Bản án số 184/2025/DS-PT ngày 17/03/2025 của TAND cấp cao tại TP.HCM về tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 184/2025/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 184/2025/DS-PT ngày 17/03/2025 của TAND cấp cao tại TP.HCM về tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND cấp cao tại TP.HCM
Số hiệu: 184/2025/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 17/03/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Hủy Bản án dân sự sơ thẩm. Chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh H giải quyết lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm.
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Bản án số: 184/2025/DS-PT
Ngày 17 tháng 3 năm 2025
V/v Tranh chấp thừa kế quyền
sử dụng đất”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập Tự do – Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa: Bà Trần Thị Thúy Hồng.
Các Thẩm phán: Ông Ngô Đức Thọ.
Bà Nguyễn Thị Ngọc Hoa.
- Thư phiên tòa: Ông Nguyễn Trung Kiên - Thư Tòa án nhân dân
cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh
tham gia phiên tòa: Bà Trần Thị Huệ - Kiểm sát viên.
Trong các ngày 10 ngày 17 tháng 3 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân
dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân
sự phúc thẩm thụ số: 952/2024/TLPT-DS ngày 02 tháng 12 năm 2024 sự về
việc: “Tranh chấp quyền sử dụng đất và tranh chấp di sản thừa kế” giữa:
Do Bản án dân sự thẩm số: 15/2024/DS-ST ngày 25/7/2024 của Tòa án
nhân dân tỉnh Hậu Giang bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 341/2025/QĐ-PT ngày
21 tháng 2 năm 2025 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn:
1.1 Nguyễn Thị Lệ . Địa chỉ: Ấp A, L, huyện L, tỉnh Hậu Giang,
mặt.
1.2 Ông Nguyễn Hồng L. Hộ khẩu thường trú: Ấp E, L, huyện L, tỉnh
Hậu Giang. Tạm trú: Ấp C, xã V, huyện H, tỉnh Bạc Liêu, vắng mặt.
Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của nguyên đơn : Luật
Nguyễn Phúc D, Văn phòng L5 chi nhánh tỉnh K, thuộc Đoàn Luật sư tỉnh H, có
mặt.
2. Bị đơn: Ông Nguyễn Thanh T. Địa chỉ: Ấp A, L, huyện L, tỉnh Hậu
Giang, có mặt.
- Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của bị đơn : Luật sư Trần Văn
Đ, Văn phòng L6, thuộc Đoàn Luật sư tỉnh H, có mặt.
2
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
3.1 Ông Nguyễn Văn T1. Địa chỉ: Ấp K, M, huyện H, tỉnh Kiên Giang,
vắng mặt.
Người đại diện theo ủy quyền của ông T1: Nguyễn Thị Lệ . Địa chỉ: Ấp
A, xã L, huyện L, tỉnh Hậu Giang, có mặt.
3.2 Nguyễn Thị Ánh .1 Địa chỉ: p E, L, huyện L, tỉnh Hậu Giang,
có mặt.
3.3 Nguyễn Thị C. Địa chỉ: Ấp A, L, huyện L, tỉnh Hậu Giang, vắng
mặt.
- Người đại diện theo ủy quyền của C: Nguyễn Thị Lệ . Địa chỉ: p
A, xã L, huyện L, tỉnh Hậu Giang, có mặt.
3.4 Nguyễn Thị D1. Địa chỉ: Ấp A, xã L, huyện L, tỉnh Hậu Giang,
mặt.
3.5 Nguyễn Thị N. Địa chỉ: Ấp A, L, huyện L, tỉnh Hậu Giang, vắng
mặt.
Người đại diện theo ủy quyền của bà N: Ông Phạm Văn T2. Địa chỉ: Ấp A,
xã L, huyện L, tỉnh Hậu Giang, xin xét xử vắng mặt.
3.6 Ông Nguyễn Vĩnh P (Nguyễn Văn P1). Địa chỉ: Ấp A, L, huyện L,
tỉnh Hậu Giang, vắng mặt.
3.7 Ông Nguyễn Hồng N1. Địa chỉ: p A, L, huyện L, tỉnh Hậu Giang,
có mặt.
3.8 Ông Nguyễn Thành Y. Địa chỉ: Số G khu V T, phường T, quận T,
thành phố Cần Thơ, vắng mặt.
3.9 Bà Nguyễn Thị Diệu H. Địa chỉ: #708 D-dong, T-si, G-do, Hàn Quốc.
3.10 Ông Phạm Văn T2. Địa chỉ: Ấp A, xã L, huyện L, tỉnh Hậu Giang, xin
xét xử vắng mặt.
3.11 Nguyễn Thị H1. Địa chỉ: Ấp A, L, huyện L, tỉnh Hậu Giang,
vắng mặt.
3.12 Ông Nguyễn Văn N2. Địa chỉ: Ấp E, L, huyện L, tỉnh Hậu Giang,
vắng mặt.
3.13 Ông Trần Văn T3. Địa chỉ: Ấp H, xã T, huyện H, tỉnh Kiên Giang,
vắng mặt.
3.14 Anh Trần Thanh X, có mặt.
3.15 Anh Trần Thanh S, có mặt.
3.16 Chị Ngô Thụy Kim O, vắng mặt.
Cùng địa chỉ: Ấp A, xã L, huyện L, tỉnh Hậu Giang.
3
3.17 Chị Hồ Thị Mỹ L1. Nơi đăng ký thường trú: Ấp A, xã L, huyện L, tỉnh
Hậu Giang. Địa chỉ hiện nay: (B-dong) 66-10, T4-ro 18-gil, S1-gu, D2, K, vắng
mặt.
Người đại diện theo ủy quyền của chị L1: Nguyễn Thị Lệ . Địa chỉ: Ấp
A, xã L, huyện L, tỉnh Hậu Giang, có mặt.
3.18 Ông Nguyễn Hồng Đ1 (Nguyễn Thanh Đ2), vắng mặt.
3.19 Bà Phan Thị P2 (vợ ông Đ2), vắng mặt.
Cùng địa chỉ: Ấp A, xã L, huyện L, tỉnh Hậu Giang.
4. Người kháng cáo:
- Nguyên đơn bà Nguyễn Thị L2;
- Bị đơn ông Nguyễn Thanh T;
- Người quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Ông Nguyễn Văn T1, Nguyễn
Thị Á, bà Nguyễn Thị C, bà Nguyễn Thị D1 và bà Nguyễn Thị N.
NHẬN THẤY:
- Theo đơn khởi kiện ngày 16/9/2015, các đơn yêu cầu và các lời khai có
trong hồ sơ vụ án, nguyên đơn bà Nguyễn Thị L2 trình bày:
Phần đất tranh chấp nguồn gốc của cha mcụ Nguyễn Văn T5 (chết
năm 2000) và cụ Nguyễn Thị L3 (chết năm 2004) để lại. Cụ T5 và cụ L3 có tổng
cộng 12 người con gồm: Nguyễn Thị L2, Nguyễn Thị Á, Nguyễn Thị C, Nguyễn
Hồng N1, Nguyễn Hồng L, Nguyễn Văn T1, Nguyễn Thành Y, Nguyễn Vĩnh P,
Nguyễn Thanh T, Nguyễn ThN, Nguyễn Thị D1 Nguyễn Thị Diệu H. Khi
còn sống cụ T5 và cụ L3 tạo lập được khối tài sản khoảng hơn 100 công đất
bao gồm đất thổ cư, đất vườn và đất ruộng, trong đó phần đất diện tích
47.579m
2
đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, cụ thể:
- Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 000286 do Ủy ban nhân dân
(UBND) huyện L cấp cho hộ Nguyễn Thị L3 ngày 246//1997, thửa đất số 581
diện tích 20.873m
2
, loại đất LNK, thửa đất số 545 diện tích 11.556m
2
loại đất
2L, thửa đất số 546 diện tích 15.556m
2
loại đất 2L và thửa đất 582 diện tích
300m
2
loại đất T.
- Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 00360 do Ủy ban nhân dân huyện
L cấp cho hông Nguyễn Văn T5 ngày 04/7/2001, thửa đất số 545 diện tích
10.850m
2
loại đất 2L. Phần đất này đã chuyển nhượng cho Nguyễn Thành Y
diện tích 8.437m
2
, còn lại là 2.413m
2
.
- Những phần đất còn lại gồm các thửa đất số 614 diện tích 3.750m
2
, thửa
594 diện tích 5.168m
2
, thửa 595 diện tích 5.906m
2
, thửa đất số 704 diện tích
17.899m
2
và thửa 585, 586 chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Do cụ T5 cụ L3 chết không để lại di chúc. Nên L2 yêu cầu chia thừa
kế theo pháp luật những phần đất do cha mẹ tạo lập diện tích hơn 100 công,
4
bao gồm những phần đất đã giấy chứng nhận chưa được cấp giấy chứng
nhận theo đo đạc thực tế khoảng 66.435,6m
2
, không tính phần đất C tự khai
phá, ổn định phần đất ông T1 được cha mẹ cho.
Đối với căn nhà, vật kiến trúc cây trồng gắn liền với đất thì không
yêu cầu chia thừa kế, đề nghị giải quyết nếu chia cho các đồng thừa kế đất thì
người đó sẽ được sở hữu tài sản gắn liền với đất luôn. Đối với chuồng heo phía
sau nhà ông T thì do ông T cùng y dựng, nên nếu chia cho phần đất
tại vị trí này thì bà sẽ giao ½ giá trị cho ông T, còn nếu ông T nhận phần đất này
thì trả ½ giá trị cho bà.
- Theo đơn khởi kiện ngày 16/9/2015, các đơn yêu cầu và các lời khai có
trong hồ sơ vụ án, nguyên đơn ông Nguyễn Hồng L trình bày:
Ông L thống nhất yêu cầu của bà L2, yêu cầu chia tất cả quyền sử dụng đất
do cha, mẹ đứng tên theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do cha là cụ T5
mẹ cụ L3 đứng tên những phần đất chưa được cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất. Còn nhà, vật kiến trúc cây trồng gắn liền với đất thì ông không
yêu cầu chia thừa kế, đề nghị giải quyết nếu chia cho các đồng thừa kế đất thì
người được chia sẽ được sở hữu tài sản gắn liền với đất luôn.
Ông L sử dụng phần đất diện tích theo đo đạc là 6.638m
2
, cụ thể là tại vị
trí đất số 14a 14b đồ thửa đất số 2 ngày 30/10/2019. Phần đất này ông sử
dụng từ năm 2014 đến nay. Ngoài ra, ông đang sử dụng phần đất diện tích
5.854m
2
đthửa đất số 3, ngày 30/10/2019 do ông T1 cho ông L mượn s
dụng. Phần đất này theo ông được biết cha mcho ông T1 vào năm 1978,
không làm giấy tờ, khi cho thì đất này đất trồng dừa nước, ông T1 về cải
tạo làm rẩy, sau này làm ruộng. Ông T1 canh c đến khoảng năm 2000 thì cho
bà C mượn canh tác, đến năm 2014 ông T1 lấy lại giao cho ông canh tác cho đến
nay. Phần đất này chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
- Tại đơn phản tố ngày 09/6/2017 và quá trình giải quyết vụ án, bị đơn ông
Nguyễn Thanh T đại diện theo y quyền của ông T ông Nguyễn Ngọc T6
trình bày:
Thống nhất trình bày của L2 về mối quan hệ nhân thân của gia đình,
thời điểm cha mẹ cụ T5 cụ L3 chết không để lại di chúc. Ông T không
đồng ý chia thừa kế đối với phần đất do cha mđể lại 83.845m
2
và yêu cầu
giữ lại phần đất cha mđã cho ông quản canh tác từ trước đến nay là
24.929m
2
.
Ngày 30/7/2020 05/4/2021, ông T yêu cầu chia thừa kế theo quy định
những phần đất cha mông được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng, ông xin
nhận hiện vật trả gtrị đất cho các hàng thừa kế khác, đối với phần đất các
anh em đã cất nhà thì ông đồng ý ổn định phần đất có nhà cho các anh em. Còn
đối với các phần đất chưa được cấp giấy chứng nhận do ông khai phá, nhưng
các anh em tự ý bao chiếm, ông yêu cầu công nhận cho ông T được sử dụng.
Phần chuồng heo sau nhà là do ông xây dựng, ông không đồng ý chia cho bà L2.
- Tại đơn yêu cầu độc quá trình giải quyết vụ án, người quyền lợi,
5
nghĩa vụ liên quan Nguyễn Văn T1, ông Nguyễn Hồng N1, Nguyễn Thị Á,
Nguyễn Thị C đại diện theo y quyền của ông T1, C Nguyễn Thị L2
trình bày: Thống nhất trình bày của L2 về mối quan hệ nhân thân của gia
đình, thời điểm cha mẹ là cụ T5 và cụ L3 chết không để lại di chúc. Ông T1, ông
N1, Á, C đơn yêu cầu độc lập yêu cầu chia thừa kế theo pháp luật cho
các anh em được hưởng phần đất bằng nhau theo diện tích đo đạc thực tế (không
yêu cầu chia nhà và tài sản trên đất).
Riêng C yêu cầu ổn định các phần đất: 05 công tầm 3 mét khai phá,
sử dụng từ năm 1987, phần đất nhận chuyển nhượng của ông T1 02 công ¼ đất
ruộng phần đất nhận chuyển nhượng của ông Đ3, V vào năm 2010 diện
tích 2,5 công tầm 3m khoảng 01 công theo chiều dọc, không chia thừa kế.
Yêu cầu ổn định 01 nền nhà thổ cư diện tích ngang 50m dài 50m và năm 2010.
Ông T1 yêu cầu chia thừa kế phần tài sản do cha mđể lại nhưng trừ
phần diện tích ông được bà L3 cho 14.824m
2
bao gồm các thửa 594, 595, 614 và
phần đất đã chuyển nhượng cho C diện tích 02 công ¼ đất ruộng 01 nền
nhà thổ cư diện tích ngang 50m dài 50m tại thửa 704.
- Tại đơn yêu cầu độc ngày 10/6/2017 quá trình giải quyết vụ án, người
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Nguyễn Thị D1 trình bày: Thống nhất trình bày
của L2 vmối quan hệ nhân thân của gia đình, thời điểm cha mẹ cụ T5
cụ L3 chết không để lại di chúc. Bà D1 yêu cầu chia thừa kế đối với di sản của
cụ T5 cụ L3 phần đất diện tích khoảng 100.000m
2
gồm cả phần đất đã
được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng phần chưa được cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất. Bà yêu cầu chia căn nhà của cha mẹ theo pháp luật. Về
phần đất yêu cầu công nhận riêng cho phần diện tích 4.814m
2
diện tích
1.296m
2
phần bờ C đang sử dụng. Phần n lại thì chia thừa kế theo pháp
luật, ưu tiên được nhận phần đang sử dụng nhận thêm phần tiếp giáp cho
đủ một suất thừa kế, về cây trồng trên phần đất ai được chia thì người đó hưởng.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Nguyễn Thị N trình bày: Thống
nhất trình bày của L2 về mối quan hệ nhân thân của gia đình, thời điểm cha
mẹ cụ T5 cụ L3 chết không để lại di chúc. N yêu cầu công nhận quyền
sử dụng đất mà bà hiện đang quản sử dụng tại vị trí nhà đang
chuồng heo giáp ranh với phần đất ông Nguyễn Vĩnh P đang sdựng cùng với
phần đất ruộng khoảng 04 công tầm 3m cặp ranh Thị X1 và ông Danh H2
phần đất này được cha mẹ cho từ năm 1972 đến nay, bà không yêu cầu chia
thêm di sản thừa kế. Với phần đất tại vị trí số (1) đồ thửa đất số 1, N cho
rằng của mua của ông Nguyễn Hồng Đ1 (Nguyễn Thanh Đ2), nhưng ông
Nguyễn Hồng N3 làm giấy tờ giả ông Đ2 chuyển nhượng cho ông N3 để chiếm
phần đất của bà. N không đồng ý chia thừa kế phần đất này yêu cầu công
nhận cho bà N đối với diện tích đất mua của ông Nguyễn Hồng Đ1.
Đối với phần đất vị trí (1) đồ thửa đất số 6 nền Chùa của gia đình
khai phá, sử dụng từ năm 1980, đến năm 1990 thì mới cho lại bà C sử dụng.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Nguyễn Vĩnh P trình bày: Thống
nhất trình bày của L2 về mối quan hệ nhân thân của gia đình, thời điểm cha
6
mẹ là cụ T5 cụ L3 chết không để lại di chúc. Ông P yêu cầu công nhận quyền
sử dụng đất hiện nay ông đang quản bao gồm phần đất tại nhà ông P phần
đất ruộng phía sau nhà, phần đất này do cha mẹ cho ông c còn sống. Ông
cũng yêu cầu Tòa án phân chia di sản thừa kế theo quy định của pháp luật. Ông
P yêu cầu giải quyết vắng mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Nguyễn Thành Y trình bày: Ông Y
đồng ý nhận một suất thừa kế theo quy định. Phần đường nước tại vị trí 6 theo
đồ thửa đất số 2 giáp phần đất ông N1 đang sử dụng do ông nhận chuyển
nhượng của cha cT5, sau đó ông chuyển nhượng lại cho ông N1 một phần,
phần còn lại tại vị trí số 6 ông chừa lại nên vẫn của ông nên yêu cầu không
xác định phần đất này là di sản để chia.
- Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Nguyễn Thị H trình bày: H
đã biết Tòa án đang thụ giải quyết ván yêu cầu chia di sản thừa kế của cha
mẹ là cụ T5 và cụ L3 chết để lại không di chúc. H đã nhận được các văn bản
tố tụng của Tòa án, nhưng do đang nước ngoài nên không thể tham gia tố
tụng. Bà H yêu cầu Tòa án giải quyết giao toàn bộ phần di sản bà H được hưởng
cho ông Nguyễn Thanh T được sử dụng, H yêu cầu Tòa án giải quyết vắng
mặt bà.
Quá trình giải quyết vụ án, bà Hồ Thị Mỹ L1 đại diện theo ủy quyền của
Hồ Thị Mỹ L1 Nguyễn Thị L2 trình bày: Phần đất căn nhà tình
thương của bà L1 trước đây cụ T5 cho ông T1. Năm 1986, ông T1 bán lại cho bà
C. Năm 2005, bà C mẹ của Mỹ L1 cho Mỹ L1 cất căn nhà tình thương do địa
phương hỗ trợ. Căn nhà hiện tại kết cấu cây, vách tường phía trước phía
sau, hai bên không vách tường, mái lợp tole, hiện C đang quản căn nhà
này. L2 yêu cầu giữ nguyên căn nhà, nếu Tòa án chia thừa kế đối với phần
đất có căn nhà thì đồng ý tháo dỡ, di dời nhà.
Tại Biên bản lấy lời khai ngày 21/5/2021, ông Nguyễn Văn N2 khai: Phần
đất tại vtrí (1) đồ thửa đất số 1, ông nhận chuyển nhượng của ông Nguyễn
Thanh Đ2 vào năm 1986 với giá 5,5 chỉ vàng 24K, có làm giấy tay do chính ông
Đ2 viết. Ông N2 canh tác khoảng 3 năm thì bán lại cho cha vợ cụ T5 với giá
5,5 chỉ vàng 24K. Ông Đ2 trước đây họ tên Nguyễn Thanh Đ2, sau này cải
chính lại thành Nguyễn Hồng Đ1. Giấy mua bán đất giữa ông Đ1 N do
ông Đ1 thông đồng với N làm sau khi L2 khởi kiện yêu cầu chia thừa kế
hiện ông T đang sử dụng phần đất này. Ông N2 xác định đất này đã chuyển
nhượng cho cụ T5 nên yêu cầu chia thừa kế, ông là rể nên không yêu cầu gì,
yêu cầu giải quyết vắng mặt.
Tại Biên bản lấy lời khai ngày 05/01/2024, ông Nguyễn Hồng Đ1 khai:
Vào năm 1987, tôi bán cho Nguyễn Thị N phần đất diện tích 04 công
tấm 3m, có lập hợp đồng mua bán ngày 22/4/1987. Tờ sang nhượng có nội dung
ông S cho ông N2 phần đất 03 công hai c 3 với số vàng 05 chỉ rưỡi không
phải chữ của tôi từ trước đến nay tôi không sang nhượng cho ông
Nguyễn Văn N2 phần đất nào cả. Do bận làm ăn xa nên tôi yêu cầu Tòa án xét
xử vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án.
7
Tại Biên bản lấy lời khai ngày 28/4/2021, bà Phan Thị P2 (vợ ông Nguyễn
Hồng Đ1) khai: Vào khoảng năm 1990 1991 ông Đ1 P2 chuyển
nhượng cho N phần đất tại vị trí (1) đồ thửa đất số 1. Vợ chồng không
chuyển nhượng đất cho ông Nguyễn Văn N2, giấy chuyển nhượng đất ông
N2 cung cấp cho rằng nhận chuyển nhượng của ông Đ1 là do ông N2 tự viết. Bà
không có yêu cầu gì trong vụ án này.
Quá trình giải quyết vụ án, những người làm chứng trình bày:
Tại Biên bản lấy lời khai ngày 01/4/2021, ông Nguyễn Thanh T7 khai:
Theo đthửa đất số 02 ngày 07/10/2019 của Công ty TNHH Đ4 bản đồ Đ4
thể hiện các phần đất tại vị trí 13a5, 13a4, 13b2, 14b do ông T7 đứng tên trong
sổ mục (thửa 541 và 542 tờ bản đồ số 05) nhưng các phần đất này của gia
đình L3 ông T5, không phải của ông ranh giới giữa hai n đã ràng,
không rõ lý do vì sao phần đất này ông đứng tên trong Sổ mục kê. Ông không có
tranh chấp gì, yêu cầu giải quyết vắng mặt ông trong suốt quá trình giải quyết vụ
án, cam đoan không khiếu nại gì về sau.
- Tại Biên bản lấy lời khai ngày 03/12/2020, ông Danh H3 khai ông không
liên quan đến thửa đất 510 do ông đứng tên trong sổ mục kê, thể do
quan chuyên môn ghi nhầm tên ông, ông không tranh chấp đối với phần đất
tại thửa 510, không tham gia tố tụng và đề nghị Tòa án giải quyết vắng mặt.
- Tại Biên bản lấy lời khai ngày 03/12/2020, ông Danh L4 (2 Lượng) khai
ông không liên quan đến thửa đất 752, ông không tranh chấp hay yêu
cầu đối với thửa đất này, thể quan chuyên môn ghi nhầm thửa đất tên
ông. Ông không tham gia tố tụng, đề nghị Tòa án giải quyết, xét xử vắng mặt.
- Tại Biên bản lấy lời khai ngày 01/8/2017 và ngày 03/12/2020, ông Danh
Đ3 và bà Thị V khai có chuyển nhượng cho bà Nguyễn Thị C phần đất diện tích
2,5 công tấm 3m và khoảng 01 tầm theo chiều dọc, với giá 35.000.000 đồng,
phần đất giáp với ông Nguyễn Văn T5 ông V1. Đất chưa được cấp giấy
chứng nhận. ông Danh Đ3 không ý kiến hay yêu cầu gì, các bên đã
hoàn tất quyền và nghĩa vụ. Bà và ông Danh Đ3 đề nghị không tham gia tố tụng,
đề nghị giải quyết, xét xử vắng mặt.
Tại Công văn số 2088/UBND ngày 06/7/2020 của Ủy ban nhân dân huyện
L, tỉnh Hậu Giang trả lời căn cứ hồ sơ địa chính hiện đang quản lý tại Chi nhánh
Văn phòng đăng ký đất đai huyện L:
- Thửa 510 diện tích 3.900m
2
loại đất Qk, tờ bản đsố 5, đứng tên Danh
Hên trên Sổ mục kê.
- Thửa 544 diện tích 300m
2
, loại đất T; thửa 594 diện tích 5.168m
2
, loại đất
Qk; thửa 595 diện tích 5.906m
2
, loại đất Qk; thửa 614, diện tích 3.750m
2
, loại
đất ĐM tờ bản đồ số 5, đứng tên Nguyễn Văn T8 trên Sổ mục kê.
- Thửa đất số 704, diện tích 17.899m
2
, loại đất 2L tờ bản đồ số 5, không
tên chủ sử dụng đất trên Sổ mục kê.
- Thửa đất số 752, diện tích 1.700m
2
, loại đất Qk, tbản đồ số 5, đứng tên
8
2 Lượng trên Sổ mục kê.
- Thửa 585 diện tích 90.507m
2
loại đất Hg/đb 586 diện tích 50.083m
2
,
loại đất Hg/đb, tờ bản đsố 5. Các thửa đất này trước đây do bao diện tích, sau
đó tách thửa cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các hộ sử dụng đất.
Những phần đất trên chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Các thửa đất này nằm trong quy hoạch xây dựng Khu nông nghiệp ứng dụng
công nghệ cao tỉnh Hậu Giang (theo mô hình nông thôn mới của Chính phủ). Đề
được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với các thửa đất này người sử
dụng đất phải đảm bảo theo quy định tại Điều 100, 101 102 của Luật Đất đai
năm 2013 và các văn bản liên quan.
Tại Công văn số 11/UBND ngày 04/3/2022 của Ủy ban nhân n L,
huyện L, tỉnh Hậu Giang xác định:
- Thửa đất số 510 loại đất QK do ông Danh H3 đứng tên trong Sổ mục
ruộng đất nhưng thực tế trước đây là Nguyễn Thị S2 khai phá sử dụng
trước năm 1975, đến năm 1987 chuyển nhượng lại cho Nguyễn Thị N. Tại
thời điểm chuyển nhượng bà S2 sức khỏe không tốt nên đ cho con trai
Nguyễn Hồng Đ1 tên sang bán đất bằng giấy tay với Nguyễn Thị N. Từ
khi nhận chuyển nhượng N canh tác khoảng 3 đến 4 năm do hoàn cảnh gia
đình khó khăn nên N bỏ địa phương đi Ba Thê làm ăn đlại phần đất của cụ
Nguyễn Văn T5 cụ Nguyễn Thị L3 sdụng canh tác. Tại thời điểm N
để lại đất cho cụ T5 cụ L3 canh tác qua xác minh các hộ dân không biết
chuyển nhượng lại hay chỉ để lại cho cha mẹ bà N sử dụng.
- Các thửa đất số 544, 594, 595, 614, 752, 585, 586, 704 do cụ Nguyễn Văn
T5 và cụ Nguyễn Thị L3 được cha mẹ cho và sử dụng trước năm 1975, không
vi phạm quy định của pháp luật đất đai.
- Một phần thửa 585, thửa 586 Nguyễn Thị C nhận chuyển nhượng của
ông Danh Đ3Thị V vào năm 2014.
Đối với các phần đất đã được đăng trong sổ mục kê, thời điểm đăng
lần đầu năm 1996. Sổ mục kê lập ngày 09/11/1996.
Các phần đất nêu trên của các đương sự đang sử dụng phù hợp với quy
hoạch sử dụng đất. Về quy hoạch xây dựng điểm dân nông thôn chưa được
quan thẩm quyền quy hoạch phê duyệt. Để được cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất đối với các thửa đất nêu trên thì người sử dụng đất phải đảm
bảo theo quy định tại các Điều 100, 101 102 của Luật Đất đai năm 2013
các văn bản có liên quan.
- Tại Bản án dân sự thẩm số: 15/2024/DS-ST ngày 25/7/2024 của Tòa
án nhân dân tỉnh Hậu Giang đã quyết định:
Áp dụng khoản 5 Điều 26, điểm c khoản 1 Điều 37, Điều 91, Điều 147,
Điều 153, Điều 157, Điều 158, Điều 165, Điều 228, Điều 244, Điều 273, điểm a
khoản 2 Điều 464, điểm đ khoản 1 Điều 469, điểm a khoản 1 Điều 470 của Bộ
luật Tố tụng dân sự năm 2015; Các Điều 100, 101, 167, 168, 188, 203 của Luật
9
Đất đai năm 2013; Các Điều 612, 613, 623, 649, 651, 658, 660 Điều 357 của
Bộ luật Dân sự m 2015; Nghị quyết s 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm,
thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Tuyên xử:
Đình chỉ yêu cầu độc lập của ông Nguyễn Hồng N1 vviệc yêu cầu chia
thừa kế theo pháp luật di sản của cụ Nguyễn Văn T5 và cụ Nguyễn Thị L3;
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Nguyễn Thị L2, ông Nguyễn Hồng L
yêu cầu độc lập của ông Nguyễn Văn T1, Nguyễn Thị Á, Nguyễn Thị
C, Nguyễn Thị D1 về việc yêu cầu chia thừa kế theo pháp luật di sản của cụ
Nguyễn Văn T5 cụ Nguyễn ThL3 để lại; Không chấp nhận yêu cầu chia tài
sản chuồng heo của Nguyễn Thị L2; Không chấp yêu cầu phản tố của bị
đơn Nguyễn Thanh T về việc yêu cầu công nhận quyền sử dụng đất đối với
những phần đất chưa được cấp giấy chứng nhận;
1. Xác định di sản của cụ T5 cụ L3 để lại quyền sử dụng đất thể hiện
tại đồ thửa đất số 1 (trừ thửa 510 tại vị trí 1), đồ thửa đất số 2 (trừ phần
đất tại vị trí số A, 15 đất thuộc nh T), đồ thửa đất số 3, đồ thửa đất
số 4, Sơ đồ thửa đất số 5, Sơ đồ thửa đất số 6 (trừ phần đất tại vị trí số 2 và 3);
2. Chia thừa kế theo pháp luật cho các đương sự như sau:
2.1. Ông Nguyễn Thanh T được chia phần đất tại vị trí (3a) diện tích 300m
2
loại đất nông thôn thuộc thửa 582 (thửa 59 bản đồ chính quy), vị t(3) diện
tích 3.621,5m
2
loại đất trồng cây lâu năm thuộc thửa 581 (thửa 58 bản đồ chính
quy), vtrí (4) diện tích 13.299,8m
2
loại đất trồng cây lâu năm thuộc thửa 581
(thửa 63 bản đồ chính quy), vtrí (4a) diện tích 1.214m
2
, loại đất trồng cây lâu
năm thuộc thửa 752 (thửa 63 bản đồ chính quy) Sơ đthửa đất số 1 phần đất
vị trí (6), (13a1), (13a3) (13a5) diện tích 441m
2
+ 4.398,6m
2
+ 1.805m
2
+ 481m
2
= 7.125,6m
2
loại đất LUC thuộc thửa 545, 704 Sơ đồ thửa đất số 2.
2.2. Nguyễn Thị D1 được chia phần đất tại vị trí (2), (2a), (2b) diện
tích 840m
2
+ 380m
2
+ 248,6m
2
= 1.468,6m
2
, loại đất trồng cây lâu năm thuộc
thửa 581 (thửa 58 bản đchính quy) đồ thửa đất số 1 5.854m
2
thửa 614
(thửa 117 bản đồ chính quy) loại đất BHK thuộc Sơ đồ thửa đất số 3.
2.3. Nguyễn Thị L2 được chia phần đất tại vị t(3), (4), (13a2), (13a4)
diện tích là 250m
2
+ 55,1m
2
+ 3.076m
2
+ 1.429m
2
= 4.810,1m
2
, loại đất LUC
thuộc thửa 546, 704 đồ thửa đất số 2 4.591m
2
loại đất Hg/đb thuộc thửa
585 (thửa 64 bản đồ chính quy) Sơ đồ thửa đất số 5.
2.4. Ông Nguyễn Hồng N1 được chia phần đất tại vị trí (5), (5a), (4b)
diện tích 3.244m
2
+ 794m
2
+ 479m
2
= 4.517m
2
, loại đất trồng cây lâu năm
thuộc thửa 581, 752 (thửa 63 bản đồ chính quy) thuộc Sơ đồ thửa đất số 1.
2.5. Nguyễn Thị N được chia phần đất tại vị trí (1), (7), (2a1), (2a2)
diện tích 1.632,2m
2
+ 5.398,9m
2
+ 267,5m
2
+ 252,3m
2
= 7.550,9m
2
, loại đất
LUC thuộc thửa 704 Sơ đồ thửa đất số 2.
10
2.6. Ông Nguyễn Vĩnh P được chia phần đất tại vt(5a) diện tích 300m
2
thuộc thửa 544 loại đất vị trí (5b), (12) diện tích 767,6m
2
+ 4.616,2m
2
=
5.383,8m
2
loại đất LUC thuộc thửa 545 Sơ đồ thửa đất số 2.
2.7. Nguyễn Thị C được chia phần đất tại vị trí (2b), (8), (9), (10)
diện tích 416,5m
2
+ 135m
2
+ 1.201,2m
2
+ 3.067,6m
2
= 4.820,3m
2
, loại đất
LUC thuộc thửa 704 Sơ đồ thửa đất số 2 và vị trí (1) diện tích 5.128,1m
2
loại đất
Hg/đb thuộc thửa 586 (thửa 45 bản đồ chính quy) Sơ đồ thửa đất số 6.
2.8. Ông Nguyễn Hồng L được chia phần đất tại vị trí (14), (13b2) diện
tích 6.638m
2
+ 1.924m
2
= 8.562m
2
, loại đất LUC thuộc thửa 546 Sơ đồ thửa
đất số 2.
2.9. Nguyễn Thị Á được chia phần đất tại vị trí (4) diện tích 8.061,2m
2
,
loại đất Hg/đb thuộc thửa 586 (thửa 54 bản đồ chính quy) Sơ đồ thửa đất số 6.
2.10. Ông Nguyễn Văn T1 được chia phần đất diện tích 10.047,9m
2
, loại
đất Hg/đb thuộc thửa 594, 595 (thửa 109 bản đồ chính quy) Sơ đồ thửa đất số 4.
2.11. Ông Nguyễn Thành Y được chia phần đất tại vị trí (13b1) diện tích
6.988m
2
, loại đất LUC, thuộc thửa 546 Sơ đồ thửa đất số 2.
Những phần đất được phân chia thể hiện tại đồ thửa đất số 1 được lập
ngày 07/10/2019 và các Sơ đồ thửa đất số 2, 3, 4, 5, 6 được lập ngày 30/10/2019
của Công ty trách nhiệm hữu hạn Đ4 (kèm theo bản án).
Người đang trực tiếp quản lý, sử dụng đất không được chia trách nhiệm
giao lại quyền sử dụng đất cho người được chia nêu trên. Những người được
chia quyền sử dụng đất nêu trên được sở hữu tài sản gắn liền với đất; đồng thời
quyền, nghĩa vụ liên hệ với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để đăng ký cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, nhà tài sản khác gắn liền với đất theo
quy định của pháp luật.
3. Về hoàn trả giá trị chênh lệch: Ông T, ông T1, C, ông L, L2
trách nhiệm trả giá trị chênh lệch thừa so với kỷ phần thừa kế được nhận, cụ thể
như sau:
- Ông T trách nhiệm trả cho ông Y số tiền 87.789.761 đồng, trả cho
D1 số tiền 52.358.561 đồng, trả cho N số tiền 52.889.961 đồng, trả cho ông P
số tiền là 57.050.161 đồng, trả cho bà Á số tiền là 64.503.068 đồng.
- Ông T1 có trách nhiệm trả cho ông N1 số tiền 91.876.138 đồng.
- Bà C có trách nhiệm trả cho ông N1 số tiền 64.986.438 đồng.
- Ông L có trách nhiệm trả cho ông N1 số tiền 9.798.238 đồng.
- L2 trách nhiệm trả cho ông N1 số tiền 29.160.945 đồng, trả cho
bà Á số tiền là 5.115.493 đồng.
L2 được sở hữu chuồng heo diện ch 61,7m
2
tại vị trí số (3) Sơ đồ thửa
đất số 2, đồng thời có trách nhiệm trả cho bà N giá trị theo định giá với số tiền là
5.170.460 đồng.
11
Ngoài ra, Bản án thẩm còn quyết định về chi phí tố tụng; về án phí dân
sự sơ thẩm và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
- Ngày 05/8/2024, nguyên đơn Nguyễn Thị L2 kháng o toàn bộ Bản
án sơ thẩm.
- Ngày 05/8/2024, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị Á
kháng cáo toàn bộ Bản án sơ thẩm.
- Ngày 05/8/2024, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị C
có bà Nguyễn Thị L2 làm đại diện kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.
- Ngày 05/8/2024, bị đơn ông Nguyễn Thanh T kháng cáo Bản án thẩm
với do ông T người trực tiếp quản lý phần đất chưa được cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất nhưng án thẩm chia thừa kế đối với phần đất tại các
thửa 614, 594, 595, 704, 585, 586 làm nh hưởng nghiêm trọng đến quyền lợi
của ông T trong khi ông T đã khai phá, cải tạo phần đất này. Ngoài ra, người đại
diện theo ủy quyền của nguyên đơn và người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp
của bị đơn đều thuộc cùng một Văn phòng Luật sư Nguyễn Thy H4 không
phù hợp với quy định của pháp luật từ đó gián tiếp ảnh hưởng đến quyền lợi
ích hợp pháp của ông T.
- Ngày 05/8/2024, ông Phạm Văn T2 người đại diện theo ủy quyền của
Nguyễn Thị N kháng cáo bản án thẩm với do các nguyên đơn và những
người quyền lợi nghĩa vụ liên quan thừa nhận các thửa 614, 594, 595, 704,
585, 586 chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sdụng đất làm ảnh hưởng
nghiêm trọng đến quyền lợi của N N đã bỏ công sức khai phá, cải tạo
phần đất này. Ngoài ra, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn người
bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của bị đơn đều thuộc cùng một văn phòng
Luật sư Nguyễn Thy H4 là không phù hợp với quy định của pháp luật từ đó gián
tiếp ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của N.
- Ngày 06/8/2024, người quyền lợi, nghĩa vụ liên ông Nguyễn Văn T1
ủy quyền cho bà L2 có đơn kháng cáo toàn bộ Bản án sơ thẩm.
- Ngày 09/8/2024, người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Nguyễn Thị
D1 kháng cáo không đồng ý chia thêm cho ông T một kỷ phần thừa kế. Ngoài
ra, D1 không đồng ý nhận giá trị di sản thừa kế yêu cầu nhận hiện vật
đất của cha mđể lại. Căn cứ quyết định số 385/QĐ-UB ny 18/7/2003 của
UBND huyện L thể hiện ghi Nguyễn Thị L3 tự nguyện phân chia cho
D1 diện tích 1.296m
2
đất ruộng tại vị trí số 9, 15 theo đồ thửa đất số 2.
Nhưng sau đó C chiếm giữ. Tại phiên tòa bà C cho rằng đã chuyển nhượng
của ông T1. Ngoài ra, Bản án thẩm chia cho L2 phần đất tại vtrí số 3, 4
làm ảnh hưởng trực tiếp đến việc canh tác đất ruộng của bà. Do đó, bà D1 kháng
cáo yêu cầu chia di sản thừa kế thành 12 phần bằng nhau, bà D1 yêu cầu công
nhận cho phần đất tại vị trí số 9, 15 theo đồ thửa đất số 2 để D1 hợp
thức hóa quyền sử dụng đất theo Quyết định số 385/QĐ-UB ngày 18/7/2003 của
UBND huyện L; yêu cầu công nhận phần đất tại vị trí số 3, 4 theo sơ đồ thửa đất
số 2 để D1 đường đi đường nước để canh tác diện tích 1.296m
2
đất
12
ruộng theo Quyết định số 385/QĐ-UB ngày 18/7/2003 của UBND huyện L.
Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay:
- Nguyên đơn bà L2 giữ nguyên kháng cáo không đồng ý nhận phần đất
được chia thừa kế thửa đất 585 tại sơ đồ thửa đất số 5. Bà L2 yêu cầu được nhận
phần đất khác tại đồ số 2 thửa 546; L2 yêu cầu chia đôi căn nhà của cha
mẹ để lại cho ông T L2 đmỗi người được nhận ½ căn nhà. Ngoài ra,
L2 không đồng ý chia cho ông T thêm một kỷ phần thừa kế thứ 13 do ông T
không công sức quản như Bản án sơ thẩm đã xử. Đối với phần đất thuộc
thửa 510 tại đồ thửa đất số 1 di sản của cụ T5 cụ L3 để lại, L2 yêu
cầu chia thừa kế theo quy định của pháp luật.
Luật bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của bà L2 đề nghị Tòa án cấp
phúc thẩm chấp nhận kháng cáo của bà L2 chia thừa kế quyền sử dụng đất gồm:
các thửa đất 581, 582, 510, 752 diện tích 29.388,7m
2
(sơ đồ số 1); các thửa 544,
545, 546, 704 diện tích 48.587,6m
2
(sơ đồ số 2); thửa 614 diện tích 5.854m
2
(sơ
đồ số 3) các thửa 594, 595 diện tích 10.047,9m
2
(sơ đồ s4); thửa 585 diện tích
4.591m
2
(sơ đồ số 5) và thửa 586 diện tích 16.509m
2
(sơ đồ số 6).
- Bị đơn ông T giữ nguyên kháng cáo không đồng ý chia thừa kế đối với
các thửa đất chưa giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hiện do ông T đang
quản sử dụng. Đối với phần đất đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất cho cụ T5 cụ L3 thì ông T đồng ý chia thừa kế nhưng ông T xin nhận hiện
vật xin trả giá trị cho các đồng thừa kế. Ông T không đồng ý theo yêu cầu
kháng cáo của bà L2.
Luật bảo vệ quyền lợi hợp pháp của bị đơn ông T ý kiến: Đề nghị
chấp nhận kháng cáo của ông T về việc chia thừa kế đối với phần đất đã được
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho cụ T5, cụ L3 ông T xin nhận
toàn bộ diện tích đất và xin trả giá trị cho các đồng thừa kế. Đối với các thửa đất
614, 594, 595, 704, 585, 586 chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
do ông T khai phá sử dụng đến nay nên không phải là di sản của cụ T5 cụ L3
để lại. Do đó, đề nghị bác yêu cầu của các nguyên đơn người liên quan yêu
cầu chia thừa kế đối với phần đất chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Văn T1 do L2 đại
diện yêu cầu chia cho ông T1 được nhận kỷ phần thừa kế một phần đất tại sơ đồ
số 3. Ông T1 yêu cầu chia thừa kế đối với thửa đất số 510 trên sơ đồ đất số 01.
- Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Nguyễn Thị D1 giữ nguyên
kháng cáo yêu cầu công nhận cho được quyền sử dụng diện ch đất tại vị trí
số 11, 15 theo Quyết định số: 385/QĐ-UBND phần đất tại vị trí số 3, 4 do
L3 đã cho bà D1 khi bà L3 còn sống.
- Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Nguyễn Thị Ánh G1 nguyên
kháng cáo yêu cầu chia thừa kế đối với thửa đất số 510 trên sơ đồ đất số 01 hiện
do ông T đang quản sử dụng, không đồng ý chia thêm cho ông T kỷ phần thứ
13 và bà Á yêu cầu được nhận phần đất tại vị trí 14a sơ đồ 2.
13
- Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Nguyễn Thị C do L2 đại
diện giữ nguyên kháng cáo không đồng ý chia thừa kế phần đất tại đồ số 6 vì
do bà C khai phá trực tiếp sử dụng từ năm 1986 đến nay và xin nhận đất vị trí 3,
4 tại sơ đồ số 2.
- Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Hồng N1 ý kiến:
Bản án thẩm phân chia di sản thừa kế không hợp lý. Ông N1 yêu cầu chia
thừa kế đối với thửa đất số 510 trên sơ đồ đất số 01.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phHCMinh phát
biểu quan điểm giải quyết vụ án:
Về tố tụng: Những người tiến hành tố tụng người tham gia tố tụng đã
thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự;
Đơn kháng cáo của nguyên đơn bà Nguyễn Thị L2, bị đơn ông Nguyễn Thanh T
và ông Nguyễn Văn T1, Nguyễn Thị Á, bà Nguyễn Thị C, Nguyễn Thị D1
và bà Nguyễn Thị N (bà N ủy quyền cho ông Phạm Văn T2) hợp lệ, đủ điều kiện
để giải quyết theo thủ tục phúc thẩm.
Về nội dung kháng cáo, xét thấy: Các đương sự tranh chấp di sản thừa kế
của cT5 cụ L3 để lại trong đó các thửa đất 614, 594, 595 do ông Nguyễn
Văn T8 đứng tên trong sổ mục kê; các thửa đất 585, 586 đất ng cộng, thửa
704 không tên người sdụng đất. Tuy nhiên, Bản án thẩm chưa làm
ông Nguyễn Văn T8 đứng tên trong sổ mục cụ Nguyễn Văn T5 phải
cùng một người hay không? Đối với vtrí 1 thửa đất số 510 tại đồ số 1 thể
hiện ông H3 đứng tên trong sổ mục kê và do N nhận chuyển nhượng của ông
Đ1, N có yêu cầu công nhận quyền sử dụng đất cho bà N. Nguyên đơn bà L2
và những người liên quan đều yêu cầu chia thừa kế đối với thửa đất này. Bản án
thẩm chưa xem xét giải quyết các yêu cầu của đương sự giải quyết chưa
triệt để vụ án; Đối với đồ thửa đất số 2, D1 cho rằng được giải quyết
theo Quyết định số: 385/QĐ-UBND ngày 18/7/2003 của Ủy ban nhân dân huyện
L, tỉnh Hậu Giang công nhận cho bà D1 sử dụng diện tích đất tại vị trí số 9 và 15
nhưng bản án thẩm xác định vị trí 11, 15 không đúng. Do đó, cần xác định
lại vị trí đất của D1 được nhận theo Quyết định của Ủy ban trước đây; Đối
với đồ thửa đất s6, tại vị trí số 1 do C khai phá sử dụng từ năm 1980
nhưng Bản án sơ thẩm xác định là di sản thừa kế là không phù hợp.
Do Bản án thẩm thu thập, đánh giá chứng cứ chưa đầy đủ, giải quyết vụ
án chưa toàn diện, triệt để làm ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp của các đương
sự. Do đó, đề nghị áp dụng khoản 3 Điều 308 Bluật Tố tụng dân sự m 2015
hủy Bản án sơ thẩm để xét xử lại theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả
tranh tụng tại phiên tòa; Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Đơn kháng cáo của nguyên đơn Nguyễn Thị L2, bị đơn ông Nguyễn
Thanh T, và những người liên quan ông Phạm Văn T2 (là người đại diện theo ủy
14
quyền của bà N), Nguyễn Thị Á, bà Nguyễn Thị D1, ông Nguyễn Văn T1, bà
Nguyễn Thị C (ông T1 C do L2 làm đại diện) làm trong thời hạn luật
định, đủ điều kiện để xem xét giải quyết theo thủ tục phúc thẩm.
Những người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án được triệu tập
hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt nên tiến hành phiên tòa phúc thẩm vắng
mặt những người quyền lợi nghĩa vụ liên quan trong vụ án theo quy định tại
khoản 3 Điều 296 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
[2] Các đương sự tranh chấp yêu cầu chia di sản thừa kế quyền sử dụng đất
của cụ T5 và cụ L3 để lại gồm các thửa đất:
- Phần đất đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất gồm: Thửa đất
số 581 diện tích 20.873m
2
loại đất LNK, thửa đất số 545 diện tích 11.556m
2
loại
đất 2L, thửa đất số 546 diện tích 15.556m
2
loại đất 2L thửa đất 582 diện tích
300m
2
loại đất T do Ủy ban nhân dân huyện L cấp Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất số 000286 cho hộ Nguyễn Thị L3 ngày 24/6/1997; thửa đất số 545 diện
tích 10.850m
2
loại đất 2L do Ủy ban nhân dân huyện L cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất số 00360 cho hộ ông Nguyễn Văn T5 ngày 04/7/2001. Phần
đất này đã chuyển nhượng cho Nguyễn Thành Y diện tích 8.437m
2
, còn lại
2.413m
2
.
- Phần đất chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất gồm: Thửa
đất số 510 diện tích 3.900m
2
loại đất Qk, tờ bản đồ số 5, đứng tên Danh Hên
trên Smục ; thửa đất số 594 diện tích 5.168m
2
, loại đất Qk; thửa đất số 595
diện tích 5.906m
2
, loại đất Qk; thửa đất số 614, diện tích 3.750m
2
, loại đất ĐM
tờ bản đồ số 5, đứng tên Nguyễn Văn T8 trên Sổ mục kê; Thửa đất số 704, diện
tích 17.899m
2
, loại đất 2L tờ bản đồ số 5, không tên chủ sử dụng đất trên Sổ
mục kê; Thửa đất số 752, diện tích 1.700m
2
, loại đất Qk, tờ bản đồ số 5, đứng
tên 2 Lượng trên Sổ mục kê; Thửa đất số 585 diện tích 90.507m
2
loại đất Hg/đb
thửa đất s586 diện tích 50.083m
2
, loại đất Hg/đb, tờ bản đồ số 5. Các thửa
đất này trước đây do bao diện tích, sau đó tách thửa cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất cho các hộ sử dụng đất.
[3] Xét yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn L2, bị đơn ông T và kháng
cáo của những người liên quan ông T1, bà C, D1 bà N, bà Á, Hội đồng xét xử
nhận thấy:
[3.1] Thửa đất số 510 do ông Danh H3 đứng tên trong sổ mục năm
1996. Theo đo đạc thực tế tại đồ số 2 thửa số 510 nay thửa số 53 diện
tích 4.967,8m
2
đất CLN hiện do ông T đang quản lý sử dụng.
Nguyên đơn bà L2 và người liên quan bà Á, bà C, ông N1 đều xác định đây
di sản của của T5 cụ L3 để lại yêu cầu chia thừa kế theo pháp luật đối
với thửa đất số 510. Còn người liên quan Nguyễn Thị N khai thửa đất số 510
không phải di sản của cụ T5 và cụ L3 để lại mà do bà N nhận chuyển nhượng
của ông Đ1 nên N đơn yêu cầu công nhận cho được quyền sử dụng
phần đất tại thửa 510. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Danh H3 khai
xác định thửa đất 510 không phải của ông, ông không liên quan, không
15
tranh chấp đối với phần đất này. Bản án sơ thẩm nhận định chưađủ cơ sở kết
luận thửa đất số 510 di sản do cụ T5 cụ L3 để lại do các đương sự
nhưng không xem xét giải quyết đối với thửa đất 510.
Tuy nhiên, trong hồ ván thể hiện N yêu cầu công nhận yêu cầu
công nhận cho được quyền sử dụng phần đất tại thửa 510 do nhận chuyển
nhượng của ông Đ1. Tòa án cấp sơ thẩm chưa xem xét giải quyết yêu cầu của bà
N giải quyết chưa hết yêu cầu của các đương sự theo quy định tại Điều 5 của
Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
Trong khi đó, tại phiên tòa phúc thẩm, L2, ông T1, C do L2 làm
đại diện, người liên quan Á, D1, ông N1 đều kháng cáo yêu cầu chia
thừa kế đối với diện tích 4.967,8m
2
đất CLN thuộc thửa 510 hiện nay do ông T
đang quản lý sử dụng.
Do đó, cần được xem xét giải quyết yêu cầu của các đương sự đối với phần
đất tại đồ s2 thửa số 510 nay thửa số 53 diện ch 4.967,8m
2
đất CLN
trong cùng vụ án, nhằm làm cho việc giải quyết vụ án được chính xác và triệt đ
theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 201 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm
2015.
[3.2] Tại Công văn số: 1680/UBND ngày 08/6/2020 của Ủy ban nhân dân
huyện L xác định: D1 được quyền sử dụng diện tích 1.296m
2
đã được giải
quyết theo Quyết định số: 385/QĐ-UBND ngày 18/7/2003 của Ủy ban nhân dân
huyện L, tỉnh Hậu Giang đã công nhận cho D1 sử dụng đất quyết định đã
có hiệu lực.
Tòa án cấp sơ thẩm xác định diện tích 936m
2
và 373m
2
đất tại vị trí số 11 và
15 (theo đồ thửa đất số 2 do Công ty TNHH Đ4 bản đồ ACB Hậu Giang s
Đ4 ngày 30/10/2019) được giải quyết theo Quyết định số: 385/QĐ-UBND ngày
18/7/2003 không phải di sản của cụ T5 cụ L3 để lại để phân chia di sản
thừa kế. Tuy nhiên trong vụ án, Nguyễn Thị D1 yêu cầu độc lập yêu cầu
công nhận cho được quyền sdụng diện tích đất tại vị t9, 15 theo Quyết
định số: 385/QĐ-UBND chứ không phải vụ trí 11, 15 yêu cầu công nhận cho
được quyền sử dụng phần đất tại vị trí số 3, 4 theo đồ thửa đất số 2 do bà
L3 đã phân chia cho bà D1 khi bà L3 còn sống. Nhưng Tòa án chưa xem xét giải
quyết yêu cầu này của bà D1 là giải quyết chưa triệt để vụ án.
Tại phiên tòa phúc thẩm, D1 kháng cáo yêu cầu công nhận cho
được sdụng phần đất tại vị trí 9, 15 theo Quyết định số: 385/QĐ-UBND phần
đất tại vị trí số 3, 4 theo đồ thửa đất số 2 do L3 đã phân chia cho D1
khi L3 còn sống. Do đó, cần làm diện tích mà bà D1 được giải quyết giải
quyết theo Quyết định số: 385/QĐ-UBND tại vị trí 11, 15 hay 9, 15 như lời khai
của D1 xem xét yêu cầu của D1 cho rằng đã được cụ L3 cho phần
mương tại vị trí số 3,4. Từ đó mới sgiải quyết yêu cầu của D1 trong
cùng vụ án theo đúng quy định tại điểm c khoản 1 Điều 201 của Bộ luật Tố tụng
dân sự năm 2015.
16
[3.3] Nguyên đơn L2 kháng cáo cho rằng hiện nay bà không chỗ
nào khác nên yêu cầu được nhận ½ căn nhà di sản của cụ T5 cụ L3 đlại
tại thửa số 581 nay là thửa số 63 tại sơ đồ số 01. Bị đơn ông T không đồng ý với
yêu cầu kháng cáo của bà L2 vì căn nhà do ông T mới xây dựng không phải là di
sản của cụ T5 cụ L2 để lại. Người liên quan ông Nguyễn Văn T1 cũng
kháng cáo cho rằng phần đất tại đồ số 3 do ông T1 đã được cụ T5 cho khi cụ
T5 còn sống, ông T1 trực tiếp quản sử dụng phần đất này, sau đó ông L
mượn đcanh tác. Tòa án cấp thẩm chia cho ông T1 được nhận phần đất tại
đồ số 4 không phù hợp không đảm bảo cho ông T1 sử dụng đất đcất
nhà ở vì phần đất tại sơ đồ số 4 không có lối đi ra đường công cộng. Ông T1u
cầu được nhận một phần đất tại sơ đồ số 3 để cất nhà ở. L2, ông N1, Á có
ý kiến thống nhất chia cho ông T1 một phần đất tại thửa số 614 sơ đồ đất số 3 để
ông T1 cất nhà ở, thuận tiện trong việc đi ra đường công cộng.
Xét thấy tại phiên tòa phúc thẩm có phát sinh yêu cầu của bà L2 ông T1
nhận thừa kế là quyền sử dụng đất có đảm bảo cho việc sử dụng đất cất nhà để ở
yêu cầu cần thiết. Do đó, cần được xem xét phân chia di sản thừa kế là quyền
sử dụng đất đảm bảo cho các đương sự nhu cầu cất nhà cần thiết
đúng quy định của pháp luật. Đồng thời cũng cần xem xét quá trình sử dụng đất
của ông T1, để phân chia thừa kế cho phù hợp.
[3.4] Đối với thửa đất số 585 sơ đồ đất số 5 và thửa đất số 586 sơ đồ đất số
6 do ng ty TNHH Đ4 bản đồ ACB Hậu Giang số Đ4 lập ngày 30/10/2019 đã
xác định: Thửa đất số 585 hiện do ông T đang quản lý sử dụng; Tại vị trí số 2, 3
thửa đất số 586 bà C nhận chuyển nhượng của vợ chồng ông Danh Đ3, bà Thị V
vào năm 2010; tại vị trí s1 thửa đất số 586 do bà C đang quản và vị tsố 4
thửa đất số 586 do ông T đang quản lý.
C kháng cáo cho rằng phần đất tại vị trí 1 không phải di sản thừa kế
yêu cầu công nhận cho bà C được quyền sử dụng phần đất tại vị trí số 1 do C
khai phá từ năm 1986 sử dụng cho đến nay. Bị đơn ông T cũng kháng cáo
cho rằng ông T đã khai phá thửa đất số 585 một phần thửa đất số 586 và sử dụng
đến nay nên yêu cầu công nhận cho ông được sử dụng diện tích 4.591,0m
2
thuộc
thửa số 585 sơ đồ số 5 và diện tích 8.061,2m
2
tại vị trí số 4 thuộc thửa số 586 sơ
đồ số 6.
Tại phiên tòa phúc thẩm, các đương sự đều thừa nhận vị trí số 2, 3 thửa đất
số 586 do bà C nhận chuyển nhượng của ông Danh Đ3 và phần đất tại vị trí số 1
thửa đất số 586 do C khai phá từ năm 1986 nên không yêu cầu chia thừa kế
mà yêu cầu công nhận cho bà D1 được quyền sử dụng. Đối với phần đất tại vị trí
1 thửa đất 586 do D1 khai psử dụng nên yêu cầu công nhận cho bà D1 s
dụng không yêu cầu chia thừa kế. Riêng diện ch 4.591,0m
2
thuộc thửa số 585
đồ số 5 diện tích 8.061,2m
2
tại vị trí số 4 thuộc thửa số 586 đồ số 6 thể
hiện do ông T đang quản lý sử dụng thì yêu cầu chia thừa kế theo pháp luật.
Xét thấy, tại Công văn s11/UBND ngày 04/3/2022 của Ủy ban nhân dân
L, huyện L, tỉnh Hậu Giang xác định phần đất tại thửa 585, 586 của cụ T5
cụ L3 được cha mẹ cho sử dụng trước năm 1975. Tuy nhiên tại Văn bản số:
17
2088/UBND ngày 06/7/2020 của Ủy ban nhân n huyện L ý kiến: Trong sổ
mục năm 1996 L, huyện L, tỉnh Hậu Giang đã ghi nhận các thửa đất số
585, 586 do đo bao diện tích, ghi tên chủ sử dụng đất công cộng.
Như vậy, có căn cứ xác định các thửa đất 585, 586 không phải do cụ T5 và
cụ L3 khai đăng cấp quyền sử dụng đất không đứng tên khai
trong sổ mục kê. Trên thực tế thửa đất 585, 586 do ông T C người khai
phá sử dụng đất cho đến nay. Tòa án sơ thẩm xác định thửa đất 585 và vị trí 1, v
trí 4 của thửa đất 586 là di sản của cụ T5 và cụ L3 để chia thừa kế theo pháp luật
là chưa đủ căn cứ.
[3.5] Mặt khác, tại trong sổ mục năm 1996 L, huyện L ghi nhận các
thửa đất số 614, 594, 595 ghi tên chủ sdụng Nguyễn Văn T8 thửa 704
không có tên trong sổ mục kê.
Do đó, cần thu thập chứng cứ làm Nguyễn Văn T8 đứng tên trong sổ
mục đối với c thửa đất số 614, 594, 595 cụ Nguyễn Văn T5 phải
cùng một người hay không theo ý kiến đnghị của đại diện Viện kiểm sát nhân
dân cấp cao tại Thành phố Hồ CMinh mới đủ căn cứ xác định di sản của c
T5 và cụ L3 để lại và chia thừa kế theo đúng quy định của pháp luật.
[3.6] Tại biên bản xem xét thẩm định tại chỗ ngày 23/4/2019 ngày
03/5/2019 đã xác định trên đồ thửa đất số 2 tại vị trí 1, 2a các tài sản của
N gồm căn nchuồng heo, các công trình phụ cây trồng của N; tại
vị trí 2b có căn nhà và cây trồng của bà C; tại vị trí 3 có chuồng heo do bà N xây
dựng cây trồng nhưng bà N C đang tranh chấp; tại vị trí 4 đang tranh
chấp giữa C và ông P C cho rằng phần mương do L3 cho C để
dẫn nước vào canh tác ruộng; tại vị trí 5 có căn nhà của ông P đang sử dụng để ở
các cây trồng công trình phụ; tại phần 6 đường nước ông T cho rằng
ông T nhận chuyển nhượng của ông Y, L2 cho rằng thuộc di sản thừa kế;
Trên sơ đồ thửa đất số 1 các i sản gồm căn nhà, công trình phụ do ông T
xây dựng, các cây trồng gắn trên đất. Ông T D1 tranh chấp về người
quản sử dụng và trồng cây trên đất tại vị trí 2a, 2b. Ngoài ra, n có căn nhà
của bà D1 xây dựng vào năm 2016; trên sơ đồ thửa đất số 3 thể hiện ông L đang
quản sử dụng đất ông Ngô T9 cây trên đất; trên đồ thửa đất số 4 các
cây trồng trên đất do ông Thẩm T10; trên sơ đồ thửa đất số 5 có các cây trồng và
đất lá; trên đthửa đất s6 thể hiện tại vị trí 1, 2, 3 đất trồng lúa tại vtrí
số 4 đất trồng lá.
Do đó, khi phân chia di sản thừa kế là quyền sử dụng đất, cũng cần xem xét
công nhận quyền sở hữu vi sản, công trình kiến trúc trên đất mới đảm bảo
việc thi hành án cho các bên đương sự.
Xét thấy Toà án cấp thẩm thu thập, đánh giá chứng cứ chưa đầy đủ, giải
quyết vụ án chưa toàn diện triệt để vụ án. Do đó, hủy Bản án thẩm
chuyển hồ sơ v án cho Tòa án thẩm gii quyết li v án theo th tục sơ thẩm
theo đề ngh ca Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí
Minh là có căn cứ.
18
[4] Về án pchi phí tố tụng: Do hủy bản án thẩm, chuyển hồ cho
Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án, nên các đương sự kháng cáo không phải
chịu án phí dân sự phúc thẩm; nghĩa vụ chịu án phí được xác định lại khi giải
quyết vụ án theo thủ tục thẩm theo quy định tại khoản 3 Điều 29 Nghị quyết
số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường v Quốc hội
quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí lệ phí
Tòa án. Về chi phí tố tụng sẽ được xác định khi giải quyết lại vụ án theo thủ tục
sơ thẩm.
Vì những lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 3 Điều 308, Điều 310 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
khoản 3 Điều 29 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy
ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý
sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Hủy Bản án dân sự thẩm số: 15/2024/DS-ST ngày 25 tháng 7 năm
2024 ca Tòa án nhân dân tnh Hu Giang. Chuyn h sơ vụ án cho Tòa án nhân
dân tnh Hu Giang gii quyết li v án theo th tục sơ thẩm.
2. Các đương sự không phải chịu án phí phúc thẩm. Hoàn trả cho ông
Nguyễn Văn T11, Nguyễn Thị N, Nguyễn Thị D1 mỗi người 300.000
đồng (ba trăm ngàn đồng) đã nộp tạm ứng án phí phúc thẩm theo biên lai thu số
theo biên lai thu s 0000356, 0000357, 0000358 ngày 06/8/2024 ngày
09/8/2024 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Hậu Giang.
3. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(Đã ký)
Tải về
Bản án số 184/2025/DS-PT Bản án số 184/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 184/2025/DS-PT Bản án số 184/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất