Bản án số 20/2022/HS-ST ngày 24/06/2022 của TAND huyện Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên về tội vô ý làm chết người
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng tội danh
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 20/2022/HS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 20/2022/HS-ST
| Tên Bản án: | Bản án số 20/2022/HS-ST ngày 24/06/2022 của TAND huyện Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên về tội vô ý làm chết người |
|---|---|
| Tội danh: | 128.Tội vô ý làm chết người (Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015) |
| Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
| Tòa án xét xử: | TAND huyện Võ Nhai (TAND tỉnh Thái Nguyên) |
| Số hiệu: | 20/2022/HS-ST |
| Loại văn bản: | Bản án |
| Ngày ban hành: | 24/06/2022 |
| Lĩnh vực: | Hình sự |
| Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Thông tin về vụ án: |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

1
TOÀ ÁN ND HUYỆN VÕ NHAI CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TỈNH THÁI NGUYÊN Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số: 20/2022/HS-ST
Ngày 24-6-2022
NHÂN DANH
NƢỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIÊT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VÕ NHAI, TỈNH THÁI NGUYÊN
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Hoàng Thị Hương.
Các Hội thẩm nhân dân: Ông Hoàng Văn Thảo và ông Hà Văn Dẫn.
- Thư ký ghi biên bản phiên tòa: Bà Kim Thị Thanh Thúy.
- Đại diện VKSND huyện Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên tham gia phiên
tòa: Bà Nguyễn Thị Cảnh và ông Nguyễn Đức Chiến - Kiểm sát viên.
Ngày 24 tháng 6 năm 2022, tại Hội trường xét xử Toà án nhân dân huyện
Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số
19/2022/TLST-HS ngày 11 tháng 5 năm 2022; theo Quyết định đưa vụ án ra xét
xử số 22/2022/QĐXXST-HS ngày 09 tháng 6 năm 2022 đối với bị cáo:
- Họ và tên: Hoàng Văn C; Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam; Sinh
ngày: 08 tháng 12 năm 2000; Nơi sinh: tại tỉnh CB; Nơi đăng ký HKTT và nơi
cư trú: xóm LG, xã LH, huyện VN, tỉnh TN; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc:
Mông; Tôn giáo: Tin lành; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa:
10/12; Con ông Hoàng Văn S, sinh năm 1983 và bà Ngô Thị T1, sinh năm
1982; Anh chị em ruột: Gia đình có 02 anh em, bị cáo là con thứ nhất; Vợ:
Dương Thị S, sinh năm 2003; Con: Có 02 con, lớn nhất sinh năm 2019, nhỏ
nhất sinh năm 2021; Tiền án; Tiền sự: Không.
- Bị cáo không bị tạm giữ, tạm giam, hiện đang bị áp dụng lệnh cấm đi
khỏi nơi cư trú, có mặt.
- Ngƣời bào chữa cho bị cáo Hoàng Văn C: Ông Vũ Văn C1 - Trợ giúp viên
pháp lý, Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Thái Nguyên, có mặt.
- Bị hại: Cháu La Ngọc Nh, sinh ngày 12/11/2018 (đã chết).
Địa chỉ: Xóm LG, xã LH, huyện VN, tỉnh TN.
- Ngƣời đại diện hợp pháp cho bị hại cháu La Ngọc Nh:
+ Anh La Văn T, sinh năm 1996 (bố đẻ), có mặt.
+ Chị Ngô Thị V, sinh năm 2000 (mẹ đẻ), có mặt.
2
Cùng địa chỉ: Xóm LG, xã LH, huyện VN, tỉnh TN.
- Ngƣời có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
+ Anh La Văn Đ, sinh năm 1999, có mặt.
Địa chỉ: Xóm LG, xã LH, huyện VN, tỉnh TN.
+ Ông Bùi Văn D, sinh năm 1958, có mặt.
Địa chỉ: Xóm Ph, xã LH, huyện VN, tỉnh TN.
- Ngƣời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho ngƣời có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan anh La Văn Đ: Ông Phạm Ngọc Kh - Luật sư, cộng tác
viên Trung tâm trợ giúp viên pháp lý Nhà nước tỉnh Thái Nguyên, có mặt.
- Ngƣời làm chứng:
+ Anh Dương Văn S, sinh năm 1989, vắng mặt.
Địa chỉ: Xóm CH, xã TX, huyện VN, tỉnh TN.
+ Bà Hoàng Thị X, sinh năm 1979, có mặt.
+ Chị Ngô Thị V, sinh năm 2000, có mặt.
Cùng địa chỉ: Xóm LG, xã LH, huyện VN, tỉnh TN.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung
vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng tháng 5 năm 2021 ông Bùi Văn D, trú tại xóm Ph, xã LH, huyện
VN, tỉnh TN có thuê một mảnh đất của bà Vũ Thị Ch tại xóm LG, xã LH, huyện
VN, tỉnh TN để làm sân phơi các sản phẩm gỗ bóc. Trong quá trình hoạt động
kinh doanh ông D có thuê chị Ngô Thị V và anh La Văn Đ đều trú tại xóm LG,
xã LH làm công nhân cho xưởng gỗ bóc của ông D theo mức lương thỏa thuận
với nhiệm vụ phơi gỗ bóc tại mảnh đất thuê cũng như bốc gỗ bóc về xưởng sản
xuất. Đến tháng 4 năm 2021 ông D có mua một chiếc xe ô tô BKS 12A-3784
của một người không quen biết (theo dạng hoán cải), mục đích để phục vụ cho
việc chở sản phẩm gỗ bóc từ sân phơi về xưởng để chế biến. Nhưng sau khi sử
dụng thấy xe không đảm bảo an toàn, nên ông D không sử dụng mà để tại bãi
đất trống. Chiều ngày 13/11/2021 chị V đến bãi phơi gỗ của ông D để làm việc,
khi đi chị có dắt theo cháu La Ngọc Nh, sinh ngày 12/11/2018 đi cùng đến bãi
phơi gỗ bóc. Sau đó chị V để cháu Nh chơi một mình tại sân phơi gỗ bóc, còn
chị V đi vào làm việc bình thường.
Đến khoảng 17 giờ cùng ngày La Văn Đ cùng làm việc tại đây thấy chiếc
xe ô tô BKS 12A-3784 của ông D để tại bãi đất trống trước cửa nhà ông Lý Văn
T (sát với bãi phơi gỗ) lên xe ô tô nổ máy và điều khiển lên bãi phơi gỗ, mục
đích là để thu gom các miếng ván bóc lên xe để chở về xưởng. Khi Đ điều khiển
3
xe đến hàng giá phơi có gỗ bóc đã phơi thì Đ lùi xe vào lối mòn giữa hai hàng
giá phơi gỗ, khi lùi đến cuối hàng giá phơi thì lúc này có Hoàng Văn C, trú tại
xóm LG, xã LH, huyện VN là người quen của Đ đi làm thuê về qua rẽ vào chơi.
Thấy Đ lái xe, do tò mò nên C đến xem và lên ghế phụ của cabin xe ngồi. Đ tiếp
tục lùi xe vào phía trong hàng giá phơi gỗ để chị V ra phía sau thu các miếng gỗ
bóc lên xe, lúc này cháu Nh chơi ở phía trước đầu xe, nơi các giá đang phơi gỗ
bóc còn ướt. Khi chị V đã thu các miếng gỗ bóc lên xe ô tô thì bảo Đ tiến lên
phía trước, nghe thấy vậy C xin Đ cho thử điều khiển xe ô tô. Đ đồng ý, lúc này
Đ chuyển sang ghế phụ còn C sang ngồi ghế lái. Đ hướng dẫn C cách vào số,
đạp côn, tiếp ga để xe chạy. Sau khi hướng dẫn xong C trực tiếp nổ máy, vào số
và tiếp ga thì xe di chuyển lao nhanh về phía trước, khi di chuyển được khoảng
14,5m C điều khiển tay lái xe di chuyển lệch sang phải và đâm va làm gẫy đổ
hàng giá phơi các tấm gỗ bóc và đâm vào người cháu Nh đang chơi ở phía bên
phải của giá phơi gỗ (theo chiều đi của xe) làm cháu Nh bị thương nặng và tử
vong trên đường đi cấp cứu.
Ngay sau khi sự việc xảy ra Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Võ
Nhai đã phối hợp với Viện kiểm sát nhân dân huyện Võ Nhai tổ chức khám
nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi cháu La Ngọc Nh.
Kết quả khám nghiệm hiện trường: Hiện trường là khu vực bãi đất của bà Vũ
Thị Ch, sinh 1951 thuộc xóm LG, xã LH, huyện VN, tỉnh TN có nền đất tương đối
bằng phẳng, dốc cao dần từ hướng Bắc đến hướng Nam.
Phía Bắc giáp đường tỉnh lộ ĐT271 đoạn đi qua xóm LG, phía Đông giáp
đất nhà ông Lý Văn M, phía Tây giáp đường đất đi vào bãi đất nhà ông Lý Văn
T2, phía Nam giáp đất vườn và nhà ở của bà Vũ Thị Ch.
Trên bãi đất có nhiều hàng giá gỗ dùng để phơi các tấm gỗ bóc được sếp
song song trải dài theo hướng từ Đông sang Tây. Xung quanh hiện trường
không có bảng hướng dẫn, biển báo hiệu.
Hiện trường cụ thể: Là tại hàng giá phơi tấm gỗ bóc thứ 7 (hàng phơi gỗ
thứ 7) theo thứ tự đếm lần lượt từ Bắc đến Nam trên bãi đất.
Tại hàng phơi gỗ bóc thứ 7 có phơi nhiều tấm gỗ bóc kích thước 33 x 1,3m,
cách mép đường phía Nam ĐT 271 là 33,6m; đầu phía Tây của hàng phơi gỗ thứ 7
tiếp giáp đường đất đi vào bãi đất; Tâm hàng phơi gỗ thứ 7 cách tâm hàng phơi gỗ
thứ 6 là 3,1m, cách tâm hàng phơi gỗ thứ 8 là 4m, hàng phơi gỗ thứ 7 và hàng phơi
gỗ thứ 8 xếp song song nhau tạo thành khoảng đất trống giữa hai hàng là 2,3m.
Tại hàng phơi gỗ thứ 7 phát hiện một vùng đổ gẫy giá phơi và các tấm gỗ
bóc, có kích thước 10,3 x 4,7m, có tâm cách mép đường phía Nam đường ĐT
271 là 33,6m, cách đầu phía tây của hàng phơi gỗ thứ 7 là 13,25m. Trong vùng
này có nhiều thanh gỗ hình trụ tròn làm giá phơi gỗ có đường kính là 2,3cm bị
gẫy độ dài khác nhau, thanh dài nhất 1,27m và nhiều mảnh gỗ có hình thù, kích
thước khác nhau, tấm ván gỗ nguyên vẹ có kích thước 127 x 64cm, dày 2mm.
4
Tại tâm vùng đổ gẫy giá phơi các tấm gỗ bóc phát hiện 1 vùng dung dịch
màu nâu đỏ nghi là máu người được ký hiêu (1), vùng (1) kích thước 30x25cm,
cách tâm hàng phơi gỗ thứ 6 là 3,6m.
Tại vùng đổ gẫy giá phơi và các tấm gỗ bóc phát hiện 01 vết trượt hằn đất
nghi là vết bánh xe ô tô được ký hiệu (2), vết (2) có chiều hướng từ Đông sang
Tây, hơi chếch chéo về hướng Tây Bắc, vết (2) có chiều dài 3,4m, rồng trung
bình 15cm, điểm cuối vết (2) cách tâm vùng (1) là 20cm, điểm đầu vết (2) cách
tâm hàng phơi gỗ thứ 7 là 64cm.
Kết quả khám nghiệm tử thi La Ngọc Nh xác định các dấu vết tổn thương
trên cơ thể: Vùng trán bên trái ngang sát cung lông mày trái có hai vết xây sát
da kích thước (1,5x1,0)cm và (2,5x1,0)cm; mũi và ống tai bên phải có máu
chảy ra; vùng thái dương trái cách trên gốc tai trái 5,0cm có vết xây sát da kích
thước (3,5x2,5)cm; sát sau gốc tai trái có vết xây sát da kích thước
(4,0x1,0)cm; rách vành tai bên phải; vùng thái dương phải ngày sát gốc tai phải
có vết xây sát da kích thước (4,5x2,5)cm; vùng thái dương phải cách trên gốc
tai phải 5,5cm có vết xây sát da kích thước (3,0x2,0)cm; vùng vai bên trái có
vết xây sát da kích thước (1,2x1,0)cm; mặt trước cánh tay bên trái có vết xây
sát da rải rác trong diện kích thước (8,0x4,5)cm; mặt ngoài cẳng tay phải xây
sát da rải rác; vùng bẹn bên trái có vết xây sát da kích thước (6,0x1,5)cm; vùng
mông bên trái có vết xây sát da kích thước (5,0x2,5)cm; vùng gáy có vết xây
sát da kích thước (6,0x3,5)cm; mặt sau cẳng chân trái có vết xây sát da kích
thước (4,5x1,0)cm. Mổ tử thi: Vỡ xương thái dương đỉnh bên phải, chảy máu
ngoài màng cứng thùy thái dương bên phải, trật đốt sống cổ số 3,4, gãy cung
trước xương sườn 2,3,4 bên phải; khoang ngực phải có máu không đông; phổi
bên phải bị dập rách.
Kết quả khám nghiệm phương tiện xe ô tô BKS 12A-3784 đã được hoán cải:
+ Thanh kim loại phía trước đầu xe có vết mài tì ấn kim loại kính thước
(20x10)cm, tâm cách mép thành cabin bên trái người điều khiển 42cm, cao cách
mặt đất 62cm.
+ Còi lắp thêm phía trước đầu xe phía dưới thanh kim loại tại mặt bên trái
người điều khiển có vết mài kích thước (5x4)cm, cao cách mặt đất 45cm.
+ Thanh kim loại phía dưới gầm đầu xe có vết mài tì ấn rải rác kích thước
(32x0,5)cm, cao cách mặt đất 43cm.
+ Đầu bát lái phía trước gầm xe có vết mài kim loại kích thước (8x0,5)cm,
cao cách mặt đất 45cm.
+ Giàn sắt xi bên trái người điều khiển có vết mài kim loại và tì ấn kim
loại kích thước (12x0,5)cm, cao cách mặt đất 30cm.
+ Sàn phía sau cabin được hành khung kim loại mặt sàn có nhiều mảnh gỗ vụn.

5
- Kỹ thuật an toàn phương tiện: Xe đã được hoán cải, tem kiểm định có giá
trị đến hết ngày 11/7/2017.
Tại Bản kết luận số: 1632/KL-KTHS ngày 10/12/2021 của Phòng kỹ thuật
hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên kết luận: La Ngọc Nh bị tổn thương đa chấn
thương: Chấn thương sọ não, vỡ xương thái dương đỉnh phải, chảy máu ngoài
màng cứng thuỳ thái dương phải; trật đốt sống cổ số 3,4; chấn thương ngực kín,
gãy xương sườn số 2,3,4 bên phải, dập rách phổi phải, chảy tụ máu trong
khoang ngực phải dẫn đến chết.
Tại Cơ quan điều tra bị cáo Hoàng Văn C đã khai nhận toàn bộ hành vi
phạm tội của mình, lời khai của bị cáo phù hợp với biên bản khám nghiệm hiện
trường, sơ đồ hiện trường, biên bản khám nghiệm phương tiện, kết quả thực
nghiệm điều tra, lời khai của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, lời khai của
người làm chứng, biên bản khám nghiệm tử thi, kết luận giám định và các tài
liệu khác thu thập được có trong hồ sơ vụ án.
Tại Bản cáo trạng số 19/CT-VKSVN ngày 11/5/2022 Viện kiểm sát nhân
dân huyện Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên đã truy tố đối với bị cáo Hoàng Văn C về
tội “Vô ý làm chết người” quy định tại khoản 1 Điều 128 Bộ luật hình sự.
Kết thúc phần xét hỏi, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện Võ
Nhai luận tội giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Hoàng Văn C về tội “Vô ý
làm chết người” theo khoản 1 Điều 128 Bộ luật hình sự. Sau khi đánh giá chứng
cứ đã đề nghị xử phạt đối với bị cáo như sau: Áp dụng khoản 1 Điều 128; điểm
b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 65 Bộ luật hình sự; Nghị quyết số
02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 hướng dẫn áp dụng Điều 65 của Bộ luật hình
sự về án treo xử phạt: Hoàng Văn C từ 18 đến 24 tháng tù nhưng cho hưởng án
treo, thời gian thử thách từ 36 tháng đến 48 tháng.
Về vật chứng tịch thu tiêu hủy: 01 vỏ phong bì ký hiệu A1 bên trong
chứa 01 mẫu dung dịch màu đỏ thu tại hiện trường; 01 xe ô tô gắn biển kiểm
soát 12A-3784 đã được hoán cải, số khung SRYOE2MH 000259, SV 08259
ROG xe cũ nát (xe hết hạn kiểm định đã bị thu hồi không được phép lưu hành).
Về trách nhiệm dân sự: Đề nghị Hội đồng xét xử ghi nhận sự thỏa thuận tự
nguyện bồi thường, hỗ trợ của bị cáo C, anh Đ, ông D với gia đình cháu Nh. Cụ thể:
Bị cáo Hoàng Văn C 10.000.000 đồng và 01 con lợn 80 kg; Anh La Văn Đ 01 con
lợn 70kg; Ông Bùi Văn D15.000.000 đồng.
Về án phí: Miễn án phí cho bị cáo theo quy định.
Ý kiến phát biểu của ông Vũ Văn C1 bào chữa cho bị cáo C: Nhất trí
với bản Cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố bị cáo C về tội danh như đã nêu và
nhất trí với các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như Viện kiểm sát đề
nghị. Sau khi phân tích đánh giá chứng cứ và những hành vi phạm tội của bị cáo
thấy bị cáo phạm tội với lỗi vô ý. Trước khi phạm tội bị cáo có nhân thân tốt
chưa có tiền án tiền sự, có địa chỉ rõ ràng, bị cáo là người dân tộc thiểu số, quá

6
trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đã bồi
thường thiệt hại khắc phục hậu quả, đại diện bị hại chị V mẹ đẻ cháu Nh có đơn
xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, đồng thời bị cáo có đơn xin cải tạo tại địa
phương được UBND xã LH xác nhận nội dung nêu trong đơn là đúng. Tại phiên
tòa bị hại chị V và anh T xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Từ những viện dẫn nêu trên người bào chữa đề nghị HĐXX áp dụng khoản
1 Điều 128; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 65 Bộ luật hình sự; Nghị
quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 hướng dẫn áp dụng Điều 65 của
Bộ luật hình sự về án treo cho bị cáo được hưởng mức án 18 tháng tù nhưng
cho hưởng án treo. Phần bồi thường thiệt hại đại diện gia đình bị hại không yêu
cầu gì thêm không yêu cầu giải quyết. Về án phí bị cáo thuộc hộ nghèo nên đề
nghị Hội đồng xét xử miễn án phí cho bị cáo theo quy định của pháp luật.
Bị cáo C không có ý kiến bổ sung thêm và không tranh luận với Viện kiểm
sát.
Đại diện của đại diện bị hại anh La Văn T và chị Ngô Thị V, người có
quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Bùi Văn D không tranh luận gì với Viện kiểm
sát.
Ý kiến phát biểu của ông Phạm Ngọc Kh bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp cho anh La Văn Đ: Đối với anh La Văn Đ tham gia tố tụng là người có
quyền lợi nghĩa vụ liên quan trong vụ án là người chưa có giấy phép lái xe
nhưng đã hướng dẫn và giao xe ô tô cho bị cáo C lái thử dẫn đến xảy ra tai nạn.
Tuy nhiên nơi xảy ra tai nạn không phải đường giao thông, chiếc xe ô tô đã bị
thu hồi không được phép lưu hành, bị cáo C thực hiện tội phạm với lỗi vô ý, nên
Cơ quan cảnh sát điều tra và Viện kiểm sát nhân dân huyện Võ Nhai không
khởi tố và truy tố là có căn cứ. Tuy không phải là người gây ra cái chết cho
cháu Nh nhưng anh Đ cũng đã tự nguyện hỗ trợ cho gia đình cháu Nh 01 con
lợn 70 kg, đề nghị Hội đồng xét xử ghi nhận các bên đã tự nguyện bồi thường
theo quy định của pháp luật.
Anh La Văn Đ không có ý kiến bổ sung thêm và không tranh luận với
Viện kiểm sát.
Bị cáo nói lời sau cùng xin Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng mức án
thấp nhất cải tạo tại địa phương.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ:
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được
thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện
Võ Nhai, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Võ Nhai, Kiểm sát viên
trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ

7
tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị
cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến
hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng
của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp
pháp.
[2]. Tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình
như nội dung bản cáo trạng đã mô tả, bị cáo xác định cáo trạng của Viện kiểm
sát nhân dân huyện Võ Nhai truy tố là đúng người, đúng tội.
Xét thấy lời nhận tội của bị cáo tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa là tự
nguyện, khách quan, phù hợp với các chứng cứ, tài liệu khác đã thu thập được
có trong hồ sơ vụ án như: Biên bản sự việc, kết luận giám định về thương tích,
lời khai của bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan và lời khai của những
người làm chứng. Như vậy, có đủ cơ sở để xác định: Khoảng 17 giờ ngày
13/11/2021 tại khuôn viên khu vực bãi phơi gỗ bóc của ông Bùi Văn D, sinh
năm 1958 thuê đất của bà Vũ Thị Ch, sinh năm 1951 thuộc Xóm LG, xã LH,
huyện VN, tỉnh TN. Hoàng Văn C không có giấy phép lái xe ô tô theo quy định
đã điều khiển xe ô tô BKS 12A-3784 đã được hoán cải hết hạn kiểm định đâm
va làm đổ hàng giá phơi gỗ bóc trước đầu xe và đâm vào cháu La Ngọc Nh,
sinh năm 2018 đang ngồi chơi trong hàng giá phơi, C không biết cháu Nh đang
chơi ở trong khu vực bãi phơi gỗ bóc. Hậu quả cháu La Ngọc Nh bị thương
nặng chết trên đường đi cấp cứu.
Hành vi của bị cáo Hoàng Văn C đã đủ yếu tố cấu thành tội “Vô ý làm chết
người” được quy định tại khoản 1 Điều 128 Bộ luật hình sự.
Khoản 1 Điều 128 Bộ luật hình sự quy định:
“1. Người nào vô ý làm chết người, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến
03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm”.
Viện kiểm sát nhân dân huyện Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên truy tố bị cáo
về tội danh và điều luật nêu trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp
luật. Do đó bị cáo phải chịu hình phạt mà điều luật quy định.
[3]. Xét tính chất hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, hành vi đó đã
trực tiếp xâm phạm đến quyền sống của con người được pháp luật bảo vệ, gây
ra hậu quả nguy hại cho xã hội. Bị cáo thực hiện hành vi phạm tội với lỗi vô ý
do cẩu thả, bị cáo không thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả
nguy hại cho xã hội, mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước hậu quả đó,
nên bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự đối với hành vi mình đã gây ra.
[4]. Xét về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân
thân bị cáo thấy:
- Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.
8
- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra cũng như tại
phiên tòa xác định bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo đã tự
nguyện bồi thường thiệt hại cho gia đình bị hại, được UBND xã LH xác nhận
nội dung nêu trong đơn xin cải tạo tại địa phương là đúng, đại diện bị hại chị V
mẹ đẻ cháu Nh có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Tại phiên tòa đại diện
bị hại chị V và anh T (bố mẹ đẻ cháu Nh) xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo nên
bị cáo được áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại
điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS.
Về nhân thân: Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự.
[6]. Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm
nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, Hội đồng xét xử Hội đồng xét xử thấy bị
cáo có nhân thân tốt chưa có tiền án tiền sự, thành khẩn khai báo ăn năn hối cải,
có nơi cư trú rõ ràng, đại diện bị hại có đơn và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ
hình phạt cho bị cáo. Tại phiên tòa đại diện bị hại chị V và anh T (bố mẹ đẻ
cháu Nh) xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Ngoài ra bị cáo có đơn xin cải tạo
tại địa phương và được UBND xã LH xác nhận nội dung nêu trong đơn xin cải
tạo tại địa phương là đúng. Xét bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ và có nơi cư
trú rõ ràng nên không cần cách ly xã hội mà giao bị cáo cho chính quyền địa
phương nơi cư trú cải tạo, giáo dục cũng đủ điều kiện giáo dục bị cáo trở thành
công dân tốt và đấu tranh phòng ngừa tội phạm nói chung.
[7]. Về xử lý vật chứng: 01 vỏ phong bì ký hiệu A1 bên trong chứa 01 mẫu
dung dịch màu đỏ thu tại hiện trường; 01 xe ô tô gắn biển kiểm soát 12A-3784 đã
được hoán cải, số khung SRYOE2MH 000259, SV 08259 ROG xe cũ nát (xe của
ông Bùi Văn D hết hạn kiểm định đã bị thu hồi không được phép lưu hành. Tại
phiên tòa ông D không yêu cầu trả lại và đề nghị tịch thu tiêu hủy Hội đồng xét
xử xác định đây là vật chứng vụ án và là công cụ phạm tội, tài sản trên không
còn giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.
[8]. Về trách nhiệm dân sự: Sau khi xảy ra tai nạn ngày 13/11/2021 bị cáo
Hoàng Văn C thoả thuận tự nguyện bồi thường thiệt hại tính mạng cho gia đình
cháu La Ngọc Nh tổng số tiền là 10.000.000 đồng và 01 con lợn 80kg; Anh La
Văn Đ tự nguyện hỗ trợ bồi thường cho gia đình cháu Nh 01 con lợn 70kg; Ông
Bùi Văn D tự nguyện hỗ trợ bồi thường cho gia đình cháu Nh số tiền
15.000.000 đồng. Đại diện hợp pháp của cháu La Ngọc Nh không có yêu cầu gì
thêm, xét cần ghi nhận sự tự nguyện bồi thường, hỗ trợ giữa bị cáo C, anh Đ và
ông D với đại diện bị hại anh T và chị V.
[9]. Về án phí: Bị cáo lẽ ra phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí
dân sự trong vụ án hình sự, tuy nhiên do bị cáo thuộc hộ nghèo, tại phiên tòa
bị cáo có đơn xin miễm án phí. Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết
số 326/ 2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội
quy định về mức thu, miễm, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí
Toà án, Hội đồng xét xử miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

9
[10]. Trong vụ án này anh La Văn Đ người là người chưa có giấy phép lái
xe nhưng đã hướng dẫn và giao xe ô tô để cho bị cáo C lái thử dẫn đến xảy ra
tai nạn. Tuy nhiên nơi xảy ra tai nạn không phải đường giao thông, chiếc xe ô tô
đã bị thu hồi không được phép lưu hành, bị cáo C thực hiện tội phạm với lỗi vô
ý. Nên anh Đ không phải chịu trách nhiệm hình sự với vai trò đồng phạm.
[11]. Đối với ông Bùi Văn D là chủ xe ô tô Biển kiểm soát: 12A-3784 xe
đã hoán cải, đã thu hồi, thanh lý từ năm 2018 để ở vị trí bãi phơi gỗ bóc không
sử dụng để tham gia giao thông, ông D không giao cho ai quản lý. Ngày
13/11/2021 bản thân anh Đ là người làm thuê tự ý lấy đi sau đó điều khiển xe đi
bốc gỗ, bản thân ông D không biết nên không xem xét xử lý.
[12]. Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Võ Nhai tại
phiên toà về hình phạt và các vấn đề có liên quan đối với bị cáo là phù hợp.
[13]. Xét ý kiến của người bào chữa cho bị cáo tại phiên toà về hình phạt
và các vấn đề có liên quan đối với bị cáo là phù hợp, Hội đồng xét xử thấy cần
được chấp nhận.
[14]. Xét ý kiến của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho anh La
Văn Đ tại phiên toà là phù hợp, Hội đồng xét xử thấy cần được chấp nhận.
Bởi các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Tuyên bố: Bị cáo Hoàng Văn C phạm tội “Vô ý làm chết người”.
1. Về hình phạt:
Áp dụng: Khoản 1 Điều 128; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 65
Bộ luật hình sự; Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15 tháng 5 năm 2018
hướng dẫn áp dụng Điều 65 của Bộ luật hình sự về án treo; Nghị quyết số
01/2022/NQ-HĐTP ngày 15 tháng 4 năm 2022 sửa đổi, bổ sung một số điều của
Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15 tháng 5 năm 2018 của Hội đồng
Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng Điều 65 của Bộ luật
Hình sự về án treo xử phạt: Hoàng Văn C 18 (mười tám) tháng tù cho hưởng án
treo, thời gian thử thách là 36 (ba mươi sáu) tháng tính từ ngày tuyên án sơ
thẩm.
Giao bị cáo Hoàng Văn C cho UBND xã LH, huyện VN, tỉnh TN giám sát
và giáo dục trong thời gian thử thách. Trong trường hợp người được hưởng án
treo thay đổi nơi cư trú thì được thực hiện theo quy định tại Điều 92 Luật thi
hành án hình sự năm 2019.
Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa
vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết
định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
2. Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố
tụng hình sự.

10
Tịch thu tiêu hủy: 01 vỏ phong bì ký hiệu A1 bên trong chứa 01 mẫu dung
dịch màu đỏ thu tại hiện trường; 01 xe ô tô gắn biển kiểm soát 12A-3784 đã được
hoán cải, số khung SRYOE2MH 000259, SV 08259 ROG xe cũ nát (xe của ông
Bùi Văn D hết hạn kiểm định đã bị thu hồi không được phép lưu hành).
(Vật chứng đã được chuyển đến Chi cục THADS huyện Võ Nhai theo biên
bản giao nhận vật chứng giữa Công an huyện Võ Nhai với Chi cục THA dân sự
huyện Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên ngày 16/5/2022).
3. Về trách nhiện dân sự: Áp dụng Điều 48 Bộ luật hình sự; Điều 591 Bộ
luật dân sự.
- Ghi nhận bị cáo và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đã tự nguyện
khắc phục hậu quả bồi thường tính mạng cho đại diện bị hại anh La Văn T và
chị Ngô Thị V (bố mẹ đẻ cháu Nh). Cụ thể:
+ Bị cáo Hoàng Văn C bồi thường 10.000.000 đồng và 01 con lợn có trọng
lượng 80kg;
+ Anh La Văn Đ tự nguyện hỗ trợ bồi thường 01 con lợn có trọng lượng 70kg;
+ Ông Bùi Văn D tự nguyện hỗ trợ bồi thường 15.000.000 đồng.
4. Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm đ khoản 1
Điều 12 Nghị quyết số 326/ 2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban
thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễm, giảm, thu, nộp, quản lý và sử
dụng án phí, lệ phí Toà án.
Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.
5. Quyền kháng cáo: Bị cáo, đại diện hợp pháp cho bị hại, người có quyền
lợi nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15
ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt có
quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được Bản án hoặc Bản án
được niêm yết tại UBND xã.
Nơi nhận:
- TAND tỉnh Thái Nguyên;
- VKSND hai cấp tỉnh Thái Nguyên;
- Công an huyện Võ Nhai;
- Chi cục THADS huyện Võ Nhai;
- Bị cáo, ĐD hợp pháp cho BH,
NCQLNVLQ; Người BC; Người bảo
vệ quyền và LIHP;
- Lưu: HS, VT, THAHS.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa
Hoàng Thị Hƣơng
11
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 24/10/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 28/09/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 27/09/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 04/08/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 20/07/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 27/04/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 23/03/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 02/03/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 15/02/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 28/12/2022
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 09/12/2022
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 21/11/2022
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 27/09/2022
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 26/09/2022
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 24/08/2022
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 16/08/2022
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 07/07/2022
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 26/05/2022
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 26/05/2022
Cấp xét xử: Sơ thẩm