Bản án số 18/2024/KDTM-ST ngày 04/09/2024 của TAND TP. Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh về tranh chấp về đại diện, đại lý
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 18/2024/KDTM-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 18/2024/KDTM-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 18/2024/KDTM-ST
Tên Bản án: | Bản án số 18/2024/KDTM-ST ngày 04/09/2024 của TAND TP. Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh về tranh chấp về đại diện, đại lý |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp về đại diện, đại lý |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND TP. Bắc Ninh (TAND tỉnh Bắc Ninh) |
Số hiệu: | 18/2024/KDTM-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 04/09/2024 |
Lĩnh vực: | Kinh doanh thương mại |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ BẮC NINH
TỈNH BẮC NINH
Bản án số: 18/2024/KDTM-ST
Ngày: 04/9/2024
“V/v Tranh chấp hợp đồng đại lý”
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập-Tự do- Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BẮC NINH, TỈNH BẮC NINH
Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: Bà Đỗ Thanh Ngọc.
Các hội thẩm dân nhân: Ông Đỗ Văn Sơn và ông Bùi Quang Hợi.
Thư ký phiên toà: Bà Nông Kim Huệ - Thư ký tòa án nhân dân thành phố
Bắc Ninh.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bắc Ninh tham gia phiên toà:
Bà Nguyễn Thị Thúy – Kiểm sát viên.
Ngày 04/9/2024, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc
Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 26/2023/TLST - KDTM ngày 01
tháng 12 năm 2023 về việc “Tranh chấp hợp đồng đại lý” theo Quyết định đưa vụ
án ra xét xử số: 11/2023/QĐXXST-KDTM ngày 28/4/2023 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Công ty TNHH Thương mại dịch vụ chuyển phát nhanh TNT;
Địa chỉ: QL 37, thôn Miếu Lãng, xã Đ, huyện N, tỉnh Hải Dương.
Đại diện theo pháp luật: Ông Lê Văn T – Giám đốc.
Đại diện theo uỷ quyền: Bà Phạm Thị Thu T, sinh năm 1995 và Nguyễn Thị
Ngọc Á, sinh năm 1993; Địa chỉ: Tòa Cục Tần Số, 115 Trần Duy Hưng, phường T,
quận C, thành phố Hà Nội (Theo giấy ủy quyền số 02/TNT-GUQ ngày 25/9/2023,
bà T có mặt, bà Á vắng mặt).
Bị đơn: Công ty TNHH MTV Chuyển phát nhanh T; Địa chỉ: Số 199, đường
Điện Biên Phủ, phường 15, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh.
Đại diện theo pháp luật: Ông Lưu Hy V – Chức vụ: Giám đốc.
Người đại diện theo ủy quyền: Anh Lưu Thành T, sinh năm 1997 – Nhân
viên pháp chế Công ty TNHH MTV Chuyển phát nhanh T, chi nhánh Bắc Ninh
(Theo giấy ủy quyền số 3107/GUQ/TP-TNT ngày 31//7/2024, có mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN:
2
Theo đơn khởi kiện cùng các lời khai tiếp theo tại tòa án và bản tự khai ngày
28/8/2024 đại diện theo uỷ quyền tham gia tố tụng của nguyên đơn do bà Nguyễn
Thị Ngọc Á trình bày:
Ngày 15/08/2021 Công ty TNHH Thương mại dịch vụ chuyển phát nhanh
TNT (gọi tắt Công ty TNT) và Công ty TNHH MTV Chuyển phát nhanh T - Chi
nhánh Bắc Ninh (gọi tắt Công ty T, chi nhánh Bắc Ninh) có ký hợp đồng đại lý
thương mại. Cụ thể: Công ty T, chi nhánh Bắc Ninh giao cho Công ty TNT làm đại
lý nhận các bưu gửi của các khách hàng sử dụng dịch vụ bưu chính/chuyển phát
nhanh thương hiệu J&T Express (tức Công ty TNT có trách nhiệm khai thác khách
hàng, tiếp nhận bưu gửi từ khách hàng, tiến hành đóng gói, lưu giữ, bảo quản và
vận chuyển giao lại cho Công ty T, chi nhánh Bắc Ninh) và đại lý phát hàng (tức
Công ty TNT thực hiện phát bưu gửi theo yêu cầu của Công ty T, chi nhánh Bắc
Ninh) cho Công ty T, chi nhánh Bắc Ninh.Thù lao Công ty TNT được hưởng là
mức chênh lệch giá cước vận chuyển giữa giá cước Công ty T, chi nhánh Bắc Ninh
áp dụng cho Công ty TNT so với giá cước nguyên đơn thỏa thuận với khách hàng
trong hợp đồng dịch vụ chuyển phát nhanh; Thời hạn hợp đồng: 01 năm kể từ ngày
15/8/2021 đến ngày 15/7/2022.
Sau khi ký kết hợp đồng nguyên đơn đã thanh toán cho Công ty T, chi nhánh
Bắc Ninh số tiền, cụ thể:
Nội Dung Số tiền Thuế GTGT Số tiền (đã bao
gồm thuế GTGT)
Phí giá trị thương hiệu 100.000.000 10.000.000 110.000.000
Phí tham gia đại lý 45.454.545 4.545.455 50.000.000
Phí đào tạo 7.272.727 727.273 8.000.000
Phí sử dụng thương hiệu 22.727.273 2.272.727 25.000.000
Phí cọc đảm bảo chất lượng 50.000.000 50.000.000
Phí sử dụng hệ thống 9.090.909 909.091 10.000.000
Vật tư 25.742.866 2.574.287 28.317.153
Cọc COD 120.000.000 120.000.000
Tổng Cộng 380.288.320 21.028.832 401.317.152
Quá trình thực hiện hợp đồng, nguyên đơn cho rằng Công ty T, chi nhánh
Bắc Ninh nhiều lần áp dụng bảng giá mới (từ tháng 01/2022 đến tháng 03/2022)
mà không thông báo bằng văn bản theo Điều 4 Hợp đồng nên ngày 18/4/2022
nguyên đơn đã gửi Công văn số 01/TNT-CV về việc đề nghị chấm dứt hợp đồng
3
đại lý và các phụ lục hợp đồng kể từ ngày 01/5/2022 và yêu cầu Công ty T, chi
nhánh Bắc Ninh hoàn lại tiền nhưng Công ty T, chi nhánh Bắc Ninh không đồng ý.
Vậy, nguyên đơn khởi kiện đề nghị Toà án buộc Công ty T hoàn trả nguyên
đơntổng số tiền là 271.356.920 đồng. Bao gồm:
- Toàn bộ phí hỗ trợ đào tạo là 8.000.000 đồng do trong hợp đồng bên phía
bị đơn phải có nghĩa vụ đào tạo trước khi đi vào vận hành và trong quá trình vận
hành theo Điều 10 Hợp đồng. Theo Điều 5.1.2 phụ lục III hợp đồng thì trong quá
trình hợp tác nếu nguyên đơn có nhu cầu đào tào và phải có đơn thì bên bị đơn sẽ
cung cấp, tuy nhiên lúc này bên nguyên đơn sẽ phải thanh toán học phí, chi phí đi
lại theo khoản 3 Điều 10 của Hợp đồng nên số tiền 8.000.000 đồng này là chi phí
đào tạo mà phía nguyên đơn thanh toán cho việc đào tạo ban đầu theo khoản 1, 2,
4, 5 Điều 10 hợp đồng. Tuy nhiên, thực tế bên bị đơn đã không thực hiện việc
đào tạo này.
- Tại đơn khởi kiện phía nguyên đơn yêu cầu hoàn trả phí sử dụng thương
hiệu nhưng tháng chưa sử dụng là 7.291.667 đồng. Tại bản tự khai nguyên đơn
yêu cầu hoàn trả toàn bộ phí sử dụng thương hiệu là 25.000.000 đồng và giá trị
thương hiệu là 110.000.000 đồng. Do theo thỏa thuận hợp đồng thì nguyên đơn
và bị đơn không thỏa thuận về việc không sử dụng thương hiệu thì sẽ được thanh
toán lại nhưng hợp đồng hai bên ký là hợp đồng đại lý, chứ không phải là hợp
đồng nhượng quyền thương mại nên phía bị đơn không được phép thu phí trên và
nguyên đơn chỉ đi khai thác khách hàng, sau đó phía bị đơn sẽ ký hợp đồng trực
tiếp với các khách hàng, nguyên đơn nhận hoa hồng. Trong trường hợp nhượng
quyền thương mại thì phía nguyên đơn mới nhân danh nguyên đơn sử dụng nhãn
hiệu, thương hiệu của bị đơn ký hợp đồng trực tiếp với khách hàng thì mới dùng
đến thương hiệu của bị đơn.
- Tiền cọc 110.000.000 đồng bao gồm tiền cọc COD còn và tiền cọc đảm
bảo chất lượng.
- Khoản chênh lệch do phía bị đơn tự thay đổi chính sách giá hoa hồng của
tháng 01, 2, 3/2022. Cụ thể: Tháng 01 là 4.957.143 đồng; tháng 02 là 4.742.318
đồng; tháng 03 là 5.920.792 đồng. Tổng cộng là 15.620.253 đồng. Theo quy định
tại khoản 2 Điều 21 hợp đồng thì việc sửa đổi hợp đồng chỉ có hiệu lực nếu được
lập thành văn bản dưới dạng phụ lục và được ký kết bởi đại diện hợp pháp của
hai bên. Tuy nhiên, bị đơn thay đổi chính sách, tăng giá dịch vụ chuyển phát
nhanh thì chỉ thông báo cho nguyên đơn mà không được sự đồng ý của nguyên
đơn và cũng không được hai bên ký phụ lục về việc thay đổi này
4
- Phí sử dụng hệ thống số tiền 2.916.667 đồng (tương đương 3,5 tháng chưa
sử dụng) do bên bị đơn tự thay đổi chính sách nên phía nguyên đơn chấm dứt hợp
đồng trước hạn
Không yêu cầu giá trị vật tư, sửa chữa hiện còn
Tại biên bản lấy lời khai ngày 30/7/2024 và quá trình giải quyết tại Tòa án
đại diện theo ủy quyền của bị đơn ông Lưu Thanh Tâm trình bày: Công ty T xác
nhận ngày 15/08/2021 Công ty T, chi nhánh Bắc Ninh và Công ty TNHH Thương
mại dịch vụ chuyển phát nhanh TNT có ký Hợp đồng Đại lý thương mại. Công ty
T xác nhận về việc có ủy quyền và biết việc Công ty T, chi nhánh Bắc Ninh ký
hợp đồng với Công ty TNT và đồng ý việc này. Công ty T không đồng ý toàn bộ
yêu cầu của nguyên đơn. Đối với các khoản tiền Công ty TNT yêu cầu Công ty T
hoàn trả thì Công ty T chỉ đồng ý hoàn trả số tiền cọc code còn lại là 110.000.000
đồng, ngoài ra không đồng ý khoản nào khác do Công ty TNT tự ý đơn phương
chấm dứt hợp đồng.
Tại phiên tòa:
Đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn có mặt giữ nguyên yêu cầu khởi kiện
đề nghị Tòa án buộc bị đơn hoàn trả nguyên đơn tiền phí cọc COD và đảm bảo chất
lượng là 110.000.000 đồng; Phí giá trị thương hiệu là 110.000.000 đồng; Phí đào
tạo là 8.000.000 đồng; Phí sử dụng thương hiệu là 25.000.000 đồng; Phí sử dụng hệ
thống là 2.916.667 đồng; Tiền phạt vượt quá mức tối đa đã thu là khoản chênh lệch
do phía bị đơn tự thay đổi chính sách giá hoa hồng, tăng giá nên thù lao đại lý
của tháng 01, 02, 3/2022 phía nguyên đơn bị giảm so với giá trong hợp đồng. Cụ
thể: Tháng 01 là 4.957.143 đồng; tháng 02 là 4.742.318 đồng; tháng 03 là
5.920.792 đồng do Công ty T, chi nhánh Bắc Ninh khi tăng giá không lập văn
bản bổ sung và sửa đổi nào dưới dạng phụ lục được ký kết hợp lệ giữa hai bên theo
khoản 2 Điều 21 Hợp đồng mà chỉ gửi thông báo lên zalo cho nguyên đơn nên việc
điều chỉnh giá này là không hợp lệ, việc chấm dứt hợp đồng đã được thông báo
trước nên nguyên đơn đơn phương chấm dứt hợp đồng hoàn toàn phù hợp quy
định. Không yêu cầu bị đơn hoàn trả tiền giá trị vật tư/sửa chữa hiện còn là
28.317.152 đồng.
Đại diện ủy quyền của bị đơn có mặt giữ nguyên ý kiến trình bày, đồng ý
thanh toán tiền phí cọc COD và đảm bảo chất lượng là 110.000.000 đồng. Toàn bộ
chi phí còn lại phía bị đơn không đồng ý thanh toán do phí đào tạo và phí sử dụng
thương hiệu không được hoàn lại trong bất cứ hoàn cảnh nào. Phí đào tạo phía
Công ty đã thực hiện việc đào tạo thì phía nguyên đơn mới vận hành được việc
thực hiện dịch vụ nhưng bị đơn không cung cấp được tài liệu chứng cứ, chứng
minh cho việc thực hiện việc đào tạo, không có bản nghiệm thu chất lượng đào tạo.
Khi Công ty T, chi nhánh Bắc Ninh thay đổi chính sách thù lao đại lý đã thông báo
5
đến cho nguyên đơn. Việc thay đổi này không phải là sửa đổi hợp đồng nên không
phải lập văn bản bổ sung và sửa đổi dưới dạng phụ lục mà theo thảo thuận tại phụ
lục III hợp đồng thì Công ty T, chi nhánh Bắc Ninh được toàn quyền thay đổi mức
thù lao đại lý và việc thay đổi này chỉ cần thông báo cho nguyên đơn trước ít nhất
05 ngày mà không cần có sự đồng ý của nguyên đơn và phía Công ty T, chi nhánh
Bắc Ninh đã thông báo, nguyên đơn xác nhận đã được thông báo nên việc nguyên
đơn lấy lý do thay đổi mức thù lao đại lý chấm dứt hợp đồng trước hạn là không
phù hợp. Vậy, phía bị đơn không đồng ý thanh toán phí giá trị thương hiệu
110.000.000 đồng. Nguyên đơn không yêu cầu bị đơn hoàn trả tiền giá trị vật
tư/sửa chữa hiện còn là 28.317.152 đồng thì bị đơn không có ý kiến gì do toàn bộ
vật tư hiện vẫn do nguyên đơn quản lý.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bắc Ninh phát biểu về việc tuân
theo pháp luật tố tụng dân sự của Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử là đúng
theo Bộ luật tố tụng dân sự; việc chấp hành pháp luật tố tụng dân sự của nguyên
đơn, bị đơn là đảm bảo theo đúng quy định pháp luật.
Về nội dung: Căn cứ các điều 30, 38, 147, 271, 273 của Bộ luật
tố tụng dân sự; Điều 84, 117, 137, 138, 142, 143 của Bộ luật dân sự
2015; Điều 3, 24, 166, 168, 171, 177 Luật thương mại; Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban thường
vụ Quốc Hội.
Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Công ty TNHH Thương mại dịch
vụ chuyển phát nhanh TNT.
Buộc Công ty TNHH MTV Chuyển phát nhanh T hoàn trả cho Công ty
TNHH Thương mại dịch vụ chuyển phát nhanh TNT số tiền đặt cọc COD, đảm bảo
chất lượng và chi phí hỗ trợ đào tạo tổng cộng là: 118.000.000 đồng.
Không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn về việc yêu cầu bị đơn hoàn trả số
tiền phí sử dụng thương hiệu, hệ thống, giá trị thương hiệu và phạt hợp đồng tổng
cộng là 153.536.920 đồng.
Đình chỉ yêu cầu hoàn trả tiền vật tư số tiền 28.317.153 đồng.
Về án phí: Nguyên đơn, bị đơn phải chịu án phí kinh doanh thương mại sơ
thẩm theo quy định pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, lời khai của nguyên
đơn, bị đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan và kết quả tranh tụng tại Tòa
án Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng:
6
- Về quan hệ pháp luật tranh chấp: Công ty TNHH Thương mại dịch vụ
chuyển phát nhanh TNT và Công ty TNHH MTV Chuyển phát nhanh T đều là tổ
chức có đăng ký kinh doanh, giao kết hợp đồng đều vì lợi ích lợi nhuận và tranh
chấp phát sinh từ hợp đồng kinh tế là hợp đồng đại lý thương mại ngày 15/8/2021
về việc làm đại lý nhận và phát hàng. Vì vậy, xác định đây là vụ án kinh doanh
thương mại về “Tranh chấp hợp đồng đại lý” theo Điều 24 Luật thương mại 2005
nên yêu cầu khởi kiện của TNHH Thương mại Dịch vụ chuyển phát nhanh TNT
Express thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại khoản 1 Điều 30,
điểm b khoản 1 Điều 35 của Bộ luật tố tụng dân sự.
- Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Bị đơn là Công ty TNHH MTV Chuyển
phát nhanh T. Tuy nhiên, tranh chấp phát sinh do hoạt động của chi nhánh tổ chức
là Công ty TNHH MTV Chuyển phát nhanh T, chi nhánh Bắc Ninh có trụ sở tại
phường Võ Cường, thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh ký kết hợp đồng đại lý với
Công ty TNT. Vậy, Tòa án nhân dân thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh thụ lý giải
quyết là đúng thẩm quyền theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 40 của Bộ luật tố
tụng dân sự.
- Về thời hiệu khởi kiện: Ngày 18/4/2022 nguyên đơn đã gửi Công văn số
01/TNT-CV về việc chấm dứt hợp đồng trước hạn và hoàn trả tiền. Ngày 28/4/2022
Công ty TNHH MTV Chuyển phát nhanh T, chi nhánh Bắc Ninh có công văn phản
hồi số 2604/2022/CV-JTBN về việc không đồng ý chấm hứt hợp đồng và hoãn
tiền. Thời hiệu khởi kiện vụ án tranh chấp thương mại là 02 năm kể từ ngày quyền
và lợi ích bị xâm phạm. Ngày 25/9/2023 Công ty TNT khởi kiện là còn thời hiệu
khởi kiện theo luật định.
[2] Về nội dung:
Hội đồng xét xử xét thấy, hợp đồng hợp đồng đại lý ngày 15/8/2021 được ký
người đại diện theo pháp luật của Công ty TNT và Công ty T, chi nhánh Bắc Ninh
là những người đủ năng lực dân sự, việc ký hợp đồng là tự nguyện, mục đích hợp
đồng không trái pháp luật, đạo đức xã hội. Quá trình giải quyết, nguyên đơn, bị đơn
đều không cung cấp được tài liệu chứng cứ, chứng minh về việc Công ty T, chi
nhánh Bắc Ninh xác lập, thực hiện giao dịch với Công ty TNT trong phạm vi đại
diện. Tuy nhiên, phía được đại diện là Công ty T xác nhận trước và sau khi ký hợp
đồng đều được phía chi nhánh báo cáo và Công ty T công nhận giao dịch này. Nội
dung, hình thức phù hợp với quy định của pháp luật nên có hiệu lực thi hành. Vì
vậy, hợp đồng có hiệu lực pháp luật theo quy định tại Điều 117, 142, 143 Bộ luật
dân sự và Điều 3, 24, 168 Luật thương mại.
Quá trình thực hiện hợp đồng nguyên đơn, bị đơn đều thừa nhận nguyên đơn
thực hiện hợp đồng đến hết tháng 03/2024 thì nguyên đơn không tiếp tục thực hiện
hợp đồng nữa. Ngày 18/4/2022 nguyên đơn đã gửi Công văn số 01/TNT-CV về
việc chấm dứt hợp đồng trước hạn và hoàn trả tiền. Ngày 28/4/2022 Công ty
TNHH MTV Chuyển phát nhanh T, chi nhánh Bắc Ninh có công văn phản hồi số
7
2604/2022/CV-JTBN về việc không đồng ý chấm dứt hợp đồng trước hạn và hoàn
trả tiền.
Xét các yêu cầu của nguyên đơn về việc yêu cầu bị đơn hoàn trả các khoản
tiền gồm:
[2.1] Về số tiền đặt cọc: Nguyên đơn yêu cầu bị đơn hoàn trả số tiền
110.000.000 đồng là tiền đặt cọc để đảm bảo chất lượng theo Điều 5 Phụ lục III
Hợp đồng và khoản cọc COD sau khi khấu trừ khoản cọc COD Công ty T, chi
nhánh Bắc Ninh đã hoàn trả. Bị đơn xác nhận số tiền đặt cọc sau khi khấu trừ còn
lại là 110.000.000 đồng và đồng ý hoàn trả nên cần chấp nhận yêu cầu nguyên đơn
là phù hợp.
[2.2] Về phí hỗ trợ đào tạo là 8.000.000 đồng: Hội đồng xét xử xét thấy, theo
Điều 10 của Hợp đồng quy định về đào tạo vận hành thì sau khi kí kết hợp đồng thì
phía nguyên đơn cử người đại diện tham gia và hoàn thành chương trình đào tạo
ban đầu mà không phải trả học phí và lệ phí. Trường hợp nguyên đơn có nhu cầu
đào tạo lại nhân sự thì phải có đơn và chịu toàn bộ chi phí đào tạo. Tại Điều 5.1.2
Phụ lục III quy định: “Phí đào tạo: thanh toán theo kỳ hạn 1 năm, trong quá trình
hợp tác khi Công ty TNT có nhu cầu về đào tạo, Công ty T sẽ cung cấp đào tạo
tương ứng theo nhu cầu của Công ty TNT”. Như vậy, chi phí đào tạo là chi phí đào
tạo ban đầu nhưng phía bị đơn không đưa ra được căn cứ chứng minh về việc đã
mở lớp đào tạo hay tổ chức hội thảo, hội nghị hoặc các chương trình phát triển và
đã nghiệm thu chất lượng chương trình đào tạo cho nguyên đơn. Vậy, nguyên đơn
yêu cầu bị đơn phải hoàn trả lại phí đào tạo do chưa thực hiện việc đào tạo là có
căn cứ nên cần chấp nhận.
[2.3] Về phí sử dụng thương hiệu và phí sử dụng hệ thống do tính đến thời
điểm đề nghị chấm dứt, Hợp đồng đại lý mới chỉ thực hiện 8,5 tháng. Trong đó: Phí
sử dụng hệ thống: 10.000.000 đồng/năm, tổng thời gian thực hiện hợp đồng thực tế
là: 8,5 tháng, số tiền hoàn trả lại là 2.916.667 đồng. Phí sử dụng thương hiệu theo
đơn khởi kiện thì nguyên đơn yêu cầu số tiền hoàn trả lại là 25.000.000 đồng/12
tháng x 3,5 tháng = 7.291.667 đồng do khi ký hợp đồng nguyên đơn đã nộp
25.000.000 đồng/ năm, thời gian nguyên đơn thực hiện hợp đồng thực tế là 8,5
tháng. Tuy nhiên, tại bản tự khai và tại phiên tòa nguyên đơn thay đổi yêu cầu đề
nghị bị đơn hoàn trả toàn bộ phí sử dụng thượng hiệu là 25.000.000 đồng do phí sử
dụng thương hiệu chỉ được áp dụng trong hoạt động nhượng quyền thương mại mà
giữa nguyên đơn và bị đơn là ký kết hợp đồng đại lý nên việc thu phí này là không
phù hợp.
Hội đồng xét xử xét thấy, tại mục 5.1.3 Phụ lục III của hợp đồng thì “Phí sử
dụng thương hiệu, phí sử dụng hệ thống được thanh toán cùng với phí tham gia đại
8
lý thương mại, phí sử dụng thương hiệu và phí sử dụng hệ thống sẽ được xuất hóa
đơn và không được hoàn lại dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào”. Ngoài ra, việc nguyên
đơn cho rằng do hai bên Công ty ký kết hợp đồng đại lý, chứ không phải hợp đồng
nhượng quyền thương mại nên phía Công ty T, chi nhánh Bắc Ninh không được
phép thu phí trên vì đây là hợp đồng đại lý nguyên đơn chỉ đi khai thác khách hàng,
sau đó phía bị đơn sẽ ký hợp đồng trực tiếp với các khách hàng, nguyên đơn nhận
hoa hồng, chỉ khi nào hai bên ký hợp đồng nhượng quyền thương mại thì phía
nguyên đơn mới nhân danh bị đơn và sử dụng nhãn hiệu, thương hiệu của bị đơn để
ký hợp đồng trực tiếp với khách hàng thì mới dùng đến thương hiệu của bị đơn là
không phù hợp do việc ký kết hợp đồng là sự tự nguyện của các bên. Việc nguyên
đơn ký hợp đồng đại lý và đồng ý thanh toán phí sử dụng thương hiệu và hệ thống
là sự tự nguyện của nguyên đơn, không trái quy định pháp luật nên có hiệu lực thi
hành đối với các bên.
Như vậy, theo thỏa thuận của các bên thì việc hợp đồng chấm dứt do lỗi của
bất cứ bên nào đều thì phía bị đơn đều không phải hoàn trả lại phí sử dụng thương
hiệu và phí sử dụng hệ thống nên yêu cầu hoàn trả của nguyên đơn là không có cơ
sở chấp nhận.
[2.4] Về phí giá trị thương hiệu: Đề nghị hoàn 100% số tiền đã nộp là
110.000.000 đồng. Do Công ty TNT cho rằng Công ty chỉ thực hiện bán dịch vụ
cho Công ty T với danh nghĩa đại lý, tất cả khách hàng Công ty TNT tìm kiếm
được đều do Công ty T, chi nhánh Bắc Ninh ký Hợp đồng dịch vụ trực tiếp, còn
Công ty TNT chỉ hưởng thù lao là mức chênh lệch giá cước vận chuyển giữa giá
cước Công ty T, chi nhánh Bắc Ninh áp dụng cho nguyên đơn so với giá cước
nguyên đơn thỏa thuận với khách hàng khi đi khai thác khách hàng. Chỉ khi nào
Công ty TNT trực tiếp ký hợp đồng với khách hàng thì mới nhân danh bị đơn và sử
dụng nhãn hiệu, thương hiệu. Ngoài ra, Công ty TNT cũng chưa có bất kì hành
động nào tổn thất thương hiệu Công ty T và phí giá trị thương hiệu nguyên đơn chỉ
phải thanh toán khi hai bên ký kết hợp đồng nhượng quyền thương hiệu. Bị đơn
không đồng ý do nguyên đơn tự ý chấm dứt hợp đồng.
Hội đồng xét xử xét thấy, tại điều 3 hợp đồng đại lý thì khi nguyên đơn tìm
kiếm khách hàng thì phía Công ty TNT dùng danh nghĩa và thương hiệu của Công
ty T để tìm kiếm, khai thác khách hàng sau đó cung cấp thông tin khách hàng, giá
cả, chính sách... cho phía Công ty T, chi nhánh Bắc Ninh, sau đó phía Công ty T,
chi nhánh Bắc Ninh sẽ duyệt giá và soạn hợp đồng. Việc nguyên đơn cho rằng
không sử dụng đến thương hiệu của bị đơn là không phù hợp. Ngoài ra, hợp đồng
là sự thoả thuận giữa các bên tự nguyện tham gia giao kết với hình thức, nội dung
tuân thủ quy định pháp luật, không trái đạo đức xã hội. Hai bên đã cùng tự nguyện
9
ký kết hợp đồng, Công ty TNT đã đọc, hiểu và tự nguyện ký kết hợp đồng tức là đã
phải biết và đồng ý với khoản phí giá trị thương hiệu này và việc hai bên thỏa thuận
thanh toán phí giá trị thương hiệu hoàn toàn không vi phạm điều cấm của pháp luật
về việc trong hợp đồng đại lý thì không được thực hiện hoạt động như sử dụng
thương hiệu. Theo Điều 177 Luật thương mại thì việc chấp dứt hợp đồng đại lý
không sớm hơn 60 ngày kể từ ngày một trong hai bên thông báo bằng văn bản cho
bên kia về việc chấm dứt hợp đồng đại lý. Việc nguyên đơn yêu cầu chấm dứt hợp
đồng đại lý sớm hơn 60 ngày kể từ ngày ra thông báo là không phù hợp quy định
nên yêu cầu hoàn lại 110.000.000 đồng phí giá trị thương hiệu của Công ty TNT là
không có căn cứ chấp nhận.
[2.5] Về giá trị vật tư/sửa chữa hiện còn: Tại biên bản ghi lời khai ngày
31/8/2024 và tại phiên tòa phía nguyên đơn rút yêu cầu đề nghị hoàn 28.317.152
đồng (khấu trừ khấu hao tài sản theo quy định hiện hành) là tự nguyện nên cần đình
chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Nguyên đơn có quyền yêu cầu
Toà án giải quyết lại theo quy định của pháp luật.
[2.6] Về tiền phạt: Nguyên đơn cho rằng Hợp đồng đã ký có nhiều mức phạt
Hợp đồng vượt quá mức tối đa cho phép là 8% giá trị hợp đồng, Công ty TNT yêu
cầu Công ty T hoàn trả toàn bộ số tiền phạt vượt quá mức tối đa đã thu của Công ty
TNT. Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa phía nguyên đơn xác định mức 8%
này là khoản chênh lệch do phía Công ty T, chi nhánh Bắc Ninh tự thay đổi chính
sách giá hoa hồng của tháng 01, 02, 03/2022 nên số tiền thù lao đại lý hay còn gọi
là tiền hoa hồng của Công ty TNT được hưởng bị giảm của các tháng 01, 02,
3/2024 tổng cộng là 15.620.253 đồng, cụ thể: tháng 1 là 4.957.143 đồng; tháng 2 là
4.742.318 đồng; tháng 3 là 5.920.792 đồng do Công ty T, chi nhánh Bắc Ninh tự ý
thay đổi giá mà không có văn bản bổ sung và sửa đổi nào dưới dạng phụ lục được
ký kết hợp lệ giữa hai bên theo khoản 2 Điều 21 Hợp đồng. Bị đơn không đồng ý
do việc thay đổi thù lao đại lý phía Công ty T, chi nhánh Bắc Ninh được toàn
quyền thay đổi theo khoản 2 phụ lục III hợp đồng và phía nguyên đơn đã tự ý chấm
dứt hợp đồng.
Hội đồng xét xử xét thấy: Tại đơn khởi kiện đối với mức phạt hợp đồng thì
phía nguyên đơn không đưa ra được yêu cầu cụ thể về việc yêu cầu mức phạt hợp
đồng đối với vấn đề gì, cụ thể bao nhiêu tiền và căn cứ chứng minh cho yêu cầu
của mình. Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa nguyên đơn cho rằng mức
phạt này là số tiền thù lao đại lý được hưởng tính theo đơn giá trong hợp đồng
nhưng phía Công ty T, chi nhánh Bắc Ninh tự ý thay đổi áp dụng mức giá thù lao
đại lý mới tháng 01, 02, 3/2022 nên số tiền thù lao đại lý đượng hưởng bị giảm
tổng cộng là 15.620.253 đồng nhưng theo Phụ lục III hợp đồng thì phía Công ty T,
10
chi nhánh Bắc Ninh được toàn quyền thay đổi các quy định về thù lao đại lý bao
gồm nhưng không giới hạn mức thù lạo, điều kiện hưởng thù lao và Công ty T, chi
nhánh Bắc Ninh chỉ cần thông báo lại cho nguyên đơn. Phía nguyên đơn xác nhận
đã nhận được thông báo của Công ty T, chi nhánh Bắc Ninh qua zalo. Như vậy,
việc Công ty T, chi nhánh Bắc Ninh thay đổi mức thù lao hoàn toàn phù hợp với
quy định và sự thỏa thuận của các bên nên yêu cầu của nguyên đơn là không có căn
cứ để chấp nhận.
[4] Về án phí: Yêu cầu của nguyên đơn được chấp nhận một phần. Nguyên
đơn phải chịu án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm đối với phần không được
chấp nhận.
Bị đơn phải chịu án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm theo quy định pháp
luật đối với phần khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ các Căn cứ các điều 30, 38, 147, 271, 273 của Bộ luật tố
tụng dân sự;
Căn cứ điều 84, 117, 137, 138, 142, 143 của Bộ luật dân sự 2015;
Căn cứ điều 3, 24, 166, 168, 171, 177 Luật thương mại;
Căn cứ nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của
Uỷ ban thường vụ Quốc Hội.
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Công ty TNHH Thương mại
dịch vụ chuyển phát nhanh TNT.
Buộc Công ty TNHH MTV Chuyển phát nhanh T hoàn trả cho Công ty
TNHH Thương mại dịch vụ chuyển phát nhanh TNT số tiền đặt cọc COD, đảm bảo
chất lượng và chi phí hỗ trợ đào tạo tổng cộng là: 118.000.000 đồng.
Không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn về việc yêu cầu bị đơn hoàn trả số
tiền phí sử dụng thương hiệu, hệ thống, giá trị thương hiệu và phạt hợp đồng tổng
cộng là 153.536.920 đồng
Đình chỉ yêu cầu hoàn trả tiền vật tư số tiền 28.317.153 đồng.
Kể từ khi bản án có hiệu lực pháp luật và người được thi hành án có đơn yêu
cầu thi hành án, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu lãi suất của số tiền
phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357 và khoản 2 Điều 468 Bộ
luật dân sự 2015 tương ứng với thời gian chưa thi hành án tại thời điểm thanh toán.
2. Về án phí: Công ty TNHH MTV Chuyển phát nhanh T phải chịu
5.900.000 đồng án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm.
11
Công ty TNHH Thương mại dịch vụ chuyển phát nhanh TNT phải chịu
7.676.846 đồng án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm. Xác nhận Công ty TNHH
Thương mại dịch vụ chuyển phát nhanh TNT đã nộp 3.663.000 đồng tiền tạm ứng
án phí tại biên lai thu ký hiệu: BLTU/23, số: 0000492 ngày 28/11/2023 của Chi cục
Thi hành án dân sự thành phố Bắc Ninh.
3. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn, người đại diện hợp pháp của
nguyên đơn, bị đơn có mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ
ngày tuyên án sơ thẩm.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án
dân sự thì người được thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền
yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật
thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30
Luật thi hành án.
Nơi nhận:
-TAND tỉnh Bắc Ninh;
-VKSND tỉnh Bắc Ninh;
-VKSNDTP Bắc Ninh;
- Chi cục THADS TP. Bắc Ninh;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ: Văn phòng.
T.M HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Đỗ Thanh Ngọc
12
13
Tải về
Bản án số 18/2024/KDTM-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 18/2024/KDTM-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 17/07/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 16/07/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Bản án số 10/2024/KDTM-PT ngày 28/05/2024 của TAND tỉnh Tiền Giang về tranh chấp về đại diện, đại lý
Ban hành: 28/05/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Bản án số 07/2024/KDTM-PT ngày 26/04/2024 của TAND tỉnh Tiền Giang về tranh chấp về đại diện, đại lý
Ban hành: 26/04/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 05/04/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 07/03/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 06/03/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 27/12/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 26/09/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 22/06/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 04/05/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 17/03/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 15/02/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 28/09/2022
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 27/09/2022
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 22/09/2022
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 20/09/2022
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 28/07/2022
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 22/07/2022
Cấp xét xử: Sơ thẩm