000.000 đồng và 01 con lợn có trọng lượng 80kg;

+ Anh La Văn Đ tự nguyện hỗ trợ bồi thường 01 con lợn có trọng lượng 70kg;

+ Ông Bùi Văn D tự nguyện hỗ trợ bồi thường 15.000.000 đồng.

4. Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễm, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án.

Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

5. Quyền kháng cáo: Bị cáo, đại diện hợp pháp cho bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được Bản án hoặc Bản án được niêm yết tại UBND xã.

Tải về
Bản án số 20/2022/HS-ST Bản án số 20/2022/HS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất