Bản án số 193/2024/DS-ST ngày 24/09/2024 của TAND TP. Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 193/2024/DS-ST

Tên Bản án: Bản án số 193/2024/DS-ST ngày 24/09/2024 của TAND TP. Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND TP. Sóc Trăng (TAND tỉnh Sóc Trăng)
Số hiệu: 193/2024/DS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 24/09/2024
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ SÓC TRĂNG
TỈNH SÓC TRĂNG
———————
Bản án số: 193/2024/DS-ST
Ngày: 24-9-2024
V/v: Tranh chấp hợp đồng chuyển
nhượng QSDĐ, đòi lại giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất, tranh chấp
hợp đồng vay tài sản
CNG HÒA HỘI CHNGA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hnh phúc
———————————————————
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ SÓC TRĂNG, TỈNH SÓC TRĂNG
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Chiêm Ngọc Linh.
Các Hội thẩm nhân dân:
1. Ông Huỳnh Phước.
2. Bà Trần Thị Thuỳ Trang.
- Thư phiên tòa: Ông Nguyễn Công Lịnh, Thư Tòa án nhân dân
thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sóc Trăng tham gia phiên
Tòa:Đồ Ngọc Tuyền - Kiểm Sát viên.
Trong ngày 24 tháng 9 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành ph
Sóc Trăng, tỉnh c Trăng xét xử thẩm công khai vụ án thụ số:
187/2023/TLST-DS ngày 29 tháng 5 năm 2023, về việc Tranh chấp hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất, đòi lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,
theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 405/2024/QĐXXST-DS ngày 29 tháng
7 năm 2024 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị D, sinh năm 1968 (có mặt).
Địa chỉ: Số C đường T, Khóm B, Phường B, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng.
Bị đơn: Ông Giang Hải A, sinh năm 1990 (vắng mặt).
Địa chỉ: Số G đường L, Phường D, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1/ Ông Võ Văn C, sinh năm 1966 (vắng mặt).
Địa chỉ thường trú: Số G đường T, Khóm B, Phường B, thành phố S, tỉnh
Sóc Trăng.
2/ Ông Phùng Ngọc H, sinh năm 1984 (vắng mặt).
Địa chỉ: Số A đường M, Khóm C, Phường H, thành phố S, tỉnh Sóc
Trăng.
2
* Người đại diện hợp pháp: Ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1990. Địa chỉ:
Số C đường N, Khóm C, Phường B, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng, người đại
diện theo uỷ quyền (văn bản quyền ngày 22/6/2023) (có mặt).
3/ Bà Nguyn Th Trưng A, sinh năm 1987 (vắng mặt).
4/ Ông Võ Nguyn K, sinh năm 2002 (vng mt).
Cùng địa ch: p T, xã T, huyn Đ, tnh Sóc Trăng.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện của nguyên đơn Nguyễn Thị D cũng như trong
quá trình giải quyết vụ án tại phiên toà, D trình bày: D quyền sử
dụng diện tích đất 1.000m
2
, thuộc thửa đất số 1644, tờ bản đồ số 5, tọa lạc tại ấp
T, T, huyện Đ, tỉnh Sóc Trăng, được Sở Tài nguyên Môi trường tỉnh Sóc
Trăng cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số DC 731248, số vào sổ cấp
GCN CS03815 cho bà Nguyễn Thị D ngày 15/06/2021.
Ngày 06 tháng 10 năm 2022, D đem thế chấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất để vay của ông Giang Hải A số tiền 40.000.000 đồng tại Văn
phòng công chứng Duy T. Hôm đó chiều thứ 5, Văn phòng công chứng
làm thủ tục hơi lâu và có đưa cho D xem hợp đồng, bà D tuổi cao lại đọc chữ
không rành, D hỏi lại nhân viên của văn phòng công chứng là hợp đồng
ghi số tiền là bao nhiêu thì được trả lời là: 100.000.000 đồng. Bà D thấy bất hợp
lý, đến thứ 6 D gọi điện thoại cho ông A hỏi tại sao D thỏa thuận vay tiền
40.000.000 đồng, thế chấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hợp đồng
là 100.000.000 đồng, lúc đó ông A nói đưa cho bà D là 30.000.000 đồng. Sau đó
D nghi ngờ ông A nh chất lừa đảo D ông C đã tình vào
hợp đồng không biết đó hợp đồng chuyển nhượng quyền sdụng đất cho
ông H, ông A cũng không đưa cho D giữ bản hợp đồng nào. Khi D đòi
hợp đồng đưa hợp đồng thì ông Âu cứ hứa, kéo dài 01 tháng. D yêu cầu
ông A trả lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tông A nói nếu ra ng
chứng hủy hợp đồng bà D phải bồi thường cho ông A 10.000.000 đồng, D
cũng đồng ý nhưng ông A không thực hiện, lại tiếp tục hứa với cho đến nay.
Ông n C ông Phùng Ngọc H không liên quan đến việc tranh chấp
này.
Nay bà Nguyễn Thị D yêu cầu Tòa án giải quyết:
1. u cầu ông Giang Hải A trả lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,
quyền sở hữu nhà và tài sản gắn liền với đất số DC 731248, số vào sổ cấp
GCN CS03815, do Sở Tài nguyên Môi trường tỉnh Sóc Trăng cấp ngày
15/06/2021 cho bà Nguyễn Thị D tại thửa đất số 1644, tờ bản đồ số 5, diện tích
đất 1.000m
2
, tọa lạc tại ấp T, xã V, huyện Đ, tỉnh Sóc Trăng.
2. Yêu cầu Toà án tuyên hủy Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dng đất
đối với thửa đất số 1644, tờ bản đồ số 5, diện tích đất 1.000,m
2
, tọa lạc tại ấp T,
T, huyện Đ, tỉnh Sóc Trăng, ký kết giữa bà Nguyễn Thị D, ông Võ Văn C với
ông Phùng Ngọc H ngày 07/10/2022.
Tại phiên toà, D yêu cầu tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất nêu trên hiệu, do D không biết tên vào hợp đồng trên
hợp đồng chuyển nhượng đất quyền sử dụng đất cho ông H.
3
Tại Biên bản lấy lời khai ngày 19/6/2023 bị đơn Giang Hải A trình bày:
Nguyễn Thị D vay tiền của ông A 30.000.000 đồng, làm giấy cam kết,
D đưa ông A giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số DC 731248. Do ông
Phùng Ngọc H là đối tác làm ăn với ông A ông A còn nợ tiền ông H, nên ông
A để cho ông H đứng tên hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất với ông
C và D, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nêu trên đưa ông H giữ. Số tiền
D vay 30.000.000 đồng ông A đã đưa cho D tại Văn phòng công chứng
Võ Duy T. Từ khi vay đến nay bà D chưa trả vốn, chưa đóng lãi cho ông A. Đối
với việc D yêu cầu ông A trả lại giấy chứng nhận quyền sử dụng thì ông A
đồng ý sẽ thoả thuận với bà D về cách trả. Ông A sẽ tìm cách trả nợ cho ông
H, để lấy lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trả cho bà D.
Theo đơn yêu cầu độc lập đề ngày 26/6/2023 của ông Phùng Ngọc H
trong quá trình giải quyết vụ án người đại diện hợp pháp của ông H ông
Nguyễn Văn T trình bày: Thông qua sự giới thiệu của ông Giang Hải A, ông H
quen biết vợ chồng bà D ông C, nên ông H nhận chuyển nhượng quyền sử
dụng đất đối với thửa đất số 1644, tờ bản đồ số 5, diện ch 1000m
2
, toạ lạc tại
ấp T, T, huyện M, tỉnh Sóc Trăng. Giá trị chuyển nhượng thực tế là
300.000.000 đồng, nhưng hai bên thống nhất ghi trong hợp đồng là 100.000.000
đồng. Ngay sau khi ký hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở
tài sản gắn liền với đất được lập tại Văn phòng ng chứng Võ Duy T ngày
07 tháng 10 năm 2022, thì ông H đã giao đủ số tiền 300.000.000 đồng cho vợ
chồng bà D, ông C. Ông H đã đăng ký biến động được Chi nhánh Văn Phòng
đăng ký đất đai huyện Đ chỉnh lý sang tên ông Phùng Ngọc H ngày 19/12/2022.
Việc D khởi kiện ông A đã ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi ích
hợp pháp của ông H, thực tế việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất, quyền
sở hữu nhà tài sản gắn liền giữa ông H vợ chồng D, ông C đã thực
hiện xong, nghĩa vcủa bên nhận chuyển nhượng là ông H cũng đã thực hiện
xong việc giao tiền, còn phía bên chuyển nhượng vợ chồng D, ông C vi
phạm nghĩa vụ giao đất. Nhiều lần ông H yêu cầu vợ chồng bà D, ông C giao đất
tài sản gắn liền với đất nhưng D cố tình không thực hiện, từ đó ông H
bà D, ông C cũng phát sinh tranh chấp.
Ông Phùng Ngọc H yêu cầu Toà án giải quyết: Buộc vợ chồng D
ông C giao trả cho ông Hiếu thửa đất 1644 nêu trên cho ông H tài sản gắn
liền với đất theo Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 07 tháng 10
năm 2022.
Tại đơn thay đổi yêu cầu độc lập ngày 06/12/2023 ông Phùng Ngọc H
trình bày: Việc ông H vợ chồng bà D, ông C Hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng ngày 07/10/2022 nêu trên, thực chất để đảm bảo cho khoản
vay 100.000.000 đồng mà D ông C vay của ông H, sự chứng kiến của
ông Trần Bách D, ông Nguyễn Minh H, chứ hai bên thực tế không có việc chuyển
nhượng quyền sử dụng đất. D ông C đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán số
tiền vay như đã cam kết, ông H đã liên hệ nhiều lần với D, ông C để yêu cầu
trả tiền vay nhưng bà D không thực hiện.
4
Nay ông H yêu cầu Toà án giải quyết: Buộc vợ chồng bà D, ông C trả cho
ông H số tiền vay 100.000.000 đồng, ông H không yêu cầu trả lãi. Ông H đồng ý
ra Văn phòng công chứng làm thủ tục để giao trả lại quyền sử dụng đất, quyền sở
hữu nhài sản gắn liền với đất cho bà D.
Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Văn C, Nguyễn Th
Trường A, ông Nguyễn K: Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho
ông C, A, ông K, nhưng ông, tên nêu trên không ý kiến bằng văn
bản gửi cho Tòa án về yêu cầu khởi kiện của D, yêu cầu độc lập của ông H,
cũng không giao nộp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án, đồng thời vắng mặt tại phiên
họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ cũng như vắng mặt tại
phiên toà.
Ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa thẩm: Trong quá
trình giải quyết vụ án Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án đã tiến hành
các thủ tục tố tụng đúng theo quy định của Bộ Luật tố tụng dân sự như: Xác
định đúng thẩm quyền thụ lý vụ án, quan hệ pháp luật tranh chấp, xác định đúng
cách tham gia tố tụng của các đương sự, việc thu thập chứng cứ đúng theo
quy định. Về thời hạn gửi hồ sơ cho Viện kiểm sát nghiên cứu, việc cấp tống đạt
đảm bảo đúng theo quy định. Tại phiên Tòa Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng
các quy định của pháp luật v phiên tòa thẩm. Nguyên đơn, người đại diện
hợp pháp của người quyền lơi, nghĩa vụ liên quan ông Phùng Ngọc Hiếu
ông Nguyễn Văn T thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự,
nhưng bị đơn, những người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan khác không thực
hiện đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Về nội dung vụ án: Đối với
yêu cầu của nguyên đơn về tuyên hợp đồng chuyển nhượng vô hiệu, đnghị Hội
đồng xét xử chấp nhận, tuyên hợp chuyển nhượng trên vô hiệu do bị lừa dối. Đ
nghị không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn về việc yêu cầu ông A trả giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất giấy chứng nhận quyền sử dụng trên ông A
không giữ, đồng thời giấy chứng nhận trên của Duyên đã được chỉnh
sang tên ông H nên giấy chứng nhận đã không còn đứng tên D. Đề nghị Hội
đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu độc lập của ông Phùng Ngọc H, ông H
không chứng minh được có giao cho bà D số tiền vay nêu trên.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi xem xét các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra
tại phiên toà, căn cứ và kết quả tranh luận tại phiên tòa, sau khi nghe ý kiến phát
biểu của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử nhận định:
Về tố tụng:
[1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết: Nguyên
đơn Nguyễn Thị D yêu cầu Toà án giải quyết buộc bị đơn trả lại giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất, yêu cầu huỷ hợp đồng chuyển nhượng quyền sdụng
đất. Bđơn Giang Hải A trú tại địa chỉ: Đường L, Png D, tnh ph S, tỉnh
Sóc Trăng. Toà án đã thlý v án và xác đnh quan h pp lut tranh chấp làTranh
chấp đòi li giấy chng nhn quyền sử dụng đất, yêu cầu hu hợp đng chuyn
nng quyền sử dng đt”. Trong q trình giải quyết ván, ngưi có quyn li,
5
nghĩa vln quan ông Phùng Ngc H có đơn yêu đc lp, yêu cu bà Nguyn Th D
trlại stin vay. Do pt sinh thêm quan htranh chp nên Hi đng xét x xác đnh
li quan hệ tranh chp là Tranh chấp đòi li giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, yêu
cu hu hợp đng chuyn nng quyn sử dụng đất, tranh chp hợp đồng vay i
sn cho p hp vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân
thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng theo quy định tại khoản 3 Điều 26, điểm a
khoản 1 Điều 35 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2] Bị đơn ông Giang Hải A, người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông
Văn C, Nguyễn ThTrường A, ông Nguyễn K được triệu tập hợp lệ
đến lần thứ hai, nhưng vắng mặt không do. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều
227 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án.
Về nội dung vụ án:
[3] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Nguyễn Thị D về việc yêu
cầu ông Giang Hải A trả lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất yêu cầu huỷ
hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất thấy rằng:
[3.1] Đối với yêu cầu ông Giang Hải A trả lại giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất số DC 731248, số vào sổ cấp GCN CS03815, do Sở Tài nguyên Môi
trường tỉnh Sóc Trăng cấp ngày 15/06/2021 cho bà Nguyễn Thị D tại thửa đất số
1644, tờ bản đồ số 5, diện tích đất 1.000m
2
, tọa lạc tại ấp T, xã T, huyện Đ, tỉnh
Sóc Trăng. Xét thấy, ông Giang Hải A trình bày ông A có nhận giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất nêu trên của D đã đưa lại cho ông Phùng Ngọc H n
hiện nay ông A không còn giữ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của D.
Đồng thời vào ngày 07/10/2022 D, ông C đã Hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất với ông H đối với thửa đất số 1644 trên, có công chứng tại
Văn phòng Công chứng Duy T, số công chứng 4290, quyển số 03/2022
TP/CC-SCC/HĐGD (từ bút lục 88 - 90), sau đó ông H đã nộp bản gốc giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên chủ sử dụng đất là bà D để đăng ký biến
động đã được Chi nhánh Văn phòng đăng đất đai thành phố S điều chỉnh
biến động ngày 19/12/2022. Như vậy, khi ông H được điều chỉnh biến động
chuyển nhượng quyền sử dụng đất, thì giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số
DC 731248 không còn đứng tên D, nên việc bà D yêu cầu ông A trả lại giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất trên không căn cứ, Hội đồng xét xkhông
chấp nhận.
[3.2] Xét yêu cầu của D về việc yêu cầu tuyên hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất ký kết giữa bà Nguyễn Thị D, ông Võ Văn C với ông
Phùng Ngọc H ngày 07/10/2022, ng chứng tại n phòng Công chứng Võ
Duy T, số công chứng 4290, quyển số 03/2022 TP/CC-SCC/HĐGD hiệu.
Nhận thấy, theo bà D thì do cần vay tiền nên vào ngày 06 tháng 10 năm 2022,
D đem giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên D đến Văn phòng
công chứng Duy T đưa cho ông A để thế chấp vay số tiền 40.000.000 đồng,
ngày đó chiều thứ năm, Văn phòng công chứng đông khách, làm thtục hơi
lâu và nhân viên của Văn phòng công chứng có đưa cho D xem hợp đồng, do
D tuổi cao lại đọc chữ không rành nên tên vào hợp đồng, D hỏi
6
lại nhân viên của Văn phòng công chứng là hợp đồng ghi số tiền bao nhiêu thì
được trả lời 100.000.000 đồng, nhưng bà D không biết đó chuyển nhượng
quyền sử dụng đất. Cả ông A và ông H đều không có nói cho bà D biết vợ chồng
tên vào hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho ông H. Theo
Giấy cam kết do bà D cung cấp đề ngày 06/10/2022 có nội dung “Tôi tên Giang
Hải A thế chấp giấy chứng nhận quyền sdụng đất của D với số tiền
30.000.000 đồng (Ba mươi triệu đồng), lãi suất 3%/tháng 900.000 đồng
không được quyền sang tên giấy chủ quyền đất của D. Nếu sai tôi xin chịu
mọi trách nhiệm trước pháp luật, nếu trong thời gian 01 tháng cô D không đóng
lãi tôi mới được quyền sang tên” (bút lục 10). Tại Biên bản lấy lời khai ngày
19/6/2023 ông A thừa nhận D đưa ông A giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất số DC 731248. Do ông H là đối tác làm ăn với ông A ông A còn nợ tiền
ông H, nên ông A để cho ông H đứng tên hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất với ông C D, giấy chứng nhận quyền sdụng đất nêu trên đưa
ông H giữ. Số tiền bà D vay 30.000.000 đồng ông A đã đưa cho D tại n
phòng công chứng Duy T (bút lục 45, 46, 47). Bên cạnh đó, người đại diện
theo uỷ quyền của ông H là ông T cũng trình bày: Việc ông H và vợ chồng bà D,
ông C hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng ngày 07/10/2022 nêu trên
để đảm bảo cho khoản tiền vay 100.000.000 đồng của D đối với ông H, ch
không việc chuyển nhượng như hợp đồng kết nêu trên, từ khi chuyển
nhượng đến nay thì đất nhà vẫn do D quản lý, sử dụng. Xét thấy, khi xác
lập hợp đồng bà D, ông C đã bị ông A lừa dối làm cho D hiểu sai lệch về chủ
thể, nội dung của giao dịch nên bà D, ông C đã xác lập giao dịch chuyển nhượng
quyền sử dụng đất với ông H. Tại phiên toà bà D yêu cầu Toà án tuyên hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất trên hiệu. Xét thấy hợp đồng trên
hiệu ngay khi xác lập theo quy định tại Điều 127 Bộ luật Dân sự nên hợp đồng
không hiệu lực, do đó Duyên yêu cầu Tán tuyên bố hợp đồng chuyển
nhượng quyền sdụng đất trên hiệu là căn cứ, Hội đồng xét x chấp
nhận. Về giải quyết hậu quả của hợp đồng chuyển nhượng hiệu, theo quy
định tại Điều 131 Bộ luật Dân skhi hợp đồng chuyển nhượng bhiệu thì
các bên phải hoàn trả cho nhau những đã nhận. Tkhi hợp đồng chuyển
nhượng quyền sdụng đất đến nay, bà D, ông C không giao đất cho ông H,
hiện đất tài sản gắn liền trên đất vẫn do vợ chồng D quản lý sdụng, nên
không buộc ông H phải giao trả lại đất cho D. Ông H cũng không giao
tiền chuyển nhượng quyền sdụng đất cho D, nên cũng không buộc D
phải hoàn trả lại cho ông H. Vlỗi dẫn đến hợp đồng hiệu, xét thấy cả hai
bên đềulỗi ngang nhau dẫn khi ký hợp đồng dẫn đến việc hợp đồng vô hiệu.
Đối với số tiền D vay của ông A, ông A không yêu cầu Toà án giải quyết
buộc D trả tiền vay, cũng như không trình bày u cầu bà D trả trả
lãi hay không, nếu có thì yêu cầu lãi suất bao nhiêu, thời gian trả như thế nào
trong vụ án này. Do đó Hội đồng t xử không căn cứ giải quyết. Trong
trường hợp ông A yêu cầu D trả stiền vốn và lãi vay, thì dành quyền
khởi kiện cho ông A trong vụ án khác, nếu ông A yêu cầu.
[4] Trong quá trình giải quyết vụ án, không đương sự nào yêu cầu Toà
án tuyên huỷ phần chỉnh biến động chuyển nhượng quyền sử dụng đất cấp
7
cho ông Phùng Ngọc H từ hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa
D, ông C với ông H, do đó Toà án không đặt ra xem xét. Theo quy định Điều
105 của Luật Đất đai năm 2013 Điều 79 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày
15-5-2014 của Chính phủ Công văn số 64/TANDTC-PC ngày 03/4/2019 của
Toà án nhân dân tối cao thì việc cấp lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
hoặc xác nhận nội dung biến động trong trường hợp thực hiện hợp đồng (các
trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 105 của Luật Đất đai) thủ tục hành
chính trong giao dịch dân sự, không mang tính chất của quyết định hành chính
biệt; quan, tổ chức thẩm quyền sthực hiện việc đăng biến động,
cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trên sở kết quả giao dịch hiệu
lực. Cho nên, khi giải quyết tranh chấp vhợp đồng chuyển quyền sử dụng đất
hợp đồng đó bị hiệu, nhưng người nhận chuyển quyền đã được cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc đã được xác nhận nội dung biến động
thì không đưa quan thẩm quyền trong việc cấp giấy tham gia t tụng
không cần phải tuyên hủy giấy chứng nhận cấp cho người nhận chuyển
nhượng. Trường hợp này ông H được điều chỉnh biến động từ hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất với D ông C, cho nên đây thủ tục
hành chính trong giao dịch dân sự, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được xác
nhận biến động cho ông H không phải là quyết định hành chính biệt theo quy
định của Luật Tố tụng hành chính, khi Tòa án tuyên hợp đồng chuyển quyền sử
dụng đất hiệu thì Văn phòng đăng đất đai, quan Tài nguyên Môi
trường căn cứ vào bản án, quyết định của Tòa án đ giải quyết điều chỉnh biến
động hoặc cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất phù hợp với kết quả giải
quyết của Tòa án.
[5] Xét yêu cầu độc lập của ông Phùng Ngọc H về việc yêu cầu
Nguyễn Th D ông Văn C trả lại số tiền vay 100.000.000 đồng, Hội
đồng xét xử thấy rằng:
[5.1] Theo đơn yêu cầu độc lập đề ngày 26/6/2023 của ông Phùng Ngọc
Hiếu trong quá trình giải quyết vụ án người đại diện hợp pháp của ông Hiếu
ông Nguyễn Văn T trình bày: D ông C chuyển nhượng cho ông H
quyền sử dụng đất thuộc thửa đất số 1644, tờ bản đồ số 5, diện tích 1000m
2
, toạ
lạc tại ấp T, xã T, huyện M, tỉnh Sóc Trăng. Giá trị chuyển nhượng thực tế
300.000.000 đồng, nhưng hai bên thống nhất ghi trong hợp đồng là 100.000.000
đồng. Ngay sau khi ký hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất, ông H đã giao đủ số
tiền 300.000.000 đồng cho vợ chồng bà D, ông C. Ông Hiếu đã tiến hành lập thủ
tục đăng biến động được Chi nhánh Văn Phòng đăng đất đai huyện
Trần Đề chỉnh sang tên ông Phùng Ngọc H ngày 19/12/2022 đối với thửa đất
1644 nêu trên. Đến ngày 06/12/2023 tại đơn thay đổi yêu cầu độc lập, ông H
không yêu cầu D, ông C trả lại đất yêu cầu vợ chồng bà D, ông C trả cho
ông H số tiền vay 100.000.000 đồng, theo ông H thì thực chất giữa hai n
không việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất, việc hợp đồng chuyển
nhượng để đảm bảo cho khoản nợ vay 100.000.000 đồng D ông C
vay của ông H.
8
[5.2] Trong khi đó, D không thừa nhận vay tiền của ông H. Ông H
cho rằng việc giao tiền cho D, ông C tại n phòng công chứng sự chứng
kiến của ông Trần Bách D ông Nguyễn Minh H. Tuy nhiên, theo địa chỉ của
ông Nguyễn Minh H do ông T cung cấp thì được chính quyền địa phương xác
nhận, địa chỉ trên không tên Nguyễn Minh H (bút lục 110). Tại Biên bản lấy
lời khai ngày 23/5/2024, ông Trần Bách D trình bày: tôi thấy ông H đem tiền
vô phòng công chứng, nhưng giao tiền cho ai thì tôi không biết, vì các bên ký hợp
đồng xong thì mới giao tiền, ký xong rồi thì tôi ra ngoài trước, trong phòng công
chứng lúc đó còn lại ông H, vợ chồng bà D ông A, n ông H đưa tiền cho ai
thì i không chứng kiến” (t lục 105). Xét thấy, số tiền được ghi trong hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất kết giữa D, ông C với ông H vào ngày
07/10/2022 đã được các bên thừa nhận thực tế không có việc chuyển nhượng,
nên không phải căn cứ để xác định số tiền 100.000.000 đồng ghi trong hợp
đồng chuyển nhượng số tiền vay. Bên cạnh đó, ông A cũng trình bày Tôi
ông H đối tác làm ăn, do tôi còn nợ tiền ông H, nên tôi mới để ông Phùng
Ngọc H đứng tên trên hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất với ông C
D tôi sẽ làm việc lại với gia đình để phương án trả nợ cho ông H, sau
đó lấy lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của D ông H đang giữ để
trả lại cho D(bút lục 46). Mặt khác người làm chứng ông Trần Bách D
cũng không chứng kiến việc ông H giao tiền số tiền vay 100.000.000 đồng
cho D, ông C. Do đó ngoài lời trình bày ra, ông H người đại diện theo uỷ
quyền của ông H ông T không cung cấp được tài liệu, chứng cứ nào thể hiện có
việc bà D, ông C vay của ông H có việc bà D, ông C nhận số tiền 100.000.000
đồng của ông H, nên u cầu của ông H không có n cứ để Hội đồng xét xử
chấp nhận. Đối với việc ông A thừa nhận còn nợ tiền của ông H, thì ông H có
quyền khởi kiện ông A thành vụ án khác, nếu ông H có yêu cầu.
[6] Tnhững nhận định trên, xét yêu cầu của nguyên đơn yêu cầu độc
lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là không có căn cứ, Hội đồng xét
xử không chấp nhận. Đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố
Sóc Trăng là có căn cứ, Hội đồng xét xử chấp nhận.
[7] Về chi phí tố tụng: Chi phí tố tụng 4.133.851 đồng, D ông
Hmỗi người phải chịu 2.066.925 đồng. Do D đã tạm nộp trước nên ông Hiếu
phải trả lại cho bà Duyên số tiền 2.066.925 đồng.
[8] Về án phí dân sự sơ thẩm:
Căn cứ quy định khoản 4, 6 Điều 26 Nghị quyết s
326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc
hội về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản sử dụng án phí lệ phí tòa án
Pháp lệnh án phí, lệ phí Toà án.
Nguyễn Thị D phải chịu 300.000 đồng án phí đối với yêu cầu ông
Giang Hải A trả lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không được Toà án chấp
nhận. Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Phùng Ngọc H phải chịu
300.000 đồng án pđối với yêu cầu tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng của
9
D được chấp nhận 5.000.000 đồng án phí thẩm đối với yêu cầu độc lập
không được Toà án chấp nhận.
Ông Giang Hải A, ông Văn C, Nguyễn Thị Trường A, ông
Nguyễn K không phải chịu án phí sơ thẩm.
[9] Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo theo quy định
pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ: Khoản 3, 11 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm g khoản 1
Điều 40, Điều 91, khoản 1 Điều 92, Điều 157, Điều 158, điểm b Khoản 2 Điều
227, Điều 271, Điều 273 khoản 1 Điều 280 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều
127, Điều 131 Bộ luật Dân sự; Điều 105 Luật Đất đai năm 2013; Khoản 4, 6
Điều 26 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, ngày 30 tháng 12 năm 2016
của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp,
quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Nguyễn Thị
D.
- Chấp nhận yêu cầu của Nguyễn Thị D về việc yêu cầu tuyên bố Hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất kết giữa Nguyễn Thị D, ông
Văn C với ông Phùng Ngọc H ngày 07/10/2022, công chứng tại Văn phòng
Công chứng Võ Duy Th, số công chứng 4290, quyển số 03/2022 TP/CC-
SCC/HĐGD là vô hiệu.
Tuyên bố: Hợp đồng chuyển nhượng quyền sdụng đất kết giữa
Nguyễn Thị D, ông Võ Văn C với ông Phùng Ngọc H ngày 07/10/2022, có công
chứng tại Văn phòng Công chứng Duy T, số công chứng 4290, quyển số
03/2022 TP/CC-SCC/HĐGD là vô hiệu.
Nguyễn Thị D quyền liên hvới quan nhà nước thẩm quyền
để cấp đổi lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
- Không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn bà Nguyễn Thị D về việc yêu
cầu ông Giang Hải A trả lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số DC 731248,
số vào scấp GCN CS03815, do Sở Tài nguyên Môi trường tỉnh Sóc Trăng cấp
ngày 15/06/2021 cho bà Nguyễn Thị D
2. Không chấp nhận yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan ông Phùng Ngọc H về việc yêu cầu bà Nguyễn Thị D, ông Võ Văn C trả số
tiền vay 100.000.000 đồng (Một trăm triệu đồng).
3. Về chi phí tố tụng: Chi phí tố tụng 4.133.851 đồng, Nguyễn Thị
D, ông Văn C ông Phùng Ngọc H mỗi bên phải chịu 2.066.925 đồng. Do
Nguyễn Thị D đã tạm nộp trước nên ông Phùng Ngọc H phải trả lại cho
Nguyễn Thị D số tiền 2.066.925 đồng.
10
Ông Giang Hải A, Nguyễn Thị Trường A, ông Nguyễn K không
phải chịu chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ.
4. Về án phí dân sự sơ thẩm:
D phải chịu 300.000 đồng án phí thẩm. Được khấu trừ vào số tiền
tạm ứng án phí D đã nộp 300.000 đồng theo Biên lai tạm ứng án phí số
0008678 ngày 18/5/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố S, tỉnh Sóc
Trăng. Như vậy bà D được nhận lại 300.000 đồng án phí sơ thẩm.
Ông Phùng Ngọc H phải chịu 5.300.000 đồng án phí thẩm. Được khấu
trừ vào số tiền tạm ứng án phí ông H đã nộp 300.000 đồng theo Biên lai tạm ứng
án phí số 0008897 ngày 06/7/2023 2.500.000 đồng theo Biên lai tạm ứng án
phí số 0001342 ngày 13/12/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Sóc
Trăng, tỉnh Sóc Trăng. Như vậy ông H còn phải nộp thêm 2.500.000 đồng án phí
sơ thẩm.
Ông Giang Hải A, ông Văn C, ông Nguyễn K, Nguyễn Thị
Trường A không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.
4. Đương sự mặt tại phiên tòa quyền làm đơn kháng o trong hạn
15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự không mặt tại phiên tòa quyền
kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án
được niêm yết để yêu cầu Tòa án cấp trên xét xử lại theo thủ tục phúc thẩm.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành
án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014 thì người được thi hành án dân sự,
người phải thi hành án dân sự quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu
thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định
tại các Điều 6, 7, Điều 7a, 7b 9 Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ
sung năm 2014; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30
Luật thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014.
Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
- TAND tỉnh Sóc Trăng; THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
- VKSND TP Sóc Trăng; (Đã ký)
- Các đương sự;
- Lưu HSVA.
Chiêm Ngọc Linh
Tải về
Bản án số 193/2024/DS-ST Bản án số 193/2024/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 193/2024/DS-ST Bản án số 193/2024/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất