Bản án số 193/2024/DS-ST ngày 24/09/2024 của TAND TP. Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 193/2024/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 193/2024/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 193/2024/DS-ST
Tên Bản án: | Bản án số 193/2024/DS-ST ngày 24/09/2024 của TAND TP. Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND TP. Sóc Trăng (TAND tỉnh Sóc Trăng) |
Số hiệu: | 193/2024/DS-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 24/09/2024 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ SÓC TRĂNG
TỈNH SÓC TRĂNG
———————
Bản án số: 193/2024/DS-ST
Ngày: 24-9-2024
V/v: Tranh chấp hợp đồng chuyển
nhượng QSDĐ, đòi lại giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất, tranh chấp
hợp đồng vay tài sản
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
———————————————————
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ SÓC TRĂNG, TỈNH SÓC TRĂNG
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Chiêm Ngọc Linh.
Các Hội thẩm nhân dân:
1. Ông Huỳnh Phước.
2. Bà Trần Thị Thuỳ Trang.
- Thư ký phiên tòa: Ông Nguyễn Công Lịnh, là Thư ký Tòa án nhân dân
thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sóc Trăng tham gia phiên
Tòa: Bà Đồ Ngọc Tuyền - Kiểm Sát viên.
Trong ngày 24 tháng 9 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố
Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số:
187/2023/TLST-DS ngày 29 tháng 5 năm 2023, về việc “Tranh chấp hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất, đòi lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất”,
theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 405/2024/QĐXXST-DS ngày 29 tháng
7 năm 2024 giữa các đương sự:
– Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị D, sinh năm 1968 (có mặt).
Địa chỉ: Số C đường T, Khóm B, Phường B, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng.
– Bị đơn: Ông Giang Hải A, sinh năm 1990 (vắng mặt).
Địa chỉ: Số G đường L, Phường D, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng.
– Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1/ Ông Võ Văn C, sinh năm 1966 (vắng mặt).
Địa chỉ thường trú: Số G đường T, Khóm B, Phường B, thành phố S, tỉnh
Sóc Trăng.
2/ Ông Phùng Ngọc H, sinh năm 1984 (vắng mặt).
Địa chỉ: Số A đường M, Khóm C, Phường H, thành phố S, tỉnh Sóc
Trăng.
2
* Người đại diện hợp pháp: Ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1990. Địa chỉ:
Số C đường N, Khóm C, Phường B, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng, là người đại
diện theo uỷ quyền (văn bản quyền ngày 22/6/2023) (có mặt).
3/ Bà Nguyễn Thị Trường A, sinh năm 1987 (vắng mặt).
4/ Ông Võ Nguyễn K, sinh năm 2002 (vắng mặt).
Cùng địa chỉ: Ấp T, xã T, huyện Đ, tỉnh Sóc Trăng.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
– Theo đơn khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị D cũng như trong
quá trình giải quyết vụ án và tại phiên toà, bà D trình bày: Bà D có quyền sử
dụng diện tích đất 1.000m
2
, thuộc thửa đất số 1644, tờ bản đồ số 5, tọa lạc tại ấp
T, xã T, huyện Đ, tỉnh Sóc Trăng, được Sở Tài nguyên Môi trường tỉnh Sóc
Trăng cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số DC 731248, số vào sổ cấp
GCN CS03815 cho bà Nguyễn Thị D ngày 15/06/2021.
Ngày 06 tháng 10 năm 2022, bà D có đem thế chấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất để vay của ông Giang Hải A số tiền 40.000.000 đồng tại Văn
phòng công chứng Võ Duy T. Hôm đó là chiều thứ 5, Văn phòng công chứng
làm thủ tục hơi lâu và có đưa cho bà D xem hợp đồng, bà D tuổi cao lại đọc chữ
không rành, bà D có hỏi lại nhân viên của văn phòng công chứng là hợp đồng
ghi số tiền là bao nhiêu thì được trả lời là: 100.000.000 đồng. Bà D thấy bất hợp
lý, đến thứ 6 bà D gọi điện thoại cho ông A hỏi tại sao bà D thỏa thuận vay tiền
40.000.000 đồng, có thế chấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mà hợp đồng
là 100.000.000 đồng, lúc đó ông A nói đưa cho bà D là 30.000.000 đồng. Sau đó
bà D nghi ngờ ông A có tính chất lừa đảo vì bà D và ông C đã vô tình ký vào
hợp đồng mà không biết đó là hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho
ông H, và ông A cũng không đưa cho bà D giữ bản hợp đồng nào. Khi bà D đòi
hợp đồng đưa hợp đồng thì ông Âu cứ hứa, kéo dài 01 tháng. Bà D có yêu cầu
ông A trả lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì ông A nói nếu ra công
chứng hủy hợp đồng bà D phải bồi thường cho ông A 10.000.000 đồng, bà D
cũng đồng ý nhưng ông A không thực hiện, lại tiếp tục hứa với cho đến nay.
Ông Võ Văn C và ông Phùng Ngọc H không có liên quan đến việc tranh chấp
này.
Nay bà Nguyễn Thị D yêu cầu Tòa án giải quyết:
1. Yêu cầu ông Giang Hải A trả lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,
quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất số DC 731248, số vào sổ cấp
GCN CS03815, do Sở Tài nguyên Môi trường tỉnh Sóc Trăng cấp ngày
15/06/2021 cho bà Nguyễn Thị D tại thửa đất số 1644, tờ bản đồ số 5, diện tích
đất 1.000m
2
, tọa lạc tại ấp T, xã V, huyện Đ, tỉnh Sóc Trăng.
2. Yêu cầu Toà án tuyên hủy Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
đối với thửa đất số 1644, tờ bản đồ số 5, diện tích đất 1.000,m
2
, tọa lạc tại ấp T,
xã T, huyện Đ, tỉnh Sóc Trăng, ký kết giữa bà Nguyễn Thị D, ông Võ Văn C với
ông Phùng Ngọc H ngày 07/10/2022.
Tại phiên toà, bà D yêu cầu tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất nêu trên vô hiệu, do bà D không biết bà ký tên vào hợp đồng trên là
hợp đồng chuyển nhượng đất quyền sử dụng đất cho ông H.
3
– Tại Biên bản lấy lời khai ngày 19/6/2023 bị đơn Giang Hải A trình bày:
Bà Nguyễn Thị D có vay tiền của ông A 30.000.000 đồng, có làm giấy cam kết,
bà D có đưa ông A giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số DC 731248. Do ông
Phùng Ngọc H là đối tác làm ăn với ông A và ông A còn nợ tiền ông H, nên ông
A để cho ông H đứng tên hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất với ông
C và bà D, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nêu trên đưa ông H giữ. Số tiền
bà D vay 30.000.000 đồng ông A đã đưa cho bà D tại Văn phòng công chứng
Võ Duy T. Từ khi vay đến nay bà D chưa trả vốn, chưa đóng lãi cho ông A. Đối
với việc bà D yêu cầu ông A trả lại giấy chứng nhận quyền sử dụng thì ông A
đồng ý và sẽ thoả thuận với bà D về cách trả. Ông A sẽ tìm cách trả nợ cho ông
H, để lấy lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trả cho bà D.
– Theo đơn yêu cầu độc lập đề ngày 26/6/2023 của ông Phùng Ngọc H và
trong quá trình giải quyết vụ án người đại diện hợp pháp của ông H là ông
Nguyễn Văn T trình bày: Thông qua sự giới thiệu của ông Giang Hải A, ông H
quen biết vợ chồng bà D và ông C, nên ông H có nhận chuyển nhượng quyền sử
dụng đất đối với thửa đất số 1644, tờ bản đồ số 5, diện tích 1000m
2
, toạ lạc tại
ấp T, xã T, huyện M, tỉnh Sóc Trăng. Giá trị chuyển nhượng thực tế là
300.000.000 đồng, nhưng hai bên thống nhất ghi trong hợp đồng là 100.000.000
đồng. Ngay sau khi ký hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở
và tài sản gắn liền với đất được lập tại Văn phòng công chứng Võ Duy T ngày
07 tháng 10 năm 2022, thì ông H đã giao đủ số tiền 300.000.000 đồng cho vợ
chồng bà D, ông C. Ông H đã đăng ký biến động và được Chi nhánh Văn Phòng
đăng ký đất đai huyện Đ chỉnh lý sang tên ông Phùng Ngọc H ngày 19/12/2022.
Việc bà D khởi kiện ông A đã ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích
hợp pháp của ông H, vì thực tế việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất, quyền
sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền giữa ông H và vợ chồng bà D, ông C đã thực
hiện xong, nghĩa vụ của bên nhận chuyển nhượng là ông H cũng đã thực hiện
xong việc giao tiền, còn phía bên chuyển nhượng là vợ chồng bà D, ông C vi
phạm nghĩa vụ giao đất. Nhiều lần ông H yêu cầu vợ chồng bà D, ông C giao đất
và tài sản gắn liền với đất nhưng bà D cố tình không thực hiện, từ đó ông H và
bà D, ông C cũng phát sinh tranh chấp.
Ông Phùng Ngọc H yêu cầu Toà án giải quyết: Buộc vợ chồng bà D và
ông C giao trả cho ông Hiếu thửa đất 1644 nêu trên cho ông H và tài sản gắn
liền với đất theo Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 07 tháng 10
năm 2022.
Tại đơn thay đổi yêu cầu độc lập ngày 06/12/2023 ông Phùng Ngọc H
trình bày: Việc ông H và vợ chồng bà D, ông C ký Hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng ngày 07/10/2022 nêu trên, thực chất là để đảm bảo cho khoản
vay 100.000.000 đồng mà bà D và ông C vay của ông H, có sự chứng kiến của
ông Trần Bách D, ông Nguyễn Minh H, chứ hai bên thực tế không có việc chuyển
nhượng quyền sử dụng đất. Bà D và ông C đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán số
tiền vay như đã cam kết, ông H đã liên hệ nhiều lần với bà D, ông C để yêu cầu
trả tiền vay nhưng bà D không thực hiện.
4
Nay ông H yêu cầu Toà án giải quyết: Buộc vợ chồng bà D, ông C trả cho
ông H số tiền vay 100.000.000 đồng, ông H không yêu cầu trả lãi. Ông H đồng ý
ra Văn phòng công chứng làm thủ tục để giao trả lại quyền sử dụng đất, quyền sở
hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất cho bà D.
– Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Võ Văn C, bà Nguyễn Thị
Trường A, ông Võ Nguyễn K: Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho
ông C, bà A, ông K, nhưng ông, bà có tên nêu trên không có ý kiến bằng văn
bản gửi cho Tòa án về yêu cầu khởi kiện của bà D, yêu cầu độc lập của ông H,
cũng không giao nộp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án, đồng thời vắng mặt tại phiên
họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ cũng như vắng mặt tại
phiên toà.
– Ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm: Trong quá
trình giải quyết vụ án Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án đã tiến hành
các thủ tục tố tụng đúng theo quy định của Bộ Luật tố tụng dân sự như: Xác
định đúng thẩm quyền thụ lý vụ án, quan hệ pháp luật tranh chấp, xác định đúng
tư cách tham gia tố tụng của các đương sự, việc thu thập chứng cứ đúng theo
quy định. Về thời hạn gửi hồ sơ cho Viện kiểm sát nghiên cứu, việc cấp tống đạt
đảm bảo đúng theo quy định. Tại phiên Tòa Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng
các quy định của pháp luật về phiên tòa sơ thẩm. Nguyên đơn, người đại diện
hợp pháp của người có quyền lơi, nghĩa vụ liên quan ông Phùng Ngọc Hiếu là
ông Nguyễn Văn T thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự,
nhưng bị đơn, những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan khác không thực
hiện đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Về nội dung vụ án: Đối với
yêu cầu của nguyên đơn về tuyên hợp đồng chuyển nhượng vô hiệu, đề nghị Hội
đồng xét xử chấp nhận, tuyên hợp chuyển nhượng trên vô hiệu do bị lừa dối. Đề
nghị không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn về việc yêu cầu ông A trả giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất vì giấy chứng nhận quyền sử dụng trên ông A
không có giữ, đồng thời giấy chứng nhận trên của bà Duyên đã được chỉnh lý
sang tên ông H nên giấy chứng nhận đã không còn đứng tên bà D. Đề nghị Hội
đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu độc lập của ông Phùng Ngọc H, vì ông H
không chứng minh được có giao cho bà D số tiền vay nêu trên.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi xem xét các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra
tại phiên toà, căn cứ và kết quả tranh luận tại phiên tòa, sau khi nghe ý kiến phát
biểu của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử nhận định:
Về tố tụng:
[1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết: Nguyên
đơn bà Nguyễn Thị D yêu cầu Toà án giải quyết buộc bị đơn trả lại giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất, yêu cầu huỷ hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất. Bị đơn Giang Hải A cư trú tại địa chỉ: Đường L, Phường D, thành phố S, tỉnh
Sóc Trăng. Toà án đã thụ lý vụ án và xác định quan hệ pháp luật tranh chấp là “Tranh
chấp đòi lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, yêu cầu huỷ hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất”. Trong quá trình giải quyết vụ án, người có quyền lợi,
5
nghĩa vụ liên quan ông Phùng Ngọc H có đơn yêu độc lập, yêu cầu bà Nguyễn Thị D
trả lại số tiền vay. Do phát sinh thêm quan hệ tranh chấp nên Hội đồng xét xử xác định
lại quan hệ tranh chấp là “Tranh chấp đòi lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, yêu
cầu huỷ hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, tranh chấp hợp đồng vay tài
sản” cho phù hợp và vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân
thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng theo quy định tại khoản 3 Điều 26, điểm a
khoản 1 Điều 35 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2] Bị đơn ông Giang Hải A, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông
Võ Văn C, bà Nguyễn Thị Trường A, ông Võ Nguyễn K được triệu tập hợp lệ
đến lần thứ hai, nhưng vắng mặt không có lý do. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều
227 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án.
Về nội dung vụ án:
[3] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị D về việc yêu
cầu ông Giang Hải A trả lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và yêu cầu huỷ
hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất thấy rằng:
[3.1] Đối với yêu cầu ông Giang Hải A trả lại giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất số DC 731248, số vào sổ cấp GCN CS03815, do Sở Tài nguyên Môi
trường tỉnh Sóc Trăng cấp ngày 15/06/2021 cho bà Nguyễn Thị D tại thửa đất số
1644, tờ bản đồ số 5, diện tích đất 1.000m
2
, tọa lạc tại ấp T, xã T, huyện Đ, tỉnh
Sóc Trăng. Xét thấy, ông Giang Hải A trình bày ông A có nhận giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất nêu trên của bà D và đã đưa lại cho ông Phùng Ngọc H nên
hiện nay ông A không còn giữ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của bà D.
Đồng thời vào ngày 07/10/2022 bà D, ông C đã ký Hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất với ông H đối với thửa đất số 1644 trên, có công chứng tại
Văn phòng Công chứng Võ Duy T, số công chứng 4290, quyển số 03/2022
TP/CC-SCC/HĐGD (từ bút lục 88 - 90), sau đó ông H đã nộp bản gốc giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên chủ sử dụng đất là bà D để đăng ký biến
động và đã được Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thành phố S điều chỉnh
biến động ngày 19/12/2022. Như vậy, khi ông H được điều chỉnh biến động
chuyển nhượng quyền sử dụng đất, thì giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số
DC 731248 không còn đứng tên bà D, nên việc bà D yêu cầu ông A trả lại giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất trên là không có căn cứ, Hội đồng xét xử không
chấp nhận.
[3.2] Xét yêu cầu của bà D về việc yêu cầu tuyên hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất ký kết giữa bà Nguyễn Thị D, ông Võ Văn C với ông
Phùng Ngọc H ngày 07/10/2022, có công chứng tại Văn phòng Công chứng Võ
Duy T, số công chứng 4290, quyển số 03/2022 TP/CC-SCC/HĐGD vô hiệu.
Nhận thấy, theo bà D thì do cần vay tiền nên vào ngày 06 tháng 10 năm 2022, bà
D có đem giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên bà D đến Văn phòng
công chứng Võ Duy T đưa cho ông A để thế chấp vay số tiền 40.000.000 đồng,
ngày đó là chiều thứ năm, Văn phòng công chứng đông khách, làm thủ tục hơi
lâu và nhân viên của Văn phòng công chứng có đưa cho bà D xem hợp đồng, do
bà D tuổi cao lại đọc chữ không rành nên có ký tên vào hợp đồng, bà D có hỏi

6
lại nhân viên của Văn phòng công chứng là hợp đồng ghi số tiền bao nhiêu thì
được trả lời là 100.000.000 đồng, nhưng bà D không biết đó là chuyển nhượng
quyền sử dụng đất. Cả ông A và ông H đều không có nói cho bà D biết vợ chồng
bà ký tên vào hợp đồng là chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho ông H. Theo
Giấy cam kết do bà D cung cấp đề ngày 06/10/2022 có nội dung “Tôi tên Giang
Hải A có thế chấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của bà D với số tiền là
30.000.000 đồng (Ba mươi triệu đồng), lãi suất 3%/tháng là 900.000 đồng và
không được quyền sang tên giấy chủ quyền đất của bà D. Nếu sai tôi xin chịu
mọi trách nhiệm trước pháp luật, nếu trong thời gian 01 tháng cô D không đóng
lãi tôi mới được quyền sang tên” (bút lục 10). Tại Biên bản lấy lời khai ngày
19/6/2023 ông A thừa nhận bà D có đưa ông A giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất số DC 731248. Do ông H là đối tác làm ăn với ông A và ông A còn nợ tiền
ông H, nên ông A để cho ông H đứng tên hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất với ông C và bà D, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nêu trên đưa
ông H giữ. Số tiền bà D vay 30.000.000 đồng ông A đã đưa cho bà D tại Văn
phòng công chứng Võ Duy T (bút lục 45, 46, 47). Bên cạnh đó, người đại diện
theo uỷ quyền của ông H là ông T cũng trình bày: Việc ông H và vợ chồng bà D,
ông C ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng ngày 07/10/2022 nêu trên là
để đảm bảo cho khoản tiền vay 100.000.000 đồng của bà D đối với ông H, chứ
không có việc chuyển nhượng như hợp đồng ký kết nêu trên, từ khi chuyển
nhượng đến nay thì đất và nhà vẫn do bà D quản lý, sử dụng. Xét thấy, khi xác
lập hợp đồng bà D, ông C đã bị ông A lừa dối làm cho bà D hiểu sai lệch về chủ
thể, nội dung của giao dịch nên bà D, ông C đã xác lập giao dịch chuyển nhượng
quyền sử dụng đất với ông H. Tại phiên toà bà D yêu cầu Toà án tuyên hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất trên vô hiệu. Xét thấy hợp đồng trên là vô
hiệu ngay khi xác lập theo quy định tại Điều 127 Bộ luật Dân sự nên hợp đồng
không có hiệu lực, do đó bà Duyên yêu cầu Toà án tuyên bố hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất trên vô hiệu là có căn cứ, Hội đồng xét xử chấp
nhận. Về giải quyết hậu quả của hợp đồng chuyển nhượng vô hiệu, theo quy
định tại Điều 131 Bộ luật Dân sự khi hợp đồng chuyển nhượng bị vô hiệu thì
các bên phải hoàn trả cho nhau những gì đã nhận. Từ khi ký hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất đến nay, bà D, ông C không có giao đất cho ông H,
hiện đất và tài sản gắn liền trên đất vẫn do vợ chồng bà D quản lý sử dụng, nên
không buộc ông H phải giao trả lại đất cho bà D. Ông H cũng không có giao
tiền chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho bà D, nên cũng không buộc bà D
phải hoàn trả lại cho ông H. Về lỗi dẫn đến hợp đồng vô hiệu, xét thấy cả hai
bên đều có lỗi ngang nhau dẫn khi ký hợp đồng dẫn đến việc hợp đồng vô hiệu.
Đối với số tiền bà D vay của ông A, ông A không có yêu cầu Toà án giải quyết
buộc bà D trả tiền vay, cũng như không có trình bày là có yêu cầu bà D trả trả
lãi hay không, nếu có thì yêu cầu lãi suất bao nhiêu, thời gian trả như thế nào
trong vụ án này. Do đó Hội đồng xét xử không có căn cứ giải quyết. Trong
trường hợp ông A có yêu cầu bà D trả số tiền vốn và lãi vay, thì dành quyền
khởi kiện cho ông A trong vụ án khác, nếu ông A có yêu cầu.
[4] Trong quá trình giải quyết vụ án, không có đương sự nào yêu cầu Toà
án tuyên huỷ phần chỉnh lý biến động chuyển nhượng quyền sử dụng đất cấp

7
cho ông Phùng Ngọc H từ hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà
D, ông C với ông H, do đó Toà án không đặt ra xem xét. Theo quy định Điều
105 của Luật Đất đai năm 2013 và Điều 79 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày
15-5-2014 của Chính phủ và Công văn số 64/TANDTC-PC ngày 03/4/2019 của
Toà án nhân dân tối cao thì việc cấp lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
hoặc xác nhận nội dung biến động trong trường hợp thực hiện hợp đồng (các
trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 105 của Luật Đất đai) là thủ tục hành
chính trong giao dịch dân sự, không mang tính chất của quyết định hành chính
cá biệt; cơ quan, tổ chức có thẩm quyền sẽ thực hiện việc đăng ký biến động,
cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trên cơ sở kết quả giao dịch có hiệu
lực. Cho nên, khi giải quyết tranh chấp về hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất
mà hợp đồng đó bị vô hiệu, nhưng người nhận chuyển quyền đã được cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc đã được xác nhận nội dung biến động
thì không đưa cơ quan có thẩm quyền trong việc cấp giấy tham gia tố tụng và
không cần phải tuyên hủy giấy chứng nhận cấp cho người nhận chuyển
nhượng. Trường hợp này ông H được điều chỉnh biến động là từ hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất với bà D và ông C, cho nên đây là thủ tục
hành chính trong giao dịch dân sự, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được xác
nhận biến động cho ông H không phải là quyết định hành chính cá biệt theo quy
định của Luật Tố tụng hành chính, khi Tòa án tuyên hợp đồng chuyển quyền sử
dụng đất vô hiệu thì Văn phòng đăng ký đất đai, cơ quan Tài nguyên và Môi
trường căn cứ vào bản án, quyết định của Tòa án để giải quyết điều chỉnh biến
động hoặc cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất phù hợp với kết quả giải
quyết của Tòa án.
[5] Xét yêu cầu độc lập của ông Phùng Ngọc H về việc yêu cầu bà
Nguyễn Thị D và ông Võ Văn C trả lại số tiền vay 100.000.000 đồng, Hội
đồng xét xử thấy rằng:
[5.1] Theo đơn yêu cầu độc lập đề ngày 26/6/2023 của ông Phùng Ngọc
Hiếu và trong quá trình giải quyết vụ án người đại diện hợp pháp của ông Hiếu
là ông Nguyễn Văn T trình bày: Bà D và ông C chuyển nhượng cho ông H
quyền sử dụng đất thuộc thửa đất số 1644, tờ bản đồ số 5, diện tích 1000m
2
, toạ
lạc tại ấp T, xã T, huyện M, tỉnh Sóc Trăng. Giá trị chuyển nhượng thực tế là
300.000.000 đồng, nhưng hai bên thống nhất ghi trong hợp đồng là 100.000.000
đồng. Ngay sau khi ký hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất, ông H đã giao đủ số
tiền 300.000.000 đồng cho vợ chồng bà D, ông C. Ông Hiếu đã tiến hành lập thủ
tục đăng ký biến động và được Chi nhánh Văn Phòng đăng ký đất đai huyện
Trần Đề chỉnh lý sang tên ông Phùng Ngọc H ngày 19/12/2022 đối với thửa đất
1644 nêu trên. Đến ngày 06/12/2023 tại đơn thay đổi yêu cầu độc lập, ông H
không yêu cầu bà D, ông C trả lại đất mà yêu cầu vợ chồng bà D, ông C trả cho
ông H số tiền vay 100.000.000 đồng, vì theo ông H thì thực chất giữa hai bên
không có việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất, mà việc ký hợp đồng chuyển
nhượng là để đảm bảo cho khoản nợ vay 100.000.000 đồng mà bà D và ông C
vay của ông H.
8
[5.2] Trong khi đó, bà D không thừa nhận có vay tiền của ông H. Ông H
cho rằng việc giao tiền cho bà D, ông C tại Văn phòng công chứng có sự chứng
kiến của ông Trần Bách D và ông Nguyễn Minh H. Tuy nhiên, theo địa chỉ của
ông Nguyễn Minh H do ông T cung cấp thì được chính quyền địa phương xác
nhận, địa chỉ trên không có tên Nguyễn Minh H (bút lục 110). Tại Biên bản lấy
lời khai ngày 23/5/2024, ông Trần Bách D trình bày: “tôi thấy ông H có đem tiền
vô phòng công chứng, nhưng giao tiền cho ai thì tôi không biết, vì các bên ký hợp
đồng xong thì mới giao tiền, ký xong rồi thì tôi ra ngoài trước, trong phòng công
chứng lúc đó còn lại ông H, vợ chồng bà D và ông A, còn ông H đưa tiền cho ai
thì tôi không chứng kiến” (bút lục 105). Xét thấy, số tiền được ghi trong hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất ký kết giữa bà D, ông C với ông H vào ngày
07/10/2022 đã được các bên thừa nhận là thực tế không có việc chuyển nhượng,
nên không phải là căn cứ để xác định số tiền 100.000.000 đồng ghi trong hợp
đồng chuyển nhượng là số tiền vay. Bên cạnh đó, ông A cũng trình bày “Tôi và
ông H là đối tác làm ăn, do tôi còn nợ tiền ông H, nên tôi mới để ông Phùng
Ngọc H đứng tên trên hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất với ông C và
bà D … tôi sẽ làm việc lại với gia đình để có phương án trả nợ cho ông H, sau
đó lấy lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của bà D mà ông H đang giữ để
trả lại cho bà D” (bút lục 46). Mặt khác người làm chứng là ông Trần Bách D
cũng không chứng kiến việc ông H có giao tiền số tiền vay 100.000.000 đồng
cho bà D, ông C. Do đó ngoài lời trình bày ra, ông H và người đại diện theo uỷ
quyền của ông H là ông T không cung cấp được tài liệu, chứng cứ nào thể hiện có
việc bà D, ông C vay của ông H và có việc bà D, ông C nhận số tiền 100.000.000
đồng của ông H, nên yêu cầu của ông H là không có căn cứ để Hội đồng xét xử
chấp nhận. Đối với việc ông A thừa nhận còn nợ tiền của ông H, thì ông H có
quyền khởi kiện ông A thành vụ án khác, nếu ông H có yêu cầu.
[6] Từ những nhận định trên, xét yêu cầu của nguyên đơn và yêu cầu độc
lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là không có căn cứ, Hội đồng xét
xử không chấp nhận. Đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố
Sóc Trăng là có căn cứ, Hội đồng xét xử chấp nhận.
[7] Về chi phí tố tụng: Chi phí tố tụng là 4.133.851 đồng, bà D và ông
Hmỗi người phải chịu 2.066.925 đồng. Do bà D đã tạm nộp trước nên ông Hiếu
phải trả lại cho bà Duyên số tiền 2.066.925 đồng.
[8] Về án phí dân sự sơ thẩm:
Căn cứ quy định khoản 4, 6 Điều 26 Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc
hội về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án
Pháp lệnh án phí, lệ phí Toà án.
Bà Nguyễn Thị D phải chịu 300.000 đồng án phí đối với yêu cầu ông
Giang Hải A trả lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không được Toà án chấp
nhận. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Phùng Ngọc H phải chịu
300.000 đồng án phí đối với yêu cầu tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng của bà
9
D được chấp nhận và 5.000.000 đồng án phí sơ thẩm đối với yêu cầu độc lập
không được Toà án chấp nhận.
Ông Giang Hải A, ông Võ Văn C, bà Nguyễn Thị Trường A, ông Võ
Nguyễn K không phải chịu án phí sơ thẩm.
[9] Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo theo quy định
pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ: Khoản 3, 11 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm g khoản 1
Điều 40, Điều 91, khoản 1 Điều 92, Điều 157, Điều 158, điểm b Khoản 2 Điều
227, Điều 271, Điều 273 và khoản 1 Điều 280 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều
127, Điều 131 Bộ luật Dân sự; Điều 105 Luật Đất đai năm 2013; Khoản 4, 6
Điều 26 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, ngày 30 tháng 12 năm 2016
của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp,
quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị
D.
- Chấp nhận yêu cầu của bà Nguyễn Thị D về việc yêu cầu tuyên bố Hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ký kết giữa bà Nguyễn Thị D, ông Võ
Văn C với ông Phùng Ngọc H ngày 07/10/2022, có công chứng tại Văn phòng
Công chứng Võ Duy Th, số công chứng 4290, quyển số 03/2022 TP/CC-
SCC/HĐGD là vô hiệu.
Tuyên bố: Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ký kết giữa bà
Nguyễn Thị D, ông Võ Văn C với ông Phùng Ngọc H ngày 07/10/2022, có công
chứng tại Văn phòng Công chứng Võ Duy T, số công chứng 4290, quyển số
03/2022 TP/CC-SCC/HĐGD là vô hiệu.
Bà Nguyễn Thị D có quyền liên hệ với cơ quan nhà nước có thẩm quyền
để cấp đổi lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
- Không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn bà Nguyễn Thị D về việc yêu
cầu ông Giang Hải A trả lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số DC 731248,
số vào sổ cấp GCN CS03815, do Sở Tài nguyên Môi trường tỉnh Sóc Trăng cấp
ngày 15/06/2021 cho bà Nguyễn Thị D
2. Không chấp nhận yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan ông Phùng Ngọc H về việc yêu cầu bà Nguyễn Thị D, ông Võ Văn C trả số
tiền vay 100.000.000 đồng (Một trăm triệu đồng).
3. Về chi phí tố tụng: Chi phí tố tụng là 4.133.851 đồng, bà Nguyễn Thị
D, ông Võ Văn C và ông Phùng Ngọc H mỗi bên phải chịu 2.066.925 đồng. Do
bà Nguyễn Thị D đã tạm nộp trước nên ông Phùng Ngọc H phải trả lại cho bà
Nguyễn Thị D số tiền 2.066.925 đồng.
10
Ông Giang Hải A, bà Nguyễn Thị Trường A, ông Võ Nguyễn K không
phải chịu chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ.
4. Về án phí dân sự sơ thẩm:
Bà D phải chịu 300.000 đồng án phí sơ thẩm. Được khấu trừ vào số tiền
tạm ứng án phí bà D đã nộp 300.000 đồng theo Biên lai tạm ứng án phí số
0008678 ngày 18/5/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố S, tỉnh Sóc
Trăng. Như vậy bà D được nhận lại 300.000 đồng án phí sơ thẩm.
Ông Phùng Ngọc H phải chịu 5.300.000 đồng án phí sơ thẩm. Được khấu
trừ vào số tiền tạm ứng án phí ông H đã nộp 300.000 đồng theo Biên lai tạm ứng
án phí số 0008897 ngày 06/7/2023 và 2.500.000 đồng theo Biên lai tạm ứng án
phí số 0001342 ngày 13/12/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Sóc
Trăng, tỉnh Sóc Trăng. Như vậy ông H còn phải nộp thêm 2.500.000 đồng án phí
sơ thẩm.
Ông Giang Hải A, ông Võ Văn C, ông Võ Nguyễn K, bà Nguyễn Thị
Trường A không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.
4. Đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền làm đơn kháng cáo trong hạn
15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự không có mặt tại phiên tòa có quyền
kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án
được niêm yết để yêu cầu Tòa án cấp trên xét xử lại theo thủ tục phúc thẩm.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành
án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014 thì người được thi hành án dân sự,
người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu
thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định
tại các Điều 6, 7, Điều 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ
sung năm 2014; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30
Luật thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014.
Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
- TAND tỉnh Sóc Trăng; THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
- VKSND TP Sóc Trăng; (Đã ký)
- Các đương sự;
- Lưu HSVA.
Chiêm Ngọc Linh
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 26/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 26/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 21/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 21/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 21/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 20/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 20/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 18/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 17/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 13/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 12/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 11/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 11/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 06/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 04/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 04/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 04/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 03/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 03/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
20
Ban hành: 28/02/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm