Bản án số 184/2025/DS-PT ngày 17/03/2025 của TAND cấp cao tại TP.HCM về tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 184/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 184/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 184/2025/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 184/2025/DS-PT ngày 17/03/2025 của TAND cấp cao tại TP.HCM về tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND cấp cao tại TP.HCM |
Số hiệu: | 184/2025/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 17/03/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Hủy Bản án dân sự sơ thẩm. Chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh H giải quyết lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm. |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Bản án số: 184/2025/DS-PT
Ngày 17 tháng 3 năm 2025
“V/v Tranh chấp thừa kế quyền
sử dụng đất”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa: Bà Trần Thị Thúy Hồng.
Các Thẩm phán: Ông Ngô Đức Thọ.
Bà Nguyễn Thị Ngọc Hoa.
- Thư ký phiên tòa: Ông Nguyễn Trung Kiên - Thư ký Tòa án nhân dân
cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh
tham gia phiên tòa: Bà Trần Thị Huệ - Kiểm sát viên.
Trong các ngày 10 và ngày 17 tháng 3 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân
dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân
sự phúc thẩm thụ lý số: 952/2024/TLPT-DS ngày 02 tháng 12 năm 2024 sự về
việc: “Tranh chấp quyền sử dụng đất và tranh chấp di sản thừa kế” giữa:
Do Bản án dân sự sơ thẩm số: 15/2024/DS-ST ngày 25/7/2024 của Tòa án
nhân dân tỉnh Hậu Giang bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 341/2025/QĐ-PT ngày
21 tháng 2 năm 2025 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn:
1.1 Bà Nguyễn Thị Lệ . Địa chỉ: Ấp A, xã L, huyện L, tỉnh Hậu Giang, có
mặt.
1.2 Ông Nguyễn Hồng L. Hộ khẩu thường trú: Ấp E, xã L, huyện L, tỉnh
Hậu Giang. Tạm trú: Ấp C, xã V, huyện H, tỉnh Bạc Liêu, vắng mặt.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn có: Luật sư
Nguyễn Phúc D, Văn phòng L5 chi nhánh tỉnh K, thuộc Đoàn Luật sư tỉnh H, có
mặt.
2. Bị đơn: Ông Nguyễn Thanh T. Địa chỉ: Ấp A, xã L, huyện L, tỉnh Hậu
Giang, có mặt.
- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn có: Luật sư Trần Văn
Đ, Văn phòng L6, thuộc Đoàn Luật sư tỉnh H, có mặt.
2
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
3.1 Ông Nguyễn Văn T1. Địa chỉ: Ấp K, xã M, huyện H, tỉnh Kiên Giang,
vắng mặt.
Người đại diện theo ủy quyền của ông T1: Bà Nguyễn Thị Lệ . Địa chỉ: Ấp
A, xã L, huyện L, tỉnh Hậu Giang, có mặt.
3.2 Bà Nguyễn Thị Ánh .1 Địa chỉ: Ấp E, xã L, huyện L, tỉnh Hậu Giang,
có mặt.
3.3 Bà Nguyễn Thị C. Địa chỉ: Ấp A, xã L, huyện L, tỉnh Hậu Giang, vắng
mặt.
- Người đại diện theo ủy quyền của bà C: Bà Nguyễn Thị Lệ . Địa chỉ: Ấp
A, xã L, huyện L, tỉnh Hậu Giang, có mặt.
3.4 Bà Nguyễn Thị D1. Địa chỉ: Ấp A, xã L, huyện L, tỉnh Hậu Giang, có
mặt.
3.5 Bà Nguyễn Thị N. Địa chỉ: Ấp A, xã L, huyện L, tỉnh Hậu Giang, vắng
mặt.
Người đại diện theo ủy quyền của bà N: Ông Phạm Văn T2. Địa chỉ: Ấp A,
xã L, huyện L, tỉnh Hậu Giang, xin xét xử vắng mặt.
3.6 Ông Nguyễn Vĩnh P (Nguyễn Văn P1). Địa chỉ: Ấp A, xã L, huyện L,
tỉnh Hậu Giang, vắng mặt.
3.7 Ông Nguyễn Hồng N1. Địa chỉ: Ấp A, xã L, huyện L, tỉnh Hậu Giang,
có mặt.
3.8 Ông Nguyễn Thành Y. Địa chỉ: Số G khu V T, phường T, quận T,
thành phố Cần Thơ, vắng mặt.
3.9 Bà Nguyễn Thị Diệu H. Địa chỉ: #708 D-dong, T-si, G-do, Hàn Quốc.
3.10 Ông Phạm Văn T2. Địa chỉ: Ấp A, xã L, huyện L, tỉnh Hậu Giang, xin
xét xử vắng mặt.
3.11 Bà Nguyễn Thị H1. Địa chỉ: Ấp A, xã L, huyện L, tỉnh Hậu Giang,
vắng mặt.
3.12 Ông Nguyễn Văn N2. Địa chỉ: Ấp E, xã L, huyện L, tỉnh Hậu Giang,
vắng mặt.
3.13 Ông Trần Văn T3. Địa chỉ: Ấp H, xã T, huyện H, tỉnh Kiên Giang,
vắng mặt.
3.14 Anh Trần Thanh X, có mặt.
3.15 Anh Trần Thanh S, có mặt.
3.16 Chị Ngô Thụy Kim O, vắng mặt.
Cùng địa chỉ: Ấp A, xã L, huyện L, tỉnh Hậu Giang.
3
3.17 Chị Hồ Thị Mỹ L1. Nơi đăng ký thường trú: Ấp A, xã L, huyện L, tỉnh
Hậu Giang. Địa chỉ hiện nay: (B-dong) 66-10, T4-ro 18-gil, S1-gu, D2, K, vắng
mặt.
Người đại diện theo ủy quyền của chị L1: Bà Nguyễn Thị Lệ . Địa chỉ: Ấp
A, xã L, huyện L, tỉnh Hậu Giang, có mặt.
3.18 Ông Nguyễn Hồng Đ1 (Nguyễn Thanh Đ2), vắng mặt.
3.19 Bà Phan Thị P2 (vợ ông Đ2), vắng mặt.
Cùng địa chỉ: Ấp A, xã L, huyện L, tỉnh Hậu Giang.
4. Người kháng cáo:
- Nguyên đơn bà Nguyễn Thị L2;
- Bị đơn ông Nguyễn Thanh T;
- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Ông Nguyễn Văn T1, bà Nguyễn
Thị Á, bà Nguyễn Thị C, bà Nguyễn Thị D1 và bà Nguyễn Thị N.
NHẬN THẤY:
- Theo đơn khởi kiện ngày 16/9/2015, các đơn yêu cầu và các lời khai có
trong hồ sơ vụ án, nguyên đơn bà Nguyễn Thị L2 trình bày:
Phần đất tranh chấp có nguồn gốc của cha mẹ là cụ Nguyễn Văn T5 (chết
năm 2000) và cụ Nguyễn Thị L3 (chết năm 2004) để lại. Cụ T5 và cụ L3 có tổng
cộng 12 người con gồm: Nguyễn Thị L2, Nguyễn Thị Á, Nguyễn Thị C, Nguyễn
Hồng N1, Nguyễn Hồng L, Nguyễn Văn T1, Nguyễn Thành Y, Nguyễn Vĩnh P,
Nguyễn Thanh T, Nguyễn Thị N, Nguyễn Thị D1 và Nguyễn Thị Diệu H. Khi
còn sống cụ T5 và cụ L3 có tạo lập được khối tài sản khoảng hơn 100 công đất
bao gồm đất thổ cư, đất vườn và đất ruộng, trong đó có phần đất diện tích
47.579m
2
đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, cụ thể:
- Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 000286 do Ủy ban nhân dân
(UBND) huyện L cấp cho hộ Nguyễn Thị L3 ngày 246//1997, thửa đất số 581
diện tích 20.873m
2
, loại đất LNK, thửa đất số 545 diện tích 11.556m
2
loại đất
2L, thửa đất số 546 diện tích 15.556m
2
loại đất 2L và thửa đất 582 diện tích
300m
2
loại đất T.
- Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 00360 do Ủy ban nhân dân huyện
L cấp cho hộ ông Nguyễn Văn T5 ngày 04/7/2001, thửa đất số 545 diện tích
10.850m
2
loại đất 2L. Phần đất này đã chuyển nhượng cho Nguyễn Thành Y
diện tích 8.437m
2
, còn lại là 2.413m
2
.
- Những phần đất còn lại gồm các thửa đất số 614 diện tích 3.750m
2
, thửa
594 diện tích 5.168m
2
, thửa 595 diện tích 5.906m
2
, thửa đất số 704 diện tích
17.899m
2
và thửa 585, 586 chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Do cụ T5 và cụ L3 chết không để lại di chúc. Nên bà L2 yêu cầu chia thừa
kế theo pháp luật là những phần đất do cha mẹ tạo lập diện tích hơn 100 công,
4
bao gồm những phần đất đã có giấy chứng nhận và chưa được cấp giấy chứng
nhận theo đo đạc thực tế khoảng 66.435,6m
2
, không tính phần đất bà C tự khai
phá, ổn định phần đất ông T1 được cha mẹ cho.
Đối với căn nhà, vật kiến trúc và cây trồng gắn liền với đất thì bà không
yêu cầu chia thừa kế, đề nghị giải quyết nếu chia cho các đồng thừa kế đất thì
người đó sẽ được sở hữu tài sản gắn liền với đất luôn. Đối với chuồng heo phía
sau nhà ông T thì do bà và ông T cùng xây dựng, nên nếu chia cho bà phần đất
tại vị trí này thì bà sẽ giao ½ giá trị cho ông T, còn nếu ông T nhận phần đất này
thì trả ½ giá trị cho bà.
- Theo đơn khởi kiện ngày 16/9/2015, các đơn yêu cầu và các lời khai có
trong hồ sơ vụ án, nguyên đơn ông Nguyễn Hồng L trình bày:
Ông L thống nhất yêu cầu của bà L2, yêu cầu chia tất cả quyền sử dụng đất
do cha, mẹ đứng tên theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do cha là cụ T5 và
mẹ là cụ L3 đứng tên và những phần đất chưa được cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất. Còn nhà, vật kiến trúc và cây trồng gắn liền với đất thì ông không
yêu cầu chia thừa kế, đề nghị giải quyết nếu chia cho các đồng thừa kế đất thì
người được chia sẽ được sở hữu tài sản gắn liền với đất luôn.
Ông L có sử dụng phần đất diện tích theo đo đạc là 6.638m
2
, cụ thể là tại vị
trí đất số 14a và 14b Sơ đồ thửa đất số 2 ngày 30/10/2019. Phần đất này ông sử
dụng từ năm 2014 đến nay. Ngoài ra, ông đang sử dụng phần đất diện tích
5.854m
2
Sơ đồ thửa đất số 3, ngày 30/10/2019 do ông T1 cho ông L mượn sử
dụng. Phần đất này theo ông được biết là cha mẹ cho ông T1 vào năm 1978,
không có làm giấy tờ, khi cho thì đất này là đất trồng dừa nước, ông T1 về cải
tạo làm rẩy, sau này làm ruộng. Ông T1 canh tác đến khoảng năm 2000 thì cho
bà C mượn canh tác, đến năm 2014 ông T1 lấy lại giao cho ông canh tác cho đến
nay. Phần đất này chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
- Tại đơn phản tố ngày 09/6/2017 và quá trình giải quyết vụ án, bị đơn ông
Nguyễn Thanh T và đại diện theo ủy quyền của ông T là ông Nguyễn Ngọc T6
trình bày:
Thống nhất trình bày của bà L2 về mối quan hệ nhân thân của gia đình,
thời điểm cha mẹ là cụ T5 và cụ L3 chết không để lại di chúc. Ông T không
đồng ý chia thừa kế đối với phần đất do cha mẹ để lại là 83.845m
2
và yêu cầu
giữ lại phần đất mà cha mẹ đã cho ông quản lý canh tác từ trước đến nay là
24.929m
2
.
Ngày 30/7/2020 và 05/4/2021, ông T yêu cầu chia thừa kế theo quy định
những phần đất cha mẹ ông được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng, ông xin
nhận hiện vật và trả giá trị đất cho các hàng thừa kế khác, đối với phần đất các
anh em đã cất nhà thì ông đồng ý ổn định phần đất có nhà cho các anh em. Còn
đối với các phần đất chưa được cấp giấy chứng nhận là do ông khai phá, nhưng
các anh em tự ý bao chiếm, ông yêu cầu công nhận cho ông T được sử dụng.
Phần chuồng heo sau nhà là do ông xây dựng, ông không đồng ý chia cho bà L2.
- Tại đơn yêu cầu độc và quá trình giải quyết vụ án, người có quyền lợi,
5
nghĩa vụ liên quan Nguyễn Văn T1, ông Nguyễn Hồng N1, bà Nguyễn Thị Á, bà
Nguyễn Thị C và đại diện theo ủy quyền của ông T1, bà C là bà Nguyễn Thị L2
trình bày: Thống nhất trình bày của bà L2 về mối quan hệ nhân thân của gia
đình, thời điểm cha mẹ là cụ T5 và cụ L3 chết không để lại di chúc. Ông T1, ông
N1, bà Á, bà C có đơn yêu cầu độc lập yêu cầu chia thừa kế theo pháp luật cho
các anh em được hưởng phần đất bằng nhau theo diện tích đo đạc thực tế (không
yêu cầu chia nhà và tài sản trên đất).
Riêng bà C yêu cầu ổn định các phần đất: 05 công tầm 3 mét bà khai phá,
sử dụng từ năm 1987, phần đất nhận chuyển nhượng của ông T1 02 công ¼ đất
ruộng và phần đất nhận chuyển nhượng của ông Đ3, bà V vào năm 2010 diện
tích 2,5 công tầm 3m và khoảng 01 công theo chiều dọc, không chia thừa kế.
Yêu cầu ổn định 01 nền nhà thổ cư diện tích ngang 50m dài 50m và năm 2010.
Ông T1 có yêu cầu chia thừa kế phần tài sản do cha mẹ để lại nhưng trừ
phần diện tích ông được bà L3 cho 14.824m
2
bao gồm các thửa 594, 595, 614 và
phần đất đã chuyển nhượng cho bà C diện tích 02 công ¼ đất ruộng và 01 nền
nhà thổ cư diện tích ngang 50m dài 50m tại thửa 704.
- Tại đơn yêu cầu độc ngày 10/6/2017 và quá trình giải quyết vụ án, người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Nguyễn Thị D1 trình bày: Thống nhất trình bày
của bà L2 về mối quan hệ nhân thân của gia đình, thời điểm cha mẹ là cụ T5 và
cụ L3 chết không để lại di chúc. Bà D1 yêu cầu chia thừa kế đối với di sản của
cụ T5 và cụ L3 là phần đất có diện tích khoảng 100.000m
2
gồm cả phần đất đã
được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng và phần chưa được cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất. Bà yêu cầu chia căn nhà của cha mẹ theo pháp luật. Về
phần đất bà yêu cầu công nhận riêng cho bà phần diện tích 4.814m
2
và diện tích
1.296m
2
và phần bờ bà C đang sử dụng. Phần còn lại thì chia thừa kế theo pháp
luật, bà ưu tiên được nhận phần đang sử dụng và nhận thêm phần tiếp giáp cho
đủ một suất thừa kế, về cây trồng trên phần đất ai được chia thì người đó hưởng.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Nguyễn Thị N trình bày: Thống
nhất trình bày của bà L2 về mối quan hệ nhân thân của gia đình, thời điểm cha
mẹ là cụ T5 và cụ L3 chết không để lại di chúc. Bà N yêu cầu công nhận quyền
sử dụng đất mà bà hiện đang quản lý và sử dụng tại vị trí nhà bà đang ở và
chuồng heo giáp ranh với phần đất ông Nguyễn Vĩnh P đang sử dựng cùng với
phần đất ruộng khoảng 04 công tầm 3m cặp ranh bà Thị X1 và ông Danh H2 vì
phần đất này bà được cha mẹ cho từ năm 1972 đến nay, bà không yêu cầu chia
thêm di sản thừa kế. Với phần đất tại vị trí số (1) Sơ đồ thửa đất số 1, bà N cho
rằng là của bà mua của ông Nguyễn Hồng Đ1 (Nguyễn Thanh Đ2), nhưng ông
Nguyễn Hồng N3 làm giấy tờ giả ông Đ2 chuyển nhượng cho ông N3 để chiếm
phần đất của bà. Bà N không đồng ý chia thừa kế phần đất này và yêu cầu công
nhận cho bà N đối với diện tích đất mua của ông Nguyễn Hồng Đ1.
Đối với phần đất vị trí (1) Sơ đồ thửa đất số 6 là nền Chùa của gia đình
khai phá, sử dụng từ năm 1980, đến năm 1990 thì mới cho lại bà C sử dụng.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Nguyễn Vĩnh P trình bày: Thống
nhất trình bày của bà L2 về mối quan hệ nhân thân của gia đình, thời điểm cha
6
mẹ là cụ T5 và cụ L3 chết không để lại di chúc. Ông P yêu cầu công nhận quyền
sử dụng đất hiện nay ông đang quản lý bao gồm phần đất tại nhà ông P và phần
đất ruộng phía sau nhà, phần đất này là do cha mẹ cho ông lúc còn sống. Ông
cũng yêu cầu Tòa án phân chia di sản thừa kế theo quy định của pháp luật. Ông
P yêu cầu giải quyết vắng mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Nguyễn Thành Y trình bày: Ông Y
đồng ý nhận một suất thừa kế theo quy định. Phần đường nước tại vị trí 6 theo
Sơ đồ thửa đất số 2 giáp phần đất ông N1 đang sử dụng là do ông nhận chuyển
nhượng của cha là cụ T5, sau đó ông chuyển nhượng lại cho ông N1 một phần,
phần còn lại tại vị trí số 6 ông chừa lại nên vẫn là của ông nên yêu cầu không
xác định phần đất này là di sản để chia.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị H trình bày: Bà H
đã biết Tòa án đang thụ lý giải quyết vụ án yêu cầu chia di sản thừa kế của cha
mẹ là cụ T5 và cụ L3 chết để lại không di chúc. Bà H đã nhận được các văn bản
tố tụng của Tòa án, nhưng do bà đang ở nước ngoài nên không thể tham gia tố
tụng. Bà H yêu cầu Tòa án giải quyết giao toàn bộ phần di sản bà H được hưởng
cho ông Nguyễn Thanh T được sử dụng, bà H yêu cầu Tòa án giải quyết vắng
mặt bà.
Quá trình giải quyết vụ án, bà Hồ Thị Mỹ L1 và đại diện theo ủy quyền của
bà Hồ Thị Mỹ L1 là bà Nguyễn Thị L2 trình bày: Phần đất có căn nhà tình
thương của bà L1 trước đây cụ T5 cho ông T1. Năm 1986, ông T1 bán lại cho bà
C. Năm 2005, bà C là mẹ của Mỹ L1 cho Mỹ L1 cất căn nhà tình thương do địa
phương hỗ trợ. Căn nhà hiện tại có kết cấu cây, vách tường phía trước và phía
sau, hai bên không có vách tường, mái lợp tole, hiện bà C đang quản lý căn nhà
này. Bà L2 yêu cầu giữ nguyên căn nhà, nếu Tòa án chia thừa kế đối với phần
đất có căn nhà thì đồng ý tháo dỡ, di dời nhà.
Tại Biên bản lấy lời khai ngày 21/5/2021, ông Nguyễn Văn N2 khai: Phần
đất tại vị trí (1) Sơ đồ thửa đất số 1, ông nhận chuyển nhượng của ông Nguyễn
Thanh Đ2 vào năm 1986 với giá 5,5 chỉ vàng 24K, có làm giấy tay do chính ông
Đ2 viết. Ông N2 canh tác khoảng 3 năm thì bán lại cho cha vợ là cụ T5 với giá
5,5 chỉ vàng 24K. Ông Đ2 trước đây họ tên là Nguyễn Thanh Đ2, sau này cải
chính lại thành Nguyễn Hồng Đ1. Giấy mua bán đất giữa ông Đ1 và bà N là do
ông Đ1 thông đồng với bà N làm sau khi bà L2 khởi kiện yêu cầu chia thừa kế
và hiện ông T đang sử dụng phần đất này. Ông N2 xác định đất này đã chuyển
nhượng cho cụ T5 nên yêu cầu chia thừa kế, ông là rể nên không có yêu cầu gì,
yêu cầu giải quyết vắng mặt.
Tại Biên bản lấy lời khai ngày 05/01/2024, ông Nguyễn Hồng Đ1 khai:
Vào năm 1987, tôi có bán cho bà Nguyễn Thị N phần đất có diện tích 04 công
tấm 3m, có lập hợp đồng mua bán ngày 22/4/1987. Tờ sang nhượng có nội dung
ông S cho ông N2 phần đất 03 công hai góc 3 với số vàng 05 chỉ rưỡi không
phải là chữ ký của tôi vì từ trước đến nay tôi không có sang nhượng cho ông
Nguyễn Văn N2 phần đất nào cả. Do bận làm ăn xa nên tôi yêu cầu Tòa án xét
xử vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án.
7
Tại Biên bản lấy lời khai ngày 28/4/2021, bà Phan Thị P2 (vợ ông Nguyễn
Hồng Đ1) khai: Vào khoảng năm 1990 – 1991 ông Đ1 và bà P2 có chuyển
nhượng cho bà N phần đất tại vị trí (1) Sơ đồ thửa đất số 1. Vợ chồng bà không
có chuyển nhượng đất cho ông Nguyễn Văn N2, giấy chuyển nhượng đất ông
N2 cung cấp cho rằng nhận chuyển nhượng của ông Đ1 là do ông N2 tự viết. Bà
không có yêu cầu gì trong vụ án này.
Quá trình giải quyết vụ án, những người làm chứng trình bày:
Tại Biên bản lấy lời khai ngày 01/4/2021, ông Nguyễn Thanh T7 khai:
Theo Sơ đồ thửa đất số 02 ngày 07/10/2019 của Công ty TNHH Đ4 bản đồ Đ4
thể hiện các phần đất tại vị trí 13a5, 13a4, 13b2, 14b do ông T7 đứng tên trong
sổ mục kê (thửa 541 và 542 tờ bản đồ số 05) nhưng các phần đất này là của gia
đình bà L3 và ông T5, không phải của ông vì ranh giới giữa hai bên đã rõ ràng,
không rõ lý do vì sao phần đất này ông đứng tên trong Sổ mục kê. Ông không có
tranh chấp gì, yêu cầu giải quyết vắng mặt ông trong suốt quá trình giải quyết vụ
án, cam đoan không khiếu nại gì về sau.
- Tại Biên bản lấy lời khai ngày 03/12/2020, ông Danh H3 khai ông không
có liên quan đến thửa đất 510 do ông đứng tên trong sổ mục kê, có thể do cơ
quan chuyên môn ghi nhầm tên ông, ông không tranh chấp gì đối với phần đất
tại thửa 510, không tham gia tố tụng và đề nghị Tòa án giải quyết vắng mặt.
- Tại Biên bản lấy lời khai ngày 03/12/2020, ông Danh L4 (2 Lượng) khai
ông không có liên quan gì đến thửa đất 752, ông không có tranh chấp hay yêu
cầu gì đối với thửa đất này, có thể cơ quan chuyên môn ghi nhầm thửa đất tên
ông. Ông không tham gia tố tụng, đề nghị Tòa án giải quyết, xét xử vắng mặt.
- Tại Biên bản lấy lời khai ngày 01/8/2017 và ngày 03/12/2020, ông Danh
Đ3 và bà Thị V khai có chuyển nhượng cho bà Nguyễn Thị C phần đất diện tích
2,5 công tấm 3m và khoảng 01 tầm theo chiều dọc, với giá 35.000.000 đồng,
phần đất giáp với ông Nguyễn Văn T5 và ông V1. Đất chưa được cấp giấy
chứng nhận. Bà và ông Danh Đ3 không có ý kiến hay yêu cầu gì, các bên đã
hoàn tất quyền và nghĩa vụ. Bà và ông Danh Đ3 đề nghị không tham gia tố tụng,
đề nghị giải quyết, xét xử vắng mặt.
Tại Công văn số 2088/UBND ngày 06/7/2020 của Ủy ban nhân dân huyện
L, tỉnh Hậu Giang trả lời căn cứ hồ sơ địa chính hiện đang quản lý tại Chi nhánh
Văn phòng đăng ký đất đai huyện L:
- Thửa 510 diện tích 3.900m
2
loại đất Qk, tờ bản đồ số 5, đứng tên Danh
Hên trên Sổ mục kê.
- Thửa 544 diện tích 300m
2
, loại đất T; thửa 594 diện tích 5.168m
2
, loại đất
Qk; thửa 595 diện tích 5.906m
2
, loại đất Qk; thửa 614, diện tích 3.750m
2
, loại
đất ĐM tờ bản đồ số 5, đứng tên Nguyễn Văn T8 trên Sổ mục kê.
- Thửa đất số 704, diện tích 17.899m
2
, loại đất 2L tờ bản đồ số 5, không có
tên chủ sử dụng đất trên Sổ mục kê.
- Thửa đất số 752, diện tích 1.700m
2
, loại đất Qk, tờ bản đồ số 5, đứng tên
8
2 Lượng trên Sổ mục kê.
- Thửa 585 diện tích 90.507m
2
loại đất Hg/đb và 586 diện tích 50.083m
2
,
loại đất Hg/đb, tờ bản đồ số 5. Các thửa đất này trước đây do bao diện tích, sau
đó tách thửa cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các hộ sử dụng đất.
Những phần đất trên chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Các thửa đất này nằm trong quy hoạch xây dựng Khu nông nghiệp ứng dụng
công nghệ cao tỉnh Hậu Giang (theo mô hình nông thôn mới của Chính phủ). Đề
được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với các thửa đất này người sử
dụng đất phải đảm bảo theo quy định tại Điều 100, 101 và 102 của Luật Đất đai
năm 2013 và các văn bản liên quan.
Tại Công văn số 11/UBND ngày 04/3/2022 của Ủy ban nhân dân xã L,
huyện L, tỉnh Hậu Giang xác định:
- Thửa đất số 510 loại đất QK do ông Danh H3 đứng tên trong Sổ mục kê
ruộng đất nhưng thực tế trước đây là bà Nguyễn Thị S2 khai phá và sử dụng
trước năm 1975, đến năm 1987 chuyển nhượng lại cho bà Nguyễn Thị N. Tại
thời điểm chuyển nhượng bà S2 sức khỏe không tốt nên để cho con trai là
Nguyễn Hồng Đ1 ký tên sang bán đất bằng giấy tay với bà Nguyễn Thị N. Từ
khi nhận chuyển nhượng bà N canh tác khoảng 3 đến 4 năm do hoàn cảnh gia
đình khó khăn nên bà N bỏ địa phương đi Ba Thê làm ăn để lại phần đất của cụ
Nguyễn Văn T5 và cụ Nguyễn Thị L3 sử dụng và canh tác. Tại thời điểm bà N
để lại đất cho cụ T5 và cụ L3 canh tác qua xác minh các hộ dân không biết là
chuyển nhượng lại hay chỉ để lại cho cha mẹ bà N sử dụng.
- Các thửa đất số 544, 594, 595, 614, 752, 585, 586, 704 do cụ Nguyễn Văn
T5 và cụ Nguyễn Thị L3 được cha mẹ cho và sử dụng trước năm 1975, không có
vi phạm quy định của pháp luật đất đai.
- Một phần thửa 585, thửa 586 bà Nguyễn Thị C nhận chuyển nhượng của
ông Danh Đ3 và bà Thị V vào năm 2014.
Đối với các phần đất đã được đăng ký trong sổ mục kê, thời điểm đăng ký
lần đầu năm 1996. Sổ mục kê lập ngày 09/11/1996.
Các phần đất nêu trên của các đương sự đang sử dụng phù hợp với quy
hoạch sử dụng đất. Về quy hoạch xây dựng điểm dân cư nông thôn chưa được
cơ quan có thẩm quyền quy hoạch và phê duyệt. Để được cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất đối với các thửa đất nêu trên thì người sử dụng đất phải đảm
bảo theo quy định tại các Điều 100, 101 và 102 của Luật Đất đai năm 2013 và
các văn bản có liên quan.
- Tại Bản án dân sự sơ thẩm số: 15/2024/DS-ST ngày 25/7/2024 của Tòa
án nhân dân tỉnh Hậu Giang đã quyết định:
Áp dụng khoản 5 Điều 26, điểm c khoản 1 Điều 37, Điều 91, Điều 147,
Điều 153, Điều 157, Điều 158, Điều 165, Điều 228, Điều 244, Điều 273, điểm a
khoản 2 Điều 464, điểm đ khoản 1 Điều 469, điểm a khoản 1 Điều 470 của Bộ
luật Tố tụng dân sự năm 2015; Các Điều 100, 101, 167, 168, 188, 203 của Luật
9
Đất đai năm 2013; Các Điều 612, 613, 623, 649, 651, 658, 660 và Điều 357 của
Bộ luật Dân sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm,
thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Tuyên xử:
Đình chỉ yêu cầu độc lập của ông Nguyễn Hồng N1 về việc yêu cầu chia
thừa kế theo pháp luật di sản của cụ Nguyễn Văn T5 và cụ Nguyễn Thị L3;
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị L2, ông Nguyễn Hồng L
và yêu cầu độc lập của ông Nguyễn Văn T1, bà Nguyễn Thị Á, bà Nguyễn Thị
C, bà Nguyễn Thị D1 về việc yêu cầu chia thừa kế theo pháp luật di sản của cụ
Nguyễn Văn T5 và cụ Nguyễn Thị L3 để lại; Không chấp nhận yêu cầu chia tài
sản là chuồng heo của bà Nguyễn Thị L2; Không chấp yêu cầu phản tố của bị
đơn Nguyễn Thanh T về việc yêu cầu công nhận quyền sử dụng đất đối với
những phần đất chưa được cấp giấy chứng nhận;
1. Xác định di sản của cụ T5 và cụ L3 để lại là quyền sử dụng đất thể hiện
tại Sơ đồ thửa đất số 1 (trừ thửa 510 tại vị trí 1), Sơ đồ thửa đất số 2 (trừ phần
đất tại vị trí số A, 15 và đất thuộc Kênh T), Sơ đồ thửa đất số 3, Sơ đồ thửa đất
số 4, Sơ đồ thửa đất số 5, Sơ đồ thửa đất số 6 (trừ phần đất tại vị trí số 2 và 3);
2. Chia thừa kế theo pháp luật cho các đương sự như sau:
2.1. Ông Nguyễn Thanh T được chia phần đất tại vị trí (3a) diện tích 300m
2
loại đất ở nông thôn thuộc thửa 582 (thửa 59 bản đồ chính quy), vị trí (3) diện
tích 3.621,5m
2
loại đất trồng cây lâu năm thuộc thửa 581 (thửa 58 bản đồ chính
quy), vị trí (4) diện tích 13.299,8m
2
loại đất trồng cây lâu năm thuộc thửa 581
(thửa 63 bản đồ chính quy), vị trí (4a) diện tích 1.214m
2
, loại đất trồng cây lâu
năm thuộc thửa 752 (thửa 63 bản đồ chính quy) Sơ đồ thửa đất số 1 và phần đất
vị trí (6), (13a1), (13a3) và (13a5) có diện tích là 441m
2
+ 4.398,6m
2
+ 1.805m
2
+ 481m
2
= 7.125,6m
2
loại đất LUC thuộc thửa 545, 704 Sơ đồ thửa đất số 2.
2.2. Bà Nguyễn Thị D1 được chia phần đất tại vị trí (2), (2a), (2b) có diện
tích 840m
2
+ 380m
2
+ 248,6m
2
= 1.468,6m
2
, loại đất trồng cây lâu năm thuộc
thửa 581 (thửa 58 bản đồ chính quy) Sơ đồ thửa đất số 1 và 5.854m
2
thửa 614
(thửa 117 bản đồ chính quy) loại đất BHK thuộc Sơ đồ thửa đất số 3.
2.3. Bà Nguyễn Thị L2 được chia phần đất tại vị trí (3), (4), (13a2), (13a4)
có diện tích là 250m
2
+ 55,1m
2
+ 3.076m
2
+ 1.429m
2
= 4.810,1m
2
, loại đất LUC
thuộc thửa 546, 704 Sơ đồ thửa đất số 2 và 4.591m
2
loại đất Hg/đb thuộc thửa
585 (thửa 64 bản đồ chính quy) Sơ đồ thửa đất số 5.
2.4. Ông Nguyễn Hồng N1 được chia phần đất tại vị trí (5), (5a), (4b) có
diện tích là 3.244m
2
+ 794m
2
+ 479m
2
= 4.517m
2
, loại đất trồng cây lâu năm
thuộc thửa 581, 752 (thửa 63 bản đồ chính quy) thuộc Sơ đồ thửa đất số 1.
2.5. Bà Nguyễn Thị N được chia phần đất tại vị trí (1), (7), (2a1), (2a2) có
diện tích là 1.632,2m
2
+ 5.398,9m
2
+ 267,5m
2
+ 252,3m
2
= 7.550,9m
2
, loại đất
LUC thuộc thửa 704 Sơ đồ thửa đất số 2.
10
2.6. Ông Nguyễn Vĩnh P được chia phần đất tại vị trí (5a) diện tích 300m
2
thuộc thửa 544 loại đất ở và vị trí (5b), (12) có diện tích 767,6m
2
+ 4.616,2m
2
=
5.383,8m
2
loại đất LUC thuộc thửa 545 Sơ đồ thửa đất số 2.
2.7. Bà Nguyễn Thị C được chia phần đất tại vị trí (2b), (8), (9), (10) có
diện tích là 416,5m
2
+ 135m
2
+ 1.201,2m
2
+ 3.067,6m
2
= 4.820,3m
2
, loại đất
LUC thuộc thửa 704 Sơ đồ thửa đất số 2 và vị trí (1) diện tích 5.128,1m
2
loại đất
Hg/đb thuộc thửa 586 (thửa 45 bản đồ chính quy) Sơ đồ thửa đất số 6.
2.8. Ông Nguyễn Hồng L được chia phần đất tại vị trí (14), (13b2) có diện
tích là 6.638m
2
+ 1.924m
2
= 8.562m
2
, loại đất LUC thuộc thửa 546 Sơ đồ thửa
đất số 2.
2.9. Bà Nguyễn Thị Á được chia phần đất tại vị trí (4) diện tích 8.061,2m
2
,
loại đất Hg/đb thuộc thửa 586 (thửa 54 bản đồ chính quy) Sơ đồ thửa đất số 6.
2.10. Ông Nguyễn Văn T1 được chia phần đất diện tích 10.047,9m
2
, loại
đất Hg/đb thuộc thửa 594, 595 (thửa 109 bản đồ chính quy) Sơ đồ thửa đất số 4.
2.11. Ông Nguyễn Thành Y được chia phần đất tại vị trí (13b1) diện tích
6.988m
2
, loại đất LUC, thuộc thửa 546 Sơ đồ thửa đất số 2.
Những phần đất được phân chia thể hiện tại Sơ đồ thửa đất số 1 được lập
ngày 07/10/2019 và các Sơ đồ thửa đất số 2, 3, 4, 5, 6 được lập ngày 30/10/2019
của Công ty trách nhiệm hữu hạn Đ4 (kèm theo bản án).
Người đang trực tiếp quản lý, sử dụng đất không được chia có trách nhiệm
giao lại quyền sử dụng đất cho người được chia nêu trên. Những người được
chia quyền sử dụng đất nêu trên được sở hữu tài sản gắn liền với đất; đồng thời
có quyền, nghĩa vụ liên hệ với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để đăng ký cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất theo
quy định của pháp luật.
3. Về hoàn trả giá trị chênh lệch: Ông T, ông T1, bà C, ông L, bà L2 có
trách nhiệm trả giá trị chênh lệch thừa so với kỷ phần thừa kế được nhận, cụ thể
như sau:
- Ông T có trách nhiệm trả cho ông Y số tiền 87.789.761 đồng, trả cho bà
D1 số tiền 52.358.561 đồng, trả cho bà N số tiền 52.889.961 đồng, trả cho ông P
số tiền là 57.050.161 đồng, trả cho bà Á số tiền là 64.503.068 đồng.
- Ông T1 có trách nhiệm trả cho ông N1 số tiền 91.876.138 đồng.
- Bà C có trách nhiệm trả cho ông N1 số tiền 64.986.438 đồng.
- Ông L có trách nhiệm trả cho ông N1 số tiền 9.798.238 đồng.
- Bà L2 có trách nhiệm trả cho ông N1 số tiền là 29.160.945 đồng, trả cho
bà Á số tiền là 5.115.493 đồng.
Bà L2 được sở hữu chuồng heo diện tích 61,7m
2
tại vị trí số (3) Sơ đồ thửa
đất số 2, đồng thời có trách nhiệm trả cho bà N giá trị theo định giá với số tiền là
5.170.460 đồng.
11
Ngoài ra, Bản án sơ thẩm còn quyết định về chi phí tố tụng; về án phí dân
sự sơ thẩm và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
- Ngày 05/8/2024, nguyên đơn bà Nguyễn Thị L2 kháng cáo toàn bộ Bản
án sơ thẩm.
- Ngày 05/8/2024, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị Á
kháng cáo toàn bộ Bản án sơ thẩm.
- Ngày 05/8/2024, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị C
có bà Nguyễn Thị L2 làm đại diện kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.
- Ngày 05/8/2024, bị đơn ông Nguyễn Thanh T kháng cáo Bản án sơ thẩm
với lý do ông T là người trực tiếp quản lý phần đất chưa được cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất nhưng án sơ thẩm chia thừa kế đối với phần đất tại các
thửa 614, 594, 595, 704, 585, 586 làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền lợi
của ông T trong khi ông T đã khai phá, cải tạo phần đất này. Ngoài ra, người đại
diện theo ủy quyền của nguyên đơn và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của bị đơn đều thuộc cùng một Văn phòng Luật sư Nguyễn Thy H4 là không
phù hợp với quy định của pháp luật từ đó gián tiếp ảnh hưởng đến quyền và lợi
ích hợp pháp của ông T.
- Ngày 05/8/2024, ông Phạm Văn T2 là người đại diện theo ủy quyền của
bà Nguyễn Thị N kháng cáo bản án sơ thẩm với lý do các nguyên đơn và những
người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan thừa nhận các thửa 614, 594, 595, 704,
585, 586 chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất làm ảnh hưởng
nghiêm trọng đến quyền lợi của bà N vì bà N đã bỏ công sức khai phá, cải tạo
phần đất này. Ngoài ra, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn và người
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn đều thuộc cùng một văn phòng
Luật sư Nguyễn Thy H4 là không phù hợp với quy định của pháp luật từ đó gián
tiếp ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của bà N.
- Ngày 06/8/2024, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên ông Nguyễn Văn T1
ủy quyền cho bà L2 có đơn kháng cáo toàn bộ Bản án sơ thẩm.
- Ngày 09/8/2024, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị
D1 kháng cáo không đồng ý chia thêm cho ông T một kỷ phần thừa kế. Ngoài
ra, bà D1 không đồng ý nhận giá trị di sản thừa kế mà yêu cầu nhận hiện vật là
đất của cha mẹ để lại. Căn cứ quyết định số 385/QĐ-UB ngày 18/7/2003 của
UBND huyện L thể hiện và ghi rõ bà Nguyễn Thị L3 tự nguyện phân chia cho
bà D1 diện tích 1.296m
2
đất ruộng tại vị trí số 9, 15 theo sơ đồ thửa đất số 2.
Nhưng sau đó bà C chiếm giữ. Tại phiên tòa bà C cho rằng đã chuyển nhượng
của ông T1. Ngoài ra, Bản án sơ thẩm chia cho bà L2 phần đất tại vị trí số 3, 4
làm ảnh hưởng trực tiếp đến việc canh tác đất ruộng của bà. Do đó, bà D1 kháng
cáo yêu cầu chia di sản thừa kế thành 12 phần bằng nhau, bà D1 yêu cầu công
nhận cho bà phần đất tại vị trí số 9, 15 theo sơ đồ thửa đất số 2 để bà D1 hợp
thức hóa quyền sử dụng đất theo Quyết định số 385/QĐ-UB ngày 18/7/2003 của
UBND huyện L; yêu cầu công nhận phần đất tại vị trí số 3, 4 theo sơ đồ thửa đất
số 2 để bà D1 có đường đi và đường nước để canh tác diện tích 1.296m
2
đất
12
ruộng theo Quyết định số 385/QĐ-UB ngày 18/7/2003 của UBND huyện L.
Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay:
- Nguyên đơn bà L2 giữ nguyên kháng cáo không đồng ý nhận phần đất
được chia thừa kế thửa đất 585 tại sơ đồ thửa đất số 5. Bà L2 yêu cầu được nhận
phần đất khác tại sơ đồ số 2 thửa 546; bà L2 yêu cầu chia đôi căn nhà của cha
mẹ để lại cho ông T và bà L2 để mỗi người được nhận ½ căn nhà. Ngoài ra, bà
L2 không đồng ý chia cho ông T thêm một kỷ phần thừa kế thứ 13 do ông T
không có công sức quản lý như Bản án sơ thẩm đã xử. Đối với phần đất thuộc
thửa 510 tại sơ đồ thửa đất số 1 là di sản của cụ T5 và cụ L3 để lại, bà L2 yêu
cầu chia thừa kế theo quy định của pháp luật.
Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bà L2 đề nghị Tòa án cấp
phúc thẩm chấp nhận kháng cáo của bà L2 chia thừa kế quyền sử dụng đất gồm:
các thửa đất 581, 582, 510, 752 diện tích 29.388,7m
2
(sơ đồ số 1); các thửa 544,
545, 546, 704 diện tích 48.587,6m
2
(sơ đồ số 2); thửa 614 diện tích 5.854m
2
(sơ
đồ số 3) các thửa 594, 595 diện tích 10.047,9m
2
(sơ đồ số 4); thửa 585 diện tích
4.591m
2
(sơ đồ số 5) và thửa 586 diện tích 16.509m
2
(sơ đồ số 6).
- Bị đơn ông T giữ nguyên kháng cáo không đồng ý chia thừa kế đối với
các thửa đất chưa có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hiện do ông T đang
quản lý sử dụng. Đối với phần đất đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất cho cụ T5 và cụ L3 thì ông T đồng ý chia thừa kế nhưng ông T xin nhận hiện
vật và xin trả giá trị cho các đồng thừa kế. Ông T không đồng ý theo yêu cầu
kháng cáo của bà L2.
Luật sư bảo vệ quyền lợi hợp pháp của bị đơn ông T có ý kiến: Đề nghị
chấp nhận kháng cáo của ông T về việc chia thừa kế đối với phần đất đã được
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho cụ T5, cụ L3 và ông T xin nhận
toàn bộ diện tích đất và xin trả giá trị cho các đồng thừa kế. Đối với các thửa đất
614, 594, 595, 704, 585, 586 chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
do ông T khai phá sử dụng đến nay nên không phải là di sản của cụ T5 và cụ L3
để lại. Do đó, đề nghị bác yêu cầu của các nguyên đơn và người liên quan yêu
cầu chia thừa kế đối với phần đất chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Văn T1 do bà L2 đại
diện yêu cầu chia cho ông T1 được nhận kỷ phần thừa kế một phần đất tại sơ đồ
số 3. Ông T1 yêu cầu chia thừa kế đối với thửa đất số 510 trên sơ đồ đất số 01.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị D1 giữ nguyên
kháng cáo yêu cầu công nhận cho bà được quyền sử dụng diện tích đất tại vị trí
số 11, 15 theo Quyết định số: 385/QĐ-UBND và phần đất tại vị trí số 3, 4 do bà
L3 đã cho bà D1 khi bà L3 còn sống.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị Ánh G1 nguyên
kháng cáo yêu cầu chia thừa kế đối với thửa đất số 510 trên sơ đồ đất số 01 hiện
do ông T đang quản lý sử dụng, không đồng ý chia thêm cho ông T kỷ phần thứ
13 và bà Á yêu cầu được nhận phần đất tại vị trí 14a sơ đồ 2.
13
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị C do bà L2 đại
diện giữ nguyên kháng cáo không đồng ý chia thừa kế phần đất tại sơ đồ số 6 vì
do bà C khai phá trực tiếp sử dụng từ năm 1986 đến nay và xin nhận đất vị trí 3,
4 tại sơ đồ số 2.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Hồng N1 có ý kiến:
Bản án sơ thẩm phân chia di sản thừa kế là không hợp lý. Ông N1 yêu cầu chia
thừa kế đối với thửa đất số 510 trên sơ đồ đất số 01.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh phát
biểu quan điểm giải quyết vụ án:
Về tố tụng: Những người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng đã
thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự;
Đơn kháng cáo của nguyên đơn bà Nguyễn Thị L2, bị đơn ông Nguyễn Thanh T
và ông Nguyễn Văn T1, bà Nguyễn Thị Á, bà Nguyễn Thị C, bà Nguyễn Thị D1
và bà Nguyễn Thị N (bà N ủy quyền cho ông Phạm Văn T2) hợp lệ, đủ điều kiện
để giải quyết theo thủ tục phúc thẩm.
Về nội dung kháng cáo, xét thấy: Các đương sự tranh chấp di sản thừa kế
của cụ T5 và cụ L3 để lại trong đó các thửa đất 614, 594, 595 do ông Nguyễn
Văn T8 đứng tên trong sổ mục kê; các thửa đất 585, 586 là đất công cộng, thửa
704 không có tên người sử dụng đất. Tuy nhiên, Bản án sơ thẩm chưa làm rõ
ông Nguyễn Văn T8 đứng tên trong sổ mục kê và cụ Nguyễn Văn T5 có phải
cùng một người hay không? Đối với vị trí 1 thửa đất số 510 tại sơ đồ số 1 thể
hiện ông H3 đứng tên trong sổ mục kê và do bà N nhận chuyển nhượng của ông
Đ1, bà N có yêu cầu công nhận quyền sử dụng đất cho bà N. Nguyên đơn bà L2
và những người liên quan đều yêu cầu chia thừa kế đối với thửa đất này. Bản án
sơ thẩm chưa xem xét giải quyết các yêu cầu của đương sự là giải quyết chưa
triệt để vụ án; Đối với sơ đồ thửa đất số 2, bà D1 cho rằng bà được giải quyết
theo Quyết định số: 385/QĐ-UBND ngày 18/7/2003 của Ủy ban nhân dân huyện
L, tỉnh Hậu Giang công nhận cho bà D1 sử dụng diện tích đất tại vị trí số 9 và 15
nhưng bản án sơ thẩm xác định vị trí 11, 15 là không đúng. Do đó, cần xác định
lại vị trí đất của bà D1 được nhận theo Quyết định của Ủy ban trước đây; Đối
với sơ đồ thửa đất số 6, tại vị trí số 1 do bà C khai phá sử dụng từ năm 1980
nhưng Bản án sơ thẩm xác định là di sản thừa kế là không phù hợp.
Do Bản án sơ thẩm thu thập, đánh giá chứng cứ chưa đầy đủ, giải quyết vụ
án chưa toàn diện, triệt để làm ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp của các đương
sự. Do đó, đề nghị áp dụng khoản 3 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015
hủy Bản án sơ thẩm để xét xử lại theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả
tranh tụng tại phiên tòa; Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Đơn kháng cáo của nguyên đơn bà Nguyễn Thị L2, bị đơn ông Nguyễn
Thanh T, và những người liên quan ông Phạm Văn T2 (là người đại diện theo ủy
14
quyền của bà N), bà Nguyễn Thị Á, bà Nguyễn Thị D1, ông Nguyễn Văn T1, bà
Nguyễn Thị C (ông T1 và bà C do bà L2 làm đại diện) làm trong thời hạn luật
định, đủ điều kiện để xem xét giải quyết theo thủ tục phúc thẩm.
Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án được triệu tập
hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt nên tiến hành phiên tòa phúc thẩm vắng
mặt những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trong vụ án theo quy định tại
khoản 3 Điều 296 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
[2] Các đương sự tranh chấp yêu cầu chia di sản thừa kế quyền sử dụng đất
của cụ T5 và cụ L3 để lại gồm các thửa đất:
- Phần đất đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất gồm: Thửa đất
số 581 diện tích 20.873m
2
loại đất LNK, thửa đất số 545 diện tích 11.556m
2
loại
đất 2L, thửa đất số 546 diện tích 15.556m
2
loại đất 2L và thửa đất 582 diện tích
300m
2
loại đất T do Ủy ban nhân dân huyện L cấp Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất số 000286 cho hộ Nguyễn Thị L3 ngày 24/6/1997; thửa đất số 545 diện
tích 10.850m
2
loại đất 2L do Ủy ban nhân dân huyện L cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất số 00360 cho hộ ông Nguyễn Văn T5 ngày 04/7/2001. Phần
đất này đã chuyển nhượng cho Nguyễn Thành Y diện tích 8.437m
2
, còn lại là
2.413m
2
.
- Phần đất chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất gồm: Thửa
đất số 510 diện tích 3.900m
2
loại đất Qk, tờ bản đồ số 5, đứng tên Danh Hên
trên Sổ mục kê; thửa đất số 594 diện tích 5.168m
2
, loại đất Qk; thửa đất số 595
diện tích 5.906m
2
, loại đất Qk; thửa đất số 614, diện tích 3.750m
2
, loại đất ĐM
tờ bản đồ số 5, đứng tên Nguyễn Văn T8 trên Sổ mục kê; Thửa đất số 704, diện
tích 17.899m
2
, loại đất 2L tờ bản đồ số 5, không có tên chủ sử dụng đất trên Sổ
mục kê; Thửa đất số 752, diện tích 1.700m
2
, loại đất Qk, tờ bản đồ số 5, đứng
tên 2 Lượng trên Sổ mục kê; Thửa đất số 585 diện tích 90.507m
2
loại đất Hg/đb
và thửa đất số 586 diện tích 50.083m
2
, loại đất Hg/đb, tờ bản đồ số 5. Các thửa
đất này trước đây do bao diện tích, sau đó tách thửa cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất cho các hộ sử dụng đất.
[3] Xét yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn bà L2, bị đơn ông T và kháng
cáo của những người liên quan ông T1, bà C, bà D1 bà N, bà Á, Hội đồng xét xử
nhận thấy:
[3.1] Thửa đất số 510 do ông Danh H3 đứng tên trong sổ mục kê năm
1996. Theo đo đạc thực tế tại sơ đồ số 2 thửa số 510 nay là thửa số 53 có diện
tích 4.967,8m
2
đất CLN hiện do ông T đang quản lý sử dụng.
Nguyên đơn bà L2 và người liên quan bà Á, bà C, ông N1 đều xác định đây
là di sản của của T5 và cụ L3 để lại và yêu cầu chia thừa kế theo pháp luật đối
với thửa đất số 510. Còn người liên quan bà Nguyễn Thị N khai thửa đất số 510
không phải là di sản của cụ T5 và cụ L3 để lại mà do bà N nhận chuyển nhượng
của ông Đ1 nên bà N có đơn yêu cầu công nhận cho bà được quyền sử dụng
phần đất tại thửa 510. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Danh H3 khai
xác định thửa đất 510 không phải của ông, ông không có liên quan, không có
15
tranh chấp đối với phần đất này. Bản án sơ thẩm nhận định chưa có đủ cơ sở kết
luận thửa đất số 510 là di sản do cụ T5 và cụ L3 để lại và do các đương sự
nhưng không xem xét giải quyết đối với thửa đất 510.
Tuy nhiên, trong hồ sơ vụ án thể hiện bà N có yêu cầu công nhận yêu cầu
công nhận cho bà được quyền sử dụng phần đất tại thửa 510 do bà nhận chuyển
nhượng của ông Đ1. Tòa án cấp sơ thẩm chưa xem xét giải quyết yêu cầu của bà
N là giải quyết chưa hết yêu cầu của các đương sự theo quy định tại Điều 5 của
Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
Trong khi đó, tại phiên tòa phúc thẩm, bà L2, ông T1, bà C do bà L2 làm
đại diện, người liên quan bà Á, bà D1, ông N1 đều có kháng cáo yêu cầu chia
thừa kế đối với diện tích 4.967,8m
2
đất CLN thuộc thửa 510 hiện nay do ông T
đang quản lý sử dụng.
Do đó, cần được xem xét giải quyết yêu cầu của các đương sự đối với phần
đất tại sơ đồ số 2 thửa số 510 nay là thửa số 53 có diện tích 4.967,8m
2
đất CLN
trong cùng vụ án, nhằm làm cho việc giải quyết vụ án được chính xác và triệt để
theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 201 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm
2015.
[3.2] Tại Công văn số: 1680/UBND ngày 08/6/2020 của Ủy ban nhân dân
huyện L xác định: Bà D1 được quyền sử dụng diện tích 1.296m
2
đã được giải
quyết theo Quyết định số: 385/QĐ-UBND ngày 18/7/2003 của Ủy ban nhân dân
huyện L, tỉnh Hậu Giang đã công nhận cho bà D1 sử dụng đất và quyết định đã
có hiệu lực.
Tòa án cấp sơ thẩm xác định diện tích 936m
2
và 373m
2
đất tại vị trí số 11 và
15 (theo Sơ đồ thửa đất số 2 do Công ty TNHH Đ4 bản đồ ACB Hậu Giang số
Đ4 ngày 30/10/2019) được giải quyết theo Quyết định số: 385/QĐ-UBND ngày
18/7/2003 không phải là di sản của cụ T5 và cụ L3 để lại để phân chia di sản
thừa kế. Tuy nhiên trong vụ án, bà Nguyễn Thị D1 có yêu cầu độc lập yêu cầu
công nhận cho bà được quyền sử dụng diện tích đất tại vị trí 9, 15 theo Quyết
định số: 385/QĐ-UBND chứ không phải vụ trí 11, 15 và yêu cầu công nhận cho
bà được quyền sử dụng phần đất tại vị trí số 3, 4 theo Sơ đồ thửa đất số 2 do bà
L3 đã phân chia cho bà D1 khi bà L3 còn sống. Nhưng Tòa án chưa xem xét giải
quyết yêu cầu này của bà D1 là giải quyết chưa triệt để vụ án.
Tại phiên tòa phúc thẩm, bà D1 có kháng cáo yêu cầu công nhận cho bà
được sử dụng phần đất tại vị trí 9, 15 theo Quyết định số: 385/QĐ-UBND phần
đất tại vị trí số 3, 4 theo Sơ đồ thửa đất số 2 do bà L3 đã phân chia cho bà D1
khi bà L3 còn sống. Do đó, cần làm rõ diện tích mà bà D1 được giải quyết giải
quyết theo Quyết định số: 385/QĐ-UBND tại vị trí 11, 15 hay 9, 15 như lời khai
của bà D1 và xem xét yêu cầu của bà D1 cho rằng đã được cụ L3 cho phần
mương tại vị trí số 3,4. Từ đó mới có cơ sở giải quyết yêu cầu của bà D1 trong
cùng vụ án theo đúng quy định tại điểm c khoản 1 Điều 201 của Bộ luật Tố tụng
dân sự năm 2015.
16
[3.3] Nguyên đơn bà L2 kháng cáo cho rằng hiện nay bà không có chỗ ở
nào khác nên yêu cầu được nhận ½ căn nhà là di sản của cụ T5 và cụ L3 để lại
tại thửa số 581 nay là thửa số 63 tại sơ đồ số 01. Bị đơn ông T không đồng ý với
yêu cầu kháng cáo của bà L2 vì căn nhà do ông T mới xây dựng không phải là di
sản của cụ T5 và cụ L2 để lại. Người liên quan ông Nguyễn Văn T1 cũng có
kháng cáo cho rằng phần đất tại sơ đồ số 3 do ông T1 đã được cụ T5 cho khi cụ
T5 còn sống, ông T1 trực tiếp quản lý sử dụng phần đất này, sau đó ông L có
mượn để canh tác. Tòa án cấp sơ thẩm chia cho ông T1 được nhận phần đất tại
sơ đồ số 4 là không phù hợp và không đảm bảo cho ông T1 sử dụng đất để cất
nhà ở vì phần đất tại sơ đồ số 4 không có lối đi ra đường công cộng. Ông T1 yêu
cầu được nhận một phần đất tại sơ đồ số 3 để cất nhà ở. Bà L2, ông N1, bà Á có
ý kiến thống nhất chia cho ông T1 một phần đất tại thửa số 614 sơ đồ đất số 3 để
ông T1 cất nhà ở, thuận tiện trong việc đi ra đường công cộng.
Xét thấy tại phiên tòa phúc thẩm có phát sinh yêu cầu của bà L2 và ông T1
nhận thừa kế là quyền sử dụng đất có đảm bảo cho việc sử dụng đất cất nhà để ở
là yêu cầu cần thiết. Do đó, cần được xem xét phân chia di sản thừa kế là quyền
sử dụng đất có đảm bảo cho các đương sự có nhu cầu cất nhà ở là cần thiết và
đúng quy định của pháp luật. Đồng thời cũng cần xem xét quá trình sử dụng đất
của ông T1, để phân chia thừa kế cho phù hợp.
[3.4] Đối với thửa đất số 585 sơ đồ đất số 5 và thửa đất số 586 sơ đồ đất số
6 do Công ty TNHH Đ4 bản đồ ACB Hậu Giang số Đ4 lập ngày 30/10/2019 đã
xác định: Thửa đất số 585 hiện do ông T đang quản lý sử dụng; Tại vị trí số 2, 3
thửa đất số 586 bà C nhận chuyển nhượng của vợ chồng ông Danh Đ3, bà Thị V
vào năm 2010; tại vị trí số 1 thửa đất số 586 do bà C đang quản lý và vị trí số 4
thửa đất số 586 do ông T đang quản lý.
Bà C kháng cáo cho rằng phần đất tại vị trí 1 không phải là di sản thừa kế
yêu cầu công nhận cho bà C được quyền sử dụng phần đất tại vị trí số 1 do bà C
khai phá từ năm 1986 và sử dụng cho đến nay. Bị đơn ông T cũng kháng cáo
cho rằng ông T đã khai phá thửa đất số 585 một phần thửa đất số 586 và sử dụng
đến nay nên yêu cầu công nhận cho ông được sử dụng diện tích 4.591,0m
2
thuộc
thửa số 585 sơ đồ số 5 và diện tích 8.061,2m
2
tại vị trí số 4 thuộc thửa số 586 sơ
đồ số 6.
Tại phiên tòa phúc thẩm, các đương sự đều thừa nhận vị trí số 2, 3 thửa đất
số 586 do bà C nhận chuyển nhượng của ông Danh Đ3 và phần đất tại vị trí số 1
thửa đất số 586 do bà C khai phá từ năm 1986 nên không yêu cầu chia thừa kế
mà yêu cầu công nhận cho bà D1 được quyền sử dụng. Đối với phần đất tại vị trí
1 thửa đất 586 do bà D1 khai phá sử dụng nên yêu cầu công nhận cho bà D1 sử
dụng không yêu cầu chia thừa kế. Riêng diện tích 4.591,0m
2
thuộc thửa số 585
sơ đồ số 5 và diện tích 8.061,2m
2
tại vị trí số 4 thuộc thửa số 586 sơ đồ số 6 thể
hiện do ông T đang quản lý sử dụng thì yêu cầu chia thừa kế theo pháp luật.
Xét thấy, tại Công văn số 11/UBND ngày 04/3/2022 của Ủy ban nhân dân
xã L, huyện L, tỉnh Hậu Giang xác định phần đất tại thửa 585, 586 của cụ T5 và
cụ L3 được cha mẹ cho và sử dụng trước năm 1975. Tuy nhiên tại Văn bản số:
17
2088/UBND ngày 06/7/2020 của Ủy ban nhân dân huyện L có ý kiến: Trong sổ
mục kê năm 1996 xã L, huyện L, tỉnh Hậu Giang đã ghi nhận các thửa đất số
585, 586 do đo bao diện tích, ghi tên chủ sử dụng đất công cộng.
Như vậy, có căn cứ xác định các thửa đất 585, 586 không phải do cụ T5 và
cụ L3 kê khai đăng ký cấp quyền sử dụng đất và có không đứng tên kê khai
trong sổ mục kê. Trên thực tế thửa đất 585, 586 do ông T và bà C là người khai
phá sử dụng đất cho đến nay. Tòa án sơ thẩm xác định thửa đất 585 và vị trí 1, vị
trí 4 của thửa đất 586 là di sản của cụ T5 và cụ L3 để chia thừa kế theo pháp luật
là chưa đủ căn cứ.
[3.5] Mặt khác, tại trong sổ mục kê năm 1996 xã L, huyện L ghi nhận các
thửa đất số 614, 594, 595 ghi tên chủ sử dụng Nguyễn Văn T8 và thửa 704
không có tên trong sổ mục kê.
Do đó, cần thu thập chứng cứ làm rõ Nguyễn Văn T8 đứng tên trong sổ
mục kê đối với các thửa đất số 614, 594, 595 và cụ Nguyễn Văn T5 có phải là
cùng một người hay không theo ý kiến đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân
dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh mới đủ căn cứ xác định di sản của cụ
T5 và cụ L3 để lại và chia thừa kế theo đúng quy định của pháp luật.
[3.6] Tại biên bản xem xét thẩm định tại chỗ ngày 23/4/2019 và ngày
03/5/2019 đã xác định trên sơ đồ thửa đất số 2 tại vị trí 1, 2a có các tài sản của
bà N gồm căn nhà và chuồng heo, các công trình phụ và cây trồng của bà N; tại
vị trí 2b có căn nhà và cây trồng của bà C; tại vị trí 3 có chuồng heo do bà N xây
dựng và cây trồng nhưng bà N và bà C đang tranh chấp; tại vị trí 4 đang tranh
chấp giữa bà C và ông P vì bà C cho rằng phần mương do bà L3 cho bà C để
dẫn nước vào canh tác ruộng; tại vị trí 5 có căn nhà của ông P đang sử dụng để ở
và các cây trồng và công trình phụ; tại phần 6 là đường nước ông T cho rằng
ông T nhận chuyển nhượng của ông Y, bà L2 cho rằng thuộc di sản thừa kế;
Trên sơ đồ thửa đất số 1 có các tài sản gồm căn nhà, công trình phụ do ông T
xây dựng, các cây trồng gắn trên đất. Ông T và bà D1 có tranh chấp về người
quản lý sử dụng và trồng cây trên đất tại vị trí 2a, 2b. Ngoài ra, còn có căn nhà
của bà D1 xây dựng vào năm 2016; trên sơ đồ thửa đất số 3 thể hiện ông L đang
quản lý sử dụng đất và ông Ngô T9 cây trên đất; trên sơ đồ thửa đất số 4 có các
cây trồng trên đất do ông Thẩm T10; trên sơ đồ thửa đất số 5 có các cây trồng và
đất lá; trên sơ đồ thửa đất số 6 thể hiện tại vị trí 1, 2, 3 đất trồng lúa và tại vị trí
số 4 đất trồng lá.
Do đó, khi phân chia di sản thừa kế là quyền sử dụng đất, cũng cần xem xét
công nhận quyền sở hữu về tài sản, công trình kiến trúc trên đất mới đảm bảo
việc thi hành án cho các bên đương sự.
Xét thấy Toà án cấp sơ thẩm thu thập, đánh giá chứng cứ chưa đầy đủ, giải
quyết vụ án chưa toàn diện và triệt để vụ án. Do đó, hủy Bản án sơ thẩm và
chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án sơ thẩm giải quyết lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm
theo đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí
Minh là có căn cứ.
18
[4] Về án phí và chi phí tố tụng: Do hủy bản án sơ thẩm, chuyển hồ sơ cho
Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án, nên các đương sự kháng cáo không phải
chịu án phí dân sự phúc thẩm; nghĩa vụ chịu án phí được xác định lại khi giải
quyết vụ án theo thủ tục sơ thẩm theo quy định tại khoản 3 Điều 29 Nghị quyết
số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội
quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí
Tòa án. Về chi phí tố tụng sẽ được xác định khi giải quyết lại vụ án theo thủ tục
sơ thẩm.
Vì những lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 3 Điều 308, Điều 310 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
khoản 3 Điều 29 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy
ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và
sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Hủy Bản án dân sự sơ thẩm số: 15/2024/DS-ST ngày 25 tháng 7 năm
2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Hậu Giang. Chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân
dân tỉnh Hậu Giang giải quyết lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm.
2. Các đương sự không phải chịu án phí phúc thẩm. Hoàn trả cho ông
Nguyễn Văn T11, bà Nguyễn Thị N, bà Nguyễn Thị D1 mỗi người 300.000
đồng (ba trăm ngàn đồng) đã nộp tạm ứng án phí phúc thẩm theo biên lai thu số
theo biên lai thu số 0000356, 0000357, 0000358 ngày 06/8/2024 và ngày
09/8/2024 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Hậu Giang.
3. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(Đã ký)
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 27/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 12/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 11/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 10/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 10/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 07/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 04/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 04/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 03/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 03/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 28/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 28/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 28/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 27/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 27/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 26/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 25/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Bản án số 77/2025/DS-PT ngày 25/02/2025 của TAND tỉnh Cà Mau về tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất
Ban hành: 25/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 24/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm