Bản án số 199/2024/DS-ST ngày 08/10/2024 của TAND TX. Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 199/2024/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 199/2024/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 199/2024/DS-ST
Tên Bản án: | Bản án số 199/2024/DS-ST ngày 08/10/2024 của TAND TX. Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng về tranh chấp hợp đồng vay tài sản |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng vay tài sản |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND TX. Vĩnh Châu (TAND tỉnh Sóc Trăng) |
Số hiệu: | 199/2024/DS-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 08/10/2024 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Bác yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
THỊ XÃ VĨNH CHÂU Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
TỈNH SÓC TRĂNG
Bản án số: 199/2024/DS-ST
Ngày 08 - 10- 2024
V/v tranh chp hợp đồng vay tài sản
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ VĨNH CHÂU, TỈNH SÓC TRĂNG
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Đặng Văn Đua
Các Hội thẩm nhân dân:
Ông Triệu Khánh Long
Bà Nguyễn Huỳnh Hoa
- Thư ký phiên tòa: Ông Tăng Hoàng Khang – Thư ký Tòa án nhân dân thị xã Vĩnh
Châu, tỉnh Sóc Trăng.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng tham gia
phiên tòa: Bà Phạm Thị Diệp – Kiểm sát viên.
Trong ngày 08 tháng 10 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Vĩnh Châu, tỉnh
Sóc Trăng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 188/2023/TLST- DS, ngày 12 tháng
6 năm 2023 về việc “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất” theo Quyết
định đưa vụ án ra xét xử số: 175/2024/QĐXXST-DS ngày 21 tháng 8 năm 2024 giữa các
đương sự:
- Nguyên đơn: Anh Nguyễn Chí D, sinh năm 1980. Địa chỉ: Số B huyện L, khóm
F, phường A, thị xã V, tỉnh Sóc Trăng (có mặt).
- Bị đơn: Bà Ngô Tuyết S, sinh năm 1955; địa chỉ: khóm C, phường B, thị xã V,
tỉnh Sóc Trăng (có mặt).
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
+ Anh Sơn Hoài P, sinh năm 1983 (vắng mặt).
+ Anh Sơn Hoài B, sinh năm 1984 (vắng mặt).
+ Chị Nguyễn Thị Anh T, sinh năm 1998 (vắng mặt).
Cùng địa chỉ: khóm C, Phường B, thị xã V, tỉnh Sóc Trăng.
- Người làm chứng:
+ Bà Ngô Thị S1, sinh năm 1963 (có mặt)
+ Bà Quách Thị Hồng G, sinh năm 1968 (có mặt)
Cùng địa chỉ: Khóm C, Phường B, thị xã V, tỉnh Sóc Trăng.
Người phiên dịch tiếng Khmer: Ông Lâm Diệp P1 – Cán bộ hưu trí (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện ngày 31 tháng 5 năm 2023, trong quá trình giải quyết vụ án
và tại phiên tòa, nguyên đơn anh Nguyễn Chí D trình bày:
Trước đây bà S có cầm giy chứng nhận quyền sử dụng đt cho anh. Tuy nhiên,
trước khi bà S làm thủ tục chuyển nhượng cho anh thì hai bên có thỏa thuận là bà S sẽ
chuyển nhượng phần đt trên cho anh, cho nên đến ngày 13/7/2022 anh với bà S có đến
Văn phòng công chứng để lập hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đt đối thửa đt
số 94, tờ bản đồ số 128, diện tích: 117,4m
2
; tọa lạc tại khóm C, phường B, thị xã V, tỉnh
Sóc Trăng. Giá chuyển nhượng đối với thửa đt nêu trên và tài sản gắn liền với quyền sử
dụng đt là 160.000.000 đồng. Sau khi ký kết hợp đồng, anh đã giao cho bà S ngay tại văn
phòng công chứng số tiền là 150.000.000 đồng và đến ngày 31/3/2023 có giy chứng nhận
quyền sử dụng đt thì anh đưa cho bà S số tiền còn lại là 10.000.000 đồng. Bà S cam kết
sau 03 tháng bà S sẽ bàn giao nhà và đt cho anh. Nhưng cho đến nay bà S không chịu
giao nhà và đt cho anh quản lý, sử dụng. Trước khi bà S ký tên vào hợp đồng chuyển
nhượng thì nhân viên của Văn phòng công chứng đã giải thích rõ cho bà S nghe và bà S
đồng ý mới ký tên. Do đó, việc bà S cho rằng bà nghỉ là công chứng để cầm bằng khoán
cho anh để đảm bảo trả nợ vay là không đúng.
Việc bà S cho rằng biên nhận trên là vay tiền, nhưng tại sao không thể hiện tiền lãi
sut, không để thời hạn trả nợ. Đối với hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đt giữa
bà S với anh có thể hiện tài sản gắn liền với đt và tại Văn phòng C đã được chứng thực
và đã được Chi nhánh văn phòng đăng ký đt đai thị xã V chỉnh lý, sang tên cho anh đúng
theo quy định.
Nay anh yêu cầu Tòa án giải quyết:
- Buộc bà Ngô Tuyết S phải có trách nhiệm giao nhà và đt cho anh tại thửa số 94,
tờ bản đồ số 128, diện tích 117,4m
2
; trên đt có căn nhà cp 4 gắn liền với quyền sử dụng
đt, tọa lạc tại khóm C, phường B, thị xã V, tỉnh Sóc Trăng.
- Trường hợp Tòa án không công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đt
giữa anh với bà S, thì anh yêu cầu Tòa án xử lý hậu quả pháp lý của hợp đồng vô hiệu. Có
nghĩa là anh yêu cầu bà S trả lại cho anh số tiền đã nhận chuyển nhượng 160.000.000 đồng
và trả lại cho anh thêm giá trị chênh lệch so với giá thị trường hiện nay đã được định giá
theo quy định.
- Trường hợp Hội đồng xét xử xác định tranh chp giữa anh với bà Ngô Tuyết S là
tranh chp hợp đồng vay tài sản thì anh yêu cầu bà S trả lại cho anh tiền vốn gốc
160.000.000 đồng và tiền lãi sut 10%/năm, thời gian tính từ ngày 13/7/2022 đến ngày xét
xử sơ thẩm 08/10/2024.
Tại các tờ tường trình ngày 15/8/2023, ngày 03/9/2023, trong quá trình giải quyết
vụ án và tại phiên tòa, bị đơn bà Ngô Tuyết S trình bày:
Vào ngày 13/7/2022 bà có thế chp và giao cho anh Nguyễn Chí D 01 giy chứng
nhận quyền sử dụng đt số CX 628597 của Ủy ban nhân dân thị xã V cp giy chứng nhận
quyền sử dụng đt ngày 06/4/2022 cho bà đứng tên để vay số tiền 150.000.000 đồng. Lãi

xut vay được thỏa thuận là 3%/tháng (tương đương mỗi tháng là 4.500.000 đồng). Sau
khi vay, bà đóng lãi cho anh D liên tục từ tháng 7/2022 cho đến tháng 3/2023, sau đó bà
bị bệnh (khối u) phải phẩu thuật nên bà mới ngưng đóng lãi cho anh D. Do tin tưởng nên
hàng tháng khi anh D đến ly tiền lãi bà không có kêu anh D viết biên nhận, anh D nói là:
“khỏi biên lai đâu bà ơi, khi nào bà trả lãi, trả vốn đủ thì tôi trả giy chứng nhận quyền sử
dụng đt cho bà”. Hàng tháng, khi anh D đến ly tiền lãi thì có bà Ngô Thị S1 và bà Quách
Thị Hồng G ở kế nhà của bà đều thy và chứng kiến. Bà không có chuyển nhượng nhà và
đt cho anh D nhưng anh D đã làm thủ tục giả cách vay vốn thành sang nhượng.
Việc bà vay tiền của anh D thì hai bên không có thỏa thuận thời hạn trả vốn gốc,
khi nào có đủ tiền vốn thì trả cho anh D. Bà thừa nhận có đến Văn phòng công chứng để
ký tên vào văn bản, bà chỉ nghỉ rằng là cầm bằng khoán cho ông D để làm tin cho việc trả
nợ vay, chứ bà không nghỉ đó là chuyển nhượng. Tại Văn phòng công chứng nhân viên
có đọc văn bản lại cho hai bên nghe nhưng do lâu quá bà không nhớ nội dung gì và khi ký
tên vào hợp đồng bà cứ nghỉ là vay vốn. Việc anh D cho rằng: Bà có hứa 03 tháng sau khi
nhận số tiền 10.000.000 đồng của số tiền còn lại thì sẽ giao nhà và đt cho ông D là không
có.
Đối với căn nhà của bà đang ở hiện nay, có quyền lợi của các con của bà trên đó.
Vì các con của bà vẫn còn ở chung và chưa có ra ở riêng. Tại thời điểm bà vay vốn của
anh D thì các con của bà đi làm thuê không có ở nhà, mỗi năm về khoảng 02 lần. Vào
tháng 4/2023, anh D đã khởi kiện đến Tòa án nên bà không đồng ý trả tiền lãi cho anh D,
bà yêu cầu Tòa án xem xét theo quy định của pháp luật và đề nghị Tòa án không chp
nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Tại tờ tường trình ngày 03/9/2023, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh
Sơn Hoài P và anh Sơn Hoài B (là các con của bà S) trình bày:
Vào ngày 13/7/2022, bà Ngô Tuyết S là mẹ của các anh có giao cho anh Nguyễn Chí
D 01 giy chứng nhận quyền sử dụng đt số CX 628597 ngày 06/4/2022, của Ủy ban nhân
dân thị xã V cp giy chứng nhận quyền sử dụng đt cho bà Ngô Tuyết S để vay số tiền
150.000.000 đồng.
Lãi xut vay được thỏa thuận là 3%/tháng (tương đương 4.500.000 đồng/tháng). Sau
khi vay được tiền, mẹ của các anh đóng lãi từ tháng 07/2022 cho đến tháng 3/2023. Sau đó
mẹ của các anh bị bệnh (khối u) phải phẩu thuật tại bệnh viện nên tạm ngưng đóng lãi.
Hàng tháng khi đóng lãi, do tin tưởng vào anh D nói: “khỏi biên lai đâu bà ơi, bà đóng
lãi khi nào đóng và trả đủ tiền vốn, tôi trả giy chứng nhận quyền sử dụng đt trả cho bà”,
cho nên mẹ của các anh đóng lãi mà không có nhận biên nhận từ anh D. Khi mẹ của các anh
đóng lãi cho anh D hàng tháng thì có bà Ngô Thị S1 và bà Quách Thị Hồng G cùng địa chỉ:
khóm C, phường B, thị xã V, tỉnh Sóc Trăng đều chứng kiến. Như vậy, anh D đã lừa dối
người cao tuổi là mẹ của các anh, người thiếu hiểu biết về pháp luật nhằm chiếm đoạt tài sản
của mẹ các anh.
Nay các anh yêu cầu Tòa án bác đơn đòi nhà và đt đối với nguyên đơn tại thửa đt số
94, tờ bản số 128, diện tích 117,4m², tọa lạc tại khóm C, phường B, thị xã V, tỉnh Sóc Trăng.

Tại biên bản xác minh ngày 27/9/2024 và tại phiên tòa, người làm chứng bà Ngô
Thị S1 trình bày:
Bà là em ruột của bà Ngô Tuyết S. Nhà của bà kế bên nhà của bà S. Giữa bà với bà
S không có mâu thuẫn gì. Còn đối với anh D thì bà không có bà con hay quen biết gì với
anh D.
Bà nhớ vào năm 2023, anh D có đến nhà bà S hàng tháng để ly tiền lãi của bà S
vay anh D số tiền 150.000.000 đồng, lãi sut mỗi tháng 4.500.000 đồng. Khi anh D lại ly
tiền lãi thì bà trực tiếp thy bà S đưa tiền cho anh D, anh D đến nhà của bà S ly tiền lãi
khoảng 04 đến 05 lần. Khi ông D lại ly tiền lãi thì bà S có kêu anh D làm biên nhận nhưng
anh D nói khỏi đâu. Đến khoảng tháng 4/2023 khi bà S bệnh thì anh D có đến ly tiền
nhưng bà S không có tiền và sau đó bà nghe anh D khởi kiện ra Tòa án. Việc bà S có
chuyển nhượng đt cho anh D có hay không thì bà không biết.
Tại biên bản xác minh ngày 27/9/2024 và tại phiên tòa, người làm chứng bà
Quách Thị Hồng G trình bày:
Bà là em dâu của bà Ngô Tuyết S. Nhà của bà ở phía sau nhà của bà S so với lộ N.
Giữa bà với bà S không có mâu thuẫn gì. Còn đối với anh D thì bà chỉ biết là người cho
bà S vay tiền. Hàng tháng anh D đều có lại nhà của bà S để ly tiền lãi. Việc anh D lại ly
tiền lãi của bà S thì bà không trực tiếp thy bà S đưa tiền cho anh D. Có khi anh D đi lại
kiếm bà S không có thì anh D đi ra phía sau nhà của bà để kiếm bà S. Thời điểm bà S vay
tiền của anh D thì bà S nói vay số tiền 150.000.000 đồng. Đến khi bà S bị bệnh thì không
có tiền trả nên anh D không có lại và sau này bà nghe nói anh D kiện bà S ra Tòa. Việc bà
S có chuyển nhượng nhà và đt cho anh D có hay không thì bà không biết.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Vĩnh Châu phát biểu ý kiến tại phiên tòa:
Qua thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự, kể từ khi
thụ lý đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án, Thẩm phán, Thư ký phiên tòa cũng
như Hội đồng xét xử đã thực hiện đầy đủ các thủ tục tố tụng theo quy định của Bộ luật tố
tụng dân sự, chứng cứ được thu thập đầy đủ đảm bảo quyền lợi hợp pháp cho các đương
sự. Nguyên đơn, bị đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo quy định pháp luật;
đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Anh Sơn Hoài P, anh Sơn Hoài B và chị
Nguyễn Thị Anh T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt
không có lý do, nên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản
3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, tiến hành xét xử vắng mặt đối với những người nêu
trên theo quy định của pháp luật.
Về nội dung giải quyết vụ án: Qua xem xét các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ
án, ý kiến của các đương sự, cho thy: Việc nguyên đơn anh Nguyễn Chí D yêu cầu Tòa
án giải quyết:
- Buộc bị đơn bà Ngô Tuyết S phải có trách nhiệm giao nhà và đt cho anh tại thửa
số 94, tờ bản đồ số 128, diện tích 117,4m
2
; trên thửa đt có căn nhà cp 4 gắn liền với
quyên sử dụng đt, tọa lạc tại khóm C, phường B, thị xã V, tỉnh Sóc Trăng.
- Trường hợp nếu Tòa án không công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đt giữa anh với bà S, thì anh yêu cầu Tòa án xử lý hậu quả pháp lý của hợp đồng vô hiệu

(yêu cầu bà S trả lại cho anh số tiền đã nhận chuyển nhượng 160.000.000 đồng và trả lại
cho anh giá trị chênh lệch so với kết quả định giá thị trường theo quy định).
- Trường hợp Hội đồng xét xử xác định tranh chp giữa anh với bà Ngô Tuyết S là
tranh chp hợp đồng vay tài sản thì anh yêu cầu bà S trả lại cho anh tiền vốn gốc
160.000.000 đồng và tiền lãi sut 10%/năm, thời gian tính từ ngày 13/7/2022 đến ngày xét
xử sơ thẩm 08/10/2024.
Qua yêu cầu khởi kiện nêu trên của nguyên đơn đối vơi bị đơn là không có căn cứ,
nên đề nghị H xét xử không chp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đt giữa bên chuyển nhượng là bà Ngô
Tuyết S với bên nhận chuyển nhượng là anh Nguyễn Chí D đối với thửa đt số 94, tờ bản
đồ số 128, diện tích 117,4m
2
, tọa lạc tại khóm C, phường B, thị xã V, tỉnh Sóc Trăng, đã
được công chứng chứng thực số 800, quyển số 01/2022 TP/CC-SCC/HĐGD ngày
13/7/2022 là hợp đồng giả tạo nhằm che du hợp đồng vay tài sản của bà S đối với anh D.
Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đt nêu
trên giữa bà Ngô Tuyết S với anh Nguyễn Chí D là vô hiệu.
- Đồng thời, đề nghị Hội đồng xét xử xử lý hợp đồng vay tài sản giữa bà Ngô Tuyết
S với anh Nguyễn Chí D được xác lập vào ngày 13/7/2022 theo quy định của pháp luật.
- Về chi phí thẩm định đo đạc, định giá và án phí, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét
theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và
căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thẩm quyền giải quyết: Tranh chp giữa các đương sự là tranh chp về hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đt nhằm che du hợp đồng vay tài sản, bị đơn và đối
tượng tranh chp có địa chỉ tại khóm C, phường B, thị xã V, tỉnh Sóc Trăng nên theo quy
định tại điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm c khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự,
Tòa án nhân dân thị xã Vĩnh Châu thụ lý, giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền.
[2] Về quan hệ pháp luật tranh chp: Hội đồng xét xử xác định quan hệ pháp luật
tranh chp trong vụ án là “Tranh chp hợp đồng vay tài sản” là đúng với quy định tại
khoản 3 Điều 26 Bộ luật tố tụng dân sự.
[3] Về thủ tục tố tụng:
[3.1] Đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Sơn Hoài P, anh Sơn Hoài
B và chị Nguyễn Thị Anh T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ 2 nhưng vẫn vắng
mặt, nên Hội đồng xét xử căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227; khoảng 3 Điều 228 của
Bộ luật Tố tụng dân sự, tiến hành xét xử vắng mặt đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan nêu trên theo quy định của pháp luật.
[3.2] Tại phiên tòa ngày 08/10/2024, bị đơn đề nghị Hội đồng xét xử cho bà bà Ngô
Thị S1 và bà Quách Thị Hồng G tham gia với tư cách là người làm chứng và bà S1, bà G

trực tiếp có mặt tại phiên tòa, nên Hội đồng xét xử chp nhận và đưa bà S1, bà G vào tham
gia trong vụ án với tư cách là người làm chứng là phù hợp với quy định của pháp luật.
[4] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn anh Nguyễn Chí D, về việc yêu cầu Tòa
án giải quyết: Buộc bị đơn bà Ngô Tuyết S phải có trách nhiệm giao nhà và đt cho anh tại
thửa số 94, tờ bản đồ số 128, diện tích 117,4m
2
, trên thửa đt có căn nhà cp 4 gắn liền
với quyền sử dụng đt, tọa lạc tại khóm C, phường B, thị xã V, tỉnh Sóc Trăng.
Trường hợp Tòa án không công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đt
giữa anh với bà S, thì anh yêu cầu Tòa án xử lý hậu quả pháp lý của hợp đồng vô hiệu
(yêu cầu bà S trả lại cho anh số tiền đã nhận chuyển nhượng 160.000.000 đồng và trả cho
anh giá trị chênh lệch so với giá thị trường đã được định giá theo quy định). Trường hợp,
Hội hội đồng xét xử xác định đây là hợp đồng vay tài sản thì anh yêu cầu bà Ngô Tuyết S
phải trả lại vốn gốc 160.000.000 đồng và tiền lãi sut 10%/năm tính từ ngày 13/7/2022
đến ngày 08/10/2024, Hội đồng xét xử xét thy:
[4.1] Về nguồn gốc thửa số 94, tờ bản đồ số 128, diện tích 117,4m
2
, tọa lạc tại khóm
C, phường B, thị xã V, tỉnh Sóc Trăng, trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa
các bên đương sự đều thừa nhận của bà Ngô Tuyết S, đây là tình tiết sự kiện có thật nên
không cần phải chứng minh theo quy định tại khoản 2 Điều 92 của Bộ luật tố tụng dân sự.
[4.2] Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, nguyên đơn anh Nguyễn Chí
D cho rằng: Giữa anh với bà Ngô Tuyết S đã tự thỏa thuận trên nguyên tắc tự nguyện: Bà
S đồng ý chuyển nhượng quyết sử dụng đt và tài sản gắn liền với đt tại thửa số 94, tờ
bản đồ số 128, diện tích 117,4m
2
, tọa lạc tại khóm C, phường B, thị xã V, tỉnh Sóc Trăng,
hợp đồng chuyển nhượng được hai bên ký trước mặt công chứng viên và đã được cơ quan
có thẩm quyền chỉnh lý sang tên vào ngày 31/3/2023 cho anh đứng tên quyền sử dụng.
Tại văn phòng công chứng, bà S đã nhận số tiền 150.000.000 đồng và sau khi chỉnh lý
sang tên thì anh giao thêm cho bà S 10.000.000 đồng (giao ngày 31/3/2023), nên tổng số
tiền chuyển nhượng là 160.000.000 đồng.
[4.3] Ngược lại, trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa bị đơn bà Ngô
Tuyết S cho rằng: Vào ngày 13/7/2022, bà có vay anh Nguyễn Chí D số tiền 160.000.000
đồng (theo biên nhận là 150.000.000 đồng và sau đó nhận thêm 10.000.000 đồng vào ngày
31/3/2023), lãi sut thỏa thuận là 3%/tháng, mỗi tháng bà phải đóng cho anh D số tiền
4.500.000 đồng, thời gian bắt đầu đóng lãi cho anh D từ tháng 7/2022 đến tháng 3/2023
thì ngưng do bà bị bệnh. Khi vay tiền của anh D bà có đến Văn phòng công chứng ký tên
trong hợp đồng nhưng nghỉ đó là hợp đồng thế chp để bảo đảm cho khoản vay tài sản.
[4.4] Tuy nhiên, tại “Văn bản giao nhận tiền” đề ngày 13/7/2022 giữa bên giao tiền
là anh Nguyễn Chí D với bên nhận tiền là Ngô Tuyết S, khi đó anh D đã giao cho bà S số
tiền là 150.000.000 đồng mà không đề cập việc anh D giao cho bà S số tiền nêu trên với
nội dung gì.
[4.5] Tại bản chứng thư thẩm định giá ngày 07/8/2024 xác định: Tổng giá trị nhà
và quyền sử dụng đt tại thửa số 94, tờ bản đồ số 128, diện tích 117,4m
2
,tọa lạc tại khóm
C, phường B, thị xã V, tỉnh Sóc Trăng có tổng giá trị là 631.650.000 đồng. Trong khi đó,
tại biên bản giao nhận tiền ngày 13/7/2022 bà S nhận số tiền của anh Nguyễn Chí D là
160.000.000 đồng (trong đó có 10.000.000 đồng nhận sau đó vào ngày 31/3/2023). Như

vậy, giá trị chênh lệch theo giá thị trường và giá nhận chuyển nhượng thực tế là
471.650.000 đồng.
[4.6] Tại biên bản xác minh ngày 07/10/2024 đối với ông Châu Ngọc M thì ông M
có lời trình bày: Giữa ông với ông D và bà S không có bà con gì với nhau và ông cũng
không có mâu thuẫn gì đối với họ. Ông biết ông D là do đánh bida và uống cà phê chung.
Còn đối với bà S thì ông quen biết việc ông đi tới lui mua bán đt trước đây.
Ông nhớ vào năm 2022, anh D có nhờ ông ký xác nhận người chứng kiến việc bà S
có nhận tiền của ông D. Cụ thể: Anh D có đem văn bản giao nhận tiền lại cho ông và nói
bà S có vay tiền của con nhờ chú ký tên chứng kiến. Khi ông D đem biên bản giao nhận
tiền lại thì trong biên bản bà S đã ký trước....Đối với biên bản giao nhận tiền đề ngày
13/7/2022 mà Tòa án có đưa cho ông xem,....chữ ký và chữ viết tên Châu Ngọc M đó là
chữ ký và chữ viết của ông.
[4.7] Tại phiên tòa, anh Nguyễn Chí D trình bày giữa anh với ông Châu Ngọc M
cũng có quen biết với nhau do thường hay gặp tại Văn phòng công chứng và ông cũng
không có mâu thuẩn gì đối với ông M.
[4.8] Mặt khác, khi bà Ngô Tuyết S đến Văn phòng công chứng chứng thực hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đt tại thửa 94, tờ bản đồ số 128, diện tích 117,4m
2
,
tọa lạc tại khóm C, phường B, thị xã V, tỉnh Sóc Trăng thì trên phần đt có căn nhà của
bà S, trong căn nhà này có các con của bà S bao gồm anh Sơn Hoài P, anh Sơn Hoài B và
chị Nguyễn Thị Anh T cùng sinh sống và ở trong căn nhà, nhưng những người này không
có ký tên vào hợp đồng chuyển nhượng, là trực tiếp ảnh hưởng đến quyền lợi của các
người con của và S.
[4.9] Ngoài ra, anh Nguyễn Chí D cho rằng: sau khi cơ quan có thẩm quyền làm thủ
tục sang tên xong thì bà S hứa trong thời hạn 03 tháng bà S sẽ bàn giao nhà và đt cho anh
D, việc anh D nêu ra vn đề này thì bà S không thừa nhận và ngoài lời nói ra thì anh D
không có giy tờ gì chứng minh cho lời nói của mình là có căn cứ.
[5] Từ những cơ sở phân tích nêu trên từ mục số [4.1] đến mục số [4.9], Hội đồng xét
xử có cơ sở để khẳng định: Việc giữa anh Nguyễn Chí D với bà Ngô Tuyết S lập hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đt tại thửa 94, tờ bản đồ số 128, diện tích 117,4m
2
, tọa lạc
tại khóm C, phường B, thị xã V, tỉnh Sóc Trăng đã được chứng thực vào ngày 13/7/2022 là
hợp đồng giả tạo nhằm che du hợp đồng vay tài sản.
Cho nên, Hội đồng xét xử cần tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đt
giữa anh Nguyễn Chí D với bà Ngô Tuyết S tại thửa thửa 94, tờ bản đồ số 128, diện tích
117,4m
2
, tọa lạc tại khóm C, phường B, thị xã V, tỉnh Sóc Trăng đã được chứng thực vào
ngày 13/7/2022, giữa bên chuyển nhượng bà Ngô Tuyết S với bên nhận chuyển nhượng anh
Nguyễn Chí D là vô hiệu.
[6] Do Hội đồng xét xử xác định Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đt giữa
anh Nguyễn Chí D với bà Ngô Tuyết S lập ngày 13/7/2022 tại thửa thửa 94, tờ bản đồ số
128, diện tích 117,4m
2
, tọa lạc tại khóm C, phường B, thị xã V, tỉnh Sóc Trăng là vô hiệu
và xác định đây là hợp đồng vay tài sản, cho nên Hội đồng xét xử cần xem xét phần tiền
lãi đối với hợp đồng này để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho các bên đương sự,
Hội đồng xét xử xét thy:

[6.1] Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, Bà S cho rằng từ ngày
13/7/2022 đến tháng 3/2023 thì bà đóng tiền lãi cho anh D mỗi tháng là 4.500.000 đồng.
Tuy nhiên, ngoài lời nói ra thì bà S không có giy tờ gì chứng minh và tại phiên tòa anh
D cũng không thừa nhận là có nhận tiền lãi của bà S. Đối với bà Ngô Thị S1 và bà Quách
Thị Hồng G, các bà cho rằng hàng tháng có thy anh D đến nhận tiền lãi (trong đó bà S1
thy ông D đến nhận khoảng 4 đến 5 lần và thy trực tiếp bà S đưa tiền cho ông D, còn bà
G thì cho rằng thy ông D thường hay lại. Tuy nhiên, đối với bà S1 và bà G là người thân
đối với bà Ngô Tuyết S nên lời trình bày của các bà chưa đảm bảo tính khách quan, do đó
chưa có đủ căn cứ để xác định anh D có nhận tiền lãi đối với bà Ngô Tuyết S.
[6.2] Tại phiên tòa, bị đơn bà Ngô Tuyết S cho rằng: Tháng 3/2023 bà bị bệnh và
phải điều trị nên bà không có tiền đóng lãi cho ang D và do anh D khởi kiện bà từ tháng
4/2023 nên bà không đồng ý trả tiền lãi cho anh D. Đồng thời, bà S đề nghị Hội đồng xét
xử xem xét theo quy định của pháp luật.
[6.3] Tại phiên tòa, nguyên đơn anh Nguyễn Chí D yêu cầu bị đơn bà S trả tiền lãi
cho cho anh kể từ thời điểm vay 13/7/2022 đến ngày 08/10/2024 với số tiền gốc
160.000.000 đồng, lãi sut 10%/năm. Xét thy, yêu cầu tính lãi này của anh D đối với bà
S với mức lãi sut trên là phù hợp với quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử chp
nhận.
Tuy nhiên, đối với số tiền 160.000.000 đồng mà bà S đã vay của anh D là bà S đã
nhận là 02 đợt. Cụ thể: Vào ngày 13/7/2022 bà S nhận 150.000.000 đồng và đến ngày
31/3/2023 bà S nhận thêm 10.000.000 đồng. Do đó, số tiền lãi được tính như sau:
- Số tiền lãi tính từ ngày 13/7/2022 đến ngày 30/3/2023 là = 150.000.000 đồng x
10%/năm x 08 tháng 17 ngày = 10.708.322 đồng.
- Số tiền lãi tính từ ngày 31/3/2023 đến ngày 08/10/2024 là = 160.000.000 đồng x
10%/năm x 01 năm 06 tháng 08 ngày = 24.355.550 đồng.
Tổng số tiền lãi của 02 mốc thời gian được tính nêu trên là: 35.063.872 đồng.
[6.4] Như vậy, tổng số tiền gốc và số tiền lãi mà bà S phải thanh toán cho anh
Nguyễn Chí D là 195.063.872 đồng (trong đó tiền gốc 160.000.000 đồng và tiền lãi
35.063.872 đồng).
[7] Qua kết quả xem xét thẩm định tại chỗ, phần diện tích đt tranh chp thuộc thửa
94, tờ bản đồ số 128, tọa lạc tại khóm C, phường B, thị xã V, tỉnh Sóc Trăng, có tứ cận
như sau:
- Hướng Đông giáp đt bà Ngô Thị X, có số đo 11,16m + 8,52m.
- Hướng Tây giáp với đt bà Ngô Thị S1, có số đo 11,16m + 4,64m + 3,57m.
- Hướng Nam giáp đt của ông Ngô Văn T1, có số đo 1,08m + 4,85m.
- Hướng Bắc giáp Quốc lộ N, có số đo 6,37m.
Tổng diện tích 117,4m
2
.

* Tài sản trên đt tranh chp: Một căn nhà tường cp 4, có kết cu: Khung cột bê
tông, tường gạch, nền lát gạch men, mái tole xi măng, không trần, cửa nhôm kính và cửa
gỗ, diện tích: 117,4m
2
.
[8] Xét lời đề nghị của Vị Kiểm sát viên là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chp
nhận.
[9] Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn không được chp nhận nên nguyên đơn
phải chịu án phí dân sự sơ thẩm không có giá ngạch đối với hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đt bị tuyên bố vô hiệu; nguyên đơn phải chịu chi phí xem xét thẩm định
tại chỗ và chi phí định giá theo quy định của pháp luật;
Bị đơn không phải chịu án phí đối với số tiền vay phải trả cho nguyên đơn do thuộc
trường hợp người cao tuổi (có đơn yêu cầu miễn án phí).
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ: Điều 5, khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm c khoản 1 Điều 39,
Điều 144, Điều 147, Điều 157, Điều 165, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228,
Điều 271, khoản 1 Điều 273 và Điều 278 của Bộ luật Tố tụng dân sự;
Căn cứ khoản 1 Điều 124, Điều 463, Điều 465, Điều 466, khoản 2 Điều 468 của Bộ
luật dân sự năm 2015; điểm đ khoản 1 Điều 12, Điểm a, b Khoản 3 Điều 27 Nghị quyết
số: 326/2016/UBTVQH14, ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội
quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1/ Không chp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn anh Nguyễn Chí D, về việc
yêu cầu bị đơn bà Ngô Tuyết S phải có trách nhiệm giao nhà và đt cho anh tại thửa số
94, tờ bản đồ số 128, diện tích 117,4m
2
; trên thửa đt có căn nhà cp 4 gắn liền với quyền
sử dụng đt, tọa lạc tại khóm C, phường B, thị xã V, tỉnh Sóc Trăng.
- Tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đt giữa anh Nguyễn Chí D với
bà Ngô Tuyết S tại thửa thửa 94, tờ bản đồ số 128, diện tích 117,4m
2
, tọa lạc tại khóm C,
phường B, thị xã V, tỉnh Sóc Trăng đã được chứng thực vào ngày 13/7/2022 là vô hiệu.
* Qua kết quả xem xét thẩm định tại chỗ, phần diện tích đt tranh chp thuộc thửa
94, tờ bản đồ số 128, tọa lạc tại khóm C, phường B, thị xã V, tỉnh Sóc Trăng, có tứ cận
như sau:
- Hướng Đông giáp đt bà Ngô Thị X, có số đo 11,16m + 8,52m.
- Hướng Tây giáp với đt bà Ngô Thị S1, có số đo 11,16m + 4,64m + 3,57m.
- Hướng Nam giáp đt của ông Ngô Văn T1, có số đo 1,08m + 4,85m.
- Hướng Bắc giáp Quốc lộ N, có số đo 6,37m.
Tổng diện tích 117,4m
2
.

* Tài sản trên đt tranh chp: Một căn nhà tường cp 4, có kết cu: Khung cột bê
tông, tường gạch, nền lát gạch men, mái tole xi măng, không trần, cửa nhôm kính và cửa
gỗ, diện tích: 117,4m
2
.
2/ Về xử lý hợp đồng vay tài sản của bà Ngô Tuyết S đối với anh Nguyễn Chí D:
- Buộc bị đơn bà Ngô Tuyết S có trách nhiệm thanh toán cho anh Nguyễn Chí D
tổng số tiền là 195.063.872 đồng (trong đó tiền gốc 160.000.000 đồng và tiền lãi
35.063.872 đồng).
Về nghĩa vụ chậm thi hành án: Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật và anh
Nguyễn Chí D có đơn yêu cầu thi hành án, thì hàng tháng bà Ngô Tuyết S phải trả lãi cho
anh D theo mức lãi sut quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015.
3/ Về chi phí xem xét thẩm đinh tại chỗ và định giá tài sản: Nguyên đơn anh Nguyễn
Chí D phải chịu số tiền 18.127.267 đồng, số tiền này anh D đã thực hiện xong.
4/ Về án phí dân sự sơ thẩm:
- Nguyên đơn anh Nguyễn Chí D phải chịu số tiền 300.000 đồng án phí dân sự sơ
thẩm không có giá ngạch đối với hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đt bị tuyên vô
hiệu. Tuy nhiên, anh D được khu trừ vào số tiền tạm ứng án phí mà anh đã nộp 300.000
đồng theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0008032 ngày 9/6/2023 của
Chi cục thi hành án dân sự thị xã Vĩnh Châu. Như vậy, anh D đã thực hiện xong.
- Bị đơn bà Ngô Tuyết S không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm do thuộc trường
hợp người cao tuổi và có đơn xin miễn án phí.
5/ Về quyền kháng cáo bản án: Các đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng
cáo đối với bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tòa tuyên án; đối với người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn
15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết để yêu cầu
Tòa án nhân dân cp trên xem xét lại theo trình tự phúc thẩm.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự
thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi
hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án
theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và Điều 9 của Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu
thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật thi hành án dân sự.
Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
- VKSND thị xã Vĩnh Châu; THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TOÀ
- Chi cục THADS thị xã Vĩnh Châu;
- Phòng KTNV&THA TAND tỉnh ST;
- Các đương sự; người đại diện HP cho Đ/s;
- Lưu: VT, hồ sơ vụ án.
Đặng Văn Đua

Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 04/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 03/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Bản án số 222/2025/DS-PT ngày 01/04/2025 của TAND tỉnh Tiền Giang về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Ban hành: 01/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 28/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 27/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Bản án số 198/2025/DS-PT ngày 27/03/2025 của TAND tỉnh Bình Dương về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Ban hành: 27/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Bản án số 207/2025/DS-PT ngày 26/03/2025 của TAND tỉnh Tiền Giang về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Ban hành: 26/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 25/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 25/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 24/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 21/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 21/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 21/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 21/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Bản án số 177/2025/DS-PT ngày 21/03/2025 của TAND tỉnh Bình Dương về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Ban hành: 21/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 20/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 20/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 20/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 20/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
20
Ban hành: 19/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm